Như
một lời tri ân chân thành đến tất cả các chiến sĩ Không Quân của KLVNCH
đã ngày đêm tích cực yểm trợ Liên Đoàn 81 BCND chiến đấu để bảo vệ quê
hương gấm vóc và hai chữ "Tự Do" ...
Cho tôi xin dù chỉ một lần
Mơ làm cánh én giữa trời Xuân
Tang bồng hồ thỉ mang chí lớn
Rạng giống Tiên Rồng lính Không Quân
Những Cánh Thép Ngày Trước...
Công
ty tôi đang làm nằm trên con đường Mirama Road, sát nách một phi trường
lớn của Thuỷ Quân Lục Chiến Mỹ, nên bắt buộc mỗi ngày tôi phải đi và về
trên con đường này. Và ngày nào cũng vậy, lộ trình của tôi đều đi qua
khu bảo tàng Không Quân chứa đầy các loại phi cơ, từ thời có lỗ sĩ, từ
thời tôi chưa được sinh ra trên cõi đời, cho đến những chiếc phi cơ của
thời Đệ Nhị Thế Chiến và thời chiến tranh Việt Nam.
Cái
khu bảo tàng này lại nằm sát đường chỉ cách một cái hàng rào bằng lưới
chống B-40 (chain link fence). Mỗi lần đi qua khu vực này, tôi đều lái
xe chậm lại và không khỏi liếc nhìn vào đó dù tôi đã quá quen thuộc với
những loại phi cơ đang nằm phơi trên bãi đậu.
Từ
những chiếc Avia B 534, Bell P-39 Airacobra từ những năm 1934...đến
những chiếc Gruman Hellcat hay Bearcat, những chiếc F-5, Skyraider cho
đến những chiếc trực thăng trái chuối CH-46 đầu tiên, H-34 nặng nề,
chiếc UH1, Cobra ...và cả chiếc L-19 Bird Dog mong manh rất quen thuộc
với tôi. Ngoài ra mỗi ngày tôi còn phải nghe tiếng gầm rú của các loại
phi cơ chiến đấu cất cánh và hạ cánh mỗi giờ, những ngày không khí ẩm
thấp, tiếng cánh quạt của nhiều loại trực thăng nặng nề vang dội trên
đầu đã thực sự gây cho tôi nhiều ấn tượng nhất.
Vì
đó là những tiếng động đã quá quen thuộc với tôi hầu như đã tiềm ẩn
trong trí nhớ tôi và không thể xóa nó đi được dù 37 năm đã trôi qua kể
từ khi tôi giã từ cái nghiệp lính.
Năm
nay tôi đã bước vào tuổi 75, vẫn phải đi làm, ngoài việc tiếp tục kiếm
sống qua ngày trên mảnh đất tạm dung nầy, còn để ngăn ngừa sự thoái hóa
của bộ óc càng ngày càng già nua ...để rồi hủy hoại hết những điều cần
phải nhớ. Tuổi già thì thường hay nói nhiều, nhớ nhiều về dĩ vãng. Thật
ra con cháu tôi, chúng cũng thông cảm vì giờ đây tương lai của tôi, chỉ
là đang bước dần tôi trạm cuối cùng, là cái nghĩa trang lạnh lùng nào
đó.
Tôi
là một người lính sống sót sau 15 năm khói lửa, 13 năm tù đày trong các
trại tù khổ sai của cộng sản việt nam từ Bắc chí Nam, từ trại kỷ luật
đến xà lim Chí Hòa. Thử hỏi cuộc đời của tôi còn lại gì ?
Cái
gia tài của người lính như tôi còn lại há không phải là quá khứ của 15
năm trong quân đội hay sao? 15 năm trong một đời người như chúng ta,
những người lính đã sống qua cuộc chiến ác liệt, đầy máu và nước mắt,
vinh có nhục có và đôi khi buồn nhiều hơn vui, dù muốn quên cũng khó
quên.
Ngay
từ những năm đầu ở Trung Học, tôi đã rất ngưỡng mộ Không Quân dù chỉ
qua hình ảnh của các anh phi công Mỹ, Pháp và Anh trong thời kỳ Thế
Chiến thứ hai và trong thời gian chiến tranh Việt Nam vào những năm 50.
Sau này khi bước chân vào bậc Trung Học Đệ Nhất Cấp tôi đã có ý định sau
khi tốt nghiệp Trung Học tôi sẽ xin gia nhập vào Không Quân Việt Nam.
Những mộng không thành vì khi khám sức khỏe ở Bệnh Viện Cộng Hòa tôi mới
phát giác ra là thị lực của con mắt phải của tôi chỉ có 7/10. Thế là vỡ
mộng, nhìn bạn bè rộn ràng lên đường gia nhập Quân Chủng Không Quân mà
thấy tủi thân. Cuối cùng đành phải chấp nhận cái thân phận chui bờ chui
bụi của cái lính đánh trộm là Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù.. May cũng
nhờ quen thuộc lối đánh trộm (đôi khi chúng tôi cũng ăn trộm được nhiều
kho vũ khí và lương thực của địch) nên cũng có chút tiếng tăm và chiến
công góp phần với các quân binh chủng bạn, đã làm cho kẻ địch suy yếu.
Nhưng nếu nói đến cái đơn vị bé tí teo và những chiến tích mà chúng tôi
đã lập được cũng nhờ những đôi cánh thép, như một thứ bùa hộ mạng, như
cái ô dù che chở trên đầu chúng tôi. Những đôi cánh thép đã mang chúng
tôi đi hầu hết các chiến trường (ngoại trừ vùng IV chiến thuật vì lính
BCD 81 không biết bơi).
Đã
bao lần không quản ngại trước lưới lửa phòng không của địch tua tủa như
pháo bông để mang chúng tôi và xác đồng đội ra khỏi vùng vây địch. Qua
hàng trăm cuộc hành quân, những đôi cánh thép đã mặc nhiên như gắn ngay
sau lưng chúng tôi, đã chắp cho chúng tôi đôi cánh thép. Đơn vị của
chúng tôi đã gắn liền với Quân Chủng Không Quân của các bạn..
Xin
cho chúng tôi được hân hạnh nhận các chiến hữu Không Quân là bạn để dễ
bể tâm sự và để nói hết những điều cần nói sau 37 năm dài. Vì không nói
ra lúc này sẽ không có dịp nào để nói, giữa chúng ta từ lâu đã cư xử với
nhau rất mực huynh đệ chi binh, nhưng cũng đầy hào khí giang hồ. Tôi sẽ
không nhắc lại những chiến công oanh liệt của các bạn hay của chúng
tôi. Tôi chỉ muốn nhắc lại những người đi vào chiến tranh với dáng vẻ
hào hoa phong nhã, lúc nào quân phục cũng sạch bóng, trang bị nhẹ nhàng
không giống như đám chúng tôi bao giờ cũng vậy hễ xuất quân là quần áo
rằn ri, lôi thôi lếch thếch...nào là ba lô, súng ngắn, súng dài, giây
nhợ quanh người, lựu đạn lủng lẳng đằng truớc, đằng sau. Mỗi lần được
bốc ra khỏi vùng hành quân thì ôi thôi khỏi nói, dù có yêu tôi cách mấy
cũng chỉ đúng xa mà chào mừng chứ chưa ai dám ôm hôn tôi thắm thiết.
Mười lăm ngày hay một tháng luồn lách qua bờ bụi, lên xuống đồi núi dưới
cái nắng nóng ẩm, mồ hôi rơi xuống mờ cả mắt lau không kịp. Bộ đồ trận
lúc nào cũng đẫm ướt mồ hôi nhiều khi chẩy theo hai bắp chân xuống đôi
giày đi rừng.
Đêm
nằm trên chiếc poncho gấp đôi, mồ hôi vẫn còn đọng ướt cả lưng. Cứ như
thế ngày này sang ngày khác, bộ đồ trận ướt rồi khô, bao nhiêu mùi hôi
đều thấm sâu vào vải áo quần. May mắn lắm mới qua được một con suối còn
lại chút nước, vội vàng múc cho đầy 2 bị đông nước, xong cùng nhảy xuống
hụp cho ngập đầu rồi lại tiếp tục đi.
Ấy
là những ngày không chạm địch, còn có thời gian ngồi xuống để thay một
đôi vớ đã bốc mùi khó chịu. Những lần chạm địch thì coi như được phép
quên đi những khó chịu hàng ngày, quên đi mình đã chưa ăn gì suốt một
ngày qua, đã chưa uống một ngụm nước. Tàn cuộc thằng hay thua, lúc ấy
mới biết mình còn đủ mồm miệng để ăn vội bọc cơm xấy. Còn các bạn tôi
thật khỏe, ngồi trong buồng lái tha hồ tung hoành ngang dọc, hết phi vụ
quay về phi trường, đi thẳng vào Câu Lạc. Bộ làm một ly cà phê đá, khỏe
re trong lúc chờ cho các chuyên viên "check" tàu, tái trang bị bom đạn,
"rocket" để chờ phi vụ tiếp theo.
Chưa
nói đến vài ngày chúng tôi được xả hơi sau mỗi cuộc hành quân, cởi được
bộ đồ hôi hám, thay vào một bộ quân phục mới để cùng xuống phố phường
uống vài chai "33"cho đã bù lại những ngày phải uống nước sông nước
suối. Nhưng nếu có xuống phố hay buổi tối tạt vào một tiệm nhảy nào lại
đụng mấy bạn, và bao giờ chúng tôi cũng lép vế, lép về về đủ mọi phương
diện. Đôi khi có một tí tình còm để an ủi những hễ chấm được cô nào vừa ý
là y như rằng đã có một ông Không Quân nào sắp sửa rước đi rồi !!!
Nói
cho vui vậy thôi chớ vội cho rằng chúng tôi đả kích các bạn nhé, thua
thì thua rồi.. Xưa còn trẻ đã không thắng các bạn, nay đầu đã bạc, chân
mỏi gối mòn, hơi sức đâu mà ganh với đua . Trước khi nhắc lại những kỷ
niệm đã qua, xin cho tôi nhắc lại một câu chuyện sau.
Vào
tháng 1 năm 1975 khi Biệt Đoàn chúng tôi được lệnh tăng viện cho Tiểu
Khu Phước Long, lúc này đang bị trên một sư đoàn địch vây hãm, các đơn
vị địa phương hầu như đã tan hàng. Nói là Biệt Đoàn nhưng thật ra chỉ có
2 Biệt Đội 811, 814 và Bộ Chỉ Huy, tổng cộng khoảng 320 nguời. Không
Đoàn 43 Chiến Thuật thuộc Sư Đoàn 3 Không Quân là đơn vị yểm trợ và đổ
quân, dưới cơn mưa pháo 105 ly, 155 ly, hỏa tiễn 122 ly và súng cối, các
phi đoàn trực thăng đã hoàn thành nhiệm vụ một cách phi thường với tổn
thất không đáng kể.
Đích
thân Chỉ Huy Trưởng của tôi, cựu Đ/Tá Phan Văn Huấn và Đ/Tá Triệu đã
trực tiếp chỉ huy cuộc đổ quân. Nhìn từ trên trực thăng xuống thị xã
Phước Long tôi nghĩ khó mà đáp được vì cả thị xã ngập trong khói lửa của
đủ loại pháo chưa kể hỏa lực phòng không của địch tua tủa bắn lên đây
trời với đủ loại từ đại liên 50,súng cá nhân, 23 ly và 37 ly. Tiếng đạn
pháo nổ dưới đất cộng tiếng các loại phòng không nổ ngang trời nhắm vào
các phi tuấn A-37 va F-5 đang cố thả những trái bom và bắn rocket yểm
trợ cho cuộc đổ quân vang rền cả một vùng trời.
Tôi
chỉ còn trông cậy vào tài bay bổng của các bạn đưa tôi an toàn xuống
đất, chỉ cần chúng tôi đặt được chân xuống đất, dù chưa biết sau đó sẽ
ra sao. Và thật như một phép lạ, cả hai lần đổ quân đều trót lọt, tất cả
đều nhờ tài khôn ngoan của phi hành đoàn. Thay vì đáp ngay xuống thị
xã, các phi hành đoàn của Không Đoàn 43 Chiến Thuật đã đáp xuống cạnh
các khe suối cạnh thị xã, là những nơi khuất tầm quan sát của các tiền
sát viên địch. Địch đã bố trí quanh khu vực Phước Long một trung đoàn
phòng không với đủ mọi loại súng từ 12 ly 8 đến 23 ly và 37 ly. Tiền sát
viên của địch ở khắp nơi, nhất là đỉnh núi Bà Rá đã bị địch chiếm mấy
ngày trước. Biệt Đoàn I Chiến Thuật của tôi chỉ gồm có Bộ Chỉ Huy và 2
Biệt Đội (Biệt Đoàn -), không quá 300 người. Lực lượng trú phòng của
Tiểu Khu Phước Long và các đơn vị tăng phái không còn bao nhiêu.
Tiểu
Đoàn 7 thuộc Trung Đoàn 9 của Sư Đoàn 5 chỉ còn không quá 100, Đại Đội 5
Trinh Sát, Sư Đoàn 5 chỉ còn hơn 10 người đã dạt vào đơn vị tôi, Đại
Đội Trinh Sát Sư Đoàn 18 Bộ Binh còn Đại Đội Trưởng và hơn một trung
đội. Hai Tiểu Đoàn Địa Phuơng Quân đã tan hàng, quân nhân còn lại cũng
lẫn lộn trong hàng rào phòng thủ của Biệt Đội 811 của tôi. Cộng chung
lại không quá 500 tay súng để chọi lại với lực lượng địch trên 10 ngàn
với đủ bộ xe pháo mã tốt. F-5 và A-37 vẫn yểm trợ tích cực nhưng với một
hệ thống phòng không chằng chịt không thể xuống thấp để có thể đánh bom
chính xác hơn. Từ dưới đất tôi thấy chỉ một chút sơ hở là những chiếc
F-5 và A-37 kia sẽ vỡ tung, có một vài trái bom đã rơi vào vị trí bạn
...phải chấp nhận thôi .Dù sao sự hiện diện của những chiếc phi cơ này
cũng khiến dịch không dám điều động thiết giáp tiến sát đến vị trí chúng
tôi. Dân và lính bỏ đơn vị tràn ngập vị trí chúng tôi khiến không thể
nào kiểm soát được, tuy vậy chúng tôi vẫn đẩy lui được nhiều đợt xung
phong của địch và đã hạ được 4 chiến xa địch.
Vào
lúc choạng vạng tối ngày 5 tháng 1 năm 1975, chiến xa địch và bộ binh
tiến sát vị trí Bộ Chỉ Huy của tôi, sau đợt pháo 130 ly, 155 ly, 122 lý
và 105 ly, chúng thả một toán đặc công vào 2 lô cốt trống , nhờ phát
giác kip thời nên đã bị tiêu diệt ngay sau đó.
Suốt
trong thời gian từ ngày 4 tháng 1 năm 1975 đến ngày 6 tháng 1 năm 1975,
không lúc nào địch ngưng pháo vào vị trí chúng tôi, chúng mở nhiều đợt
tấn công có chiến xa yểm trợ mong tiến sát vào vị trí chúng tôi. Sáng
ngày 5 tháng 1 năm 1975, tôi đơn phương quyết định không cho C-130 thả
dù tiếp tế nữa vì 1/2 khu vực thị xã đã rơi vào tay địch trước đó 2
ngày. Hầu như 9/10 những kiện hàng tiếp tế đều rơi vào tay địch, các phi
vụ oanh kịch không hiệu quả, không còn pháo binh yểm trợ, không tiếp
viện. Ở tại Quân Đoàn III, Trung Tướng Dư Quốc Đống từ chối lệnh thả
phần còn lại của Liên Đoàn 81 BCND. Trong tình thế này, tôi buộc phải
cho lệnh đơn vị rút khỏi Phước Long để bảo toàn đơn vị, tôi đã phải để
lại hơn 60 xác đồng đội tại đây. Một điều đau đớn chưa bao giờ xảy ra
trong lịch sử của đơn vị tôi. Tôi đã phải phân tán đơn vị tôi thành từng
toán nhỏ, lợi dụng đêm tối, vượt qua hàng rào bao vây của địch để thoát
ra ngoài. Phước Long thất thủ vào sáng ngày 6 tháng 1 năm 1975.
Trong
lúc đơn vị tôi còn đang tìm cách vượt qua vòng vây của địch thì ngày 7
tháng 1 năm 1975 đã có một buổi họp cao cấp của Quân Đội, giống như tòa
án quân sự, họ cố gán ghép việc thất thủ Phước Long là do lỗi của Không
Đoàn 43 Chiến Thuật thuộc Sư Đoàn III Không Quân Biên Hòa. Thật là vô
cùng phi lý nếu không nói là ngược ngạo. Trong khi các phi cơ của các
Phi Đoàn Trực Thăng 221, 223, 231 237 ... phi cơ L-19 còn đang bay tìm
kiếm và bốc các toán đã vượt qua được vòng vây địch thì tại hậu phương
họ đang bị kết tội.
Trách
nhiệm làm mất Phước Long nếu nói thuộc về tôi, người đã tự quyết định
rút khỏi Phước Long, cao hơn là vì chỉ huy trực tiếp của tôi đã không
buộc tôi phải hy sinh cả đơn vị để cố thủ một vị trí mà gần như đã hoàn
toàn chiếm giữ bởi quân địch. Chúng tôi còn sống sót không trách cứ bất
cứ cấp chỉ huy nào. Người lính chỉ biết tuân hành mệnh lệnh nhưng rõ
ràng trách nhiệm làm mất Phước Long thuộc về người đã ra lệnh thả một
đơn vị 300 người vào chỗ cầm chắc 90% để thua về một mục đích chính trị.
Một ván bài tháu cáy, và đã thua, là khởi sự cho sự sụp đổ sau này.
Tôi
đã ghi ở phần trước là giữa Không Quân và các anh em 81 BCND, ngoài
tình huynh để chi binh, chúng tôi còn có một cái nghĩa "giang hồ". Trong
buổi họp, Đ/Tá Huấn, Chỉ Huy Trưởng 81 BCND đã dũng cảm tuyên bố trước
mặt các tướng lãnh:
"Mất
Phước Long, lý do tại sao quý vị đều biết nhưng không ai nói ra. Phần
Liên Đoàn 81 chúng tôi vào chỗ chết đã đành bởi nghề nghiệp chúng tôi là
chọn chỗ chết để đi vào. Riêng các anh em Không Quân, các phi hành đoàn
trực thăng đã làm quá bổn phận của họ, đã chết lây với chúng tôi, thật
tội nghiệp. Nay đưa họ ra tòa, tôi cho là vô lý, nếu có lỗi làm mất
Phước Long, tôi nhận lỗi. Xin quý vị tiếp tục họp và cho tôi biết kết
quả, tôi xin phép ra về vì còn nhiều việc phải làm"
Mãi
2 ngày sau, tôi và Bộ Chỉ Huy mới thoát ra khỏi được vòng vây địch. Ban
đêm di chuyển qua các bãi trống, tôi phát giác được nhiều chốt của địch
đang bám giữ các bãi đáp này. Sáng cuối cùng chúng tôi tới được một
nương sắn (khoai mì), đã thấy nhiều trực thăng đang bốc các toán lẻ cách
thị xã khoảng 5 đến 10 cây số. Tôi không còn máy để liên lạc với họ vì
chiếc mày truyền tin PRC-25 cuối cùng đã bị Hiệu Thính Viên của tôi đánh
rớt xuống nước khi vượt qua sông vào buổi tối. Phương tiện liên lạc duy
nhất là một mảnh kiếng nhỏ bằng 2 đầu ngón tay, tôi cũng không hy vọng
được bốc ra. Ở tại Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn, mọi người đều nghĩ tôi đã tử
trận hoặc bị bắt . Còn đang kiểm điểm xem còn lại bao nhiêu người trong
BCH của tôi, bất chợt tôi nghe lùng bùng ở tai. Tôi biết đang có trực
thăng bay rất thấp vì tiếng quạt gió làm rung chuyển lớp không khí còn
ướt hơi sương, chỉ trong một khoảnh khắc ngắn chiếc chiếc trực thăng UH1
đã ở ngay phía trước. Anh em vội bẻ gẫy một số cây khoai mì, trong lúc
đang ra dấu cho trực thẳng vào vị trí, tôi chợt nghe nhiều loạt súng cá
nhân từ các đồi bên cạnh bắn qua, có lẫn cả tiếng nổ của đạn súng cối
bắn vào vị trí quanh bãi đáp. Vì số cây khoai mì còn nhiều nên trực
thăng chỉ lơ lửng trên đầu ngọn cây khoai mì, anh em tự nhảy lên bám vào
càng leo lên rồi kéo người khác lên. Đạn bắn càng lúc càng gần, đốn gẫy
các cây mì chung quanh.
Vì
đạn địch bắn quá gần nên phi hành đoàn buộc phải cất cánh vội vàng. Tôi
và Đ/Úy Thành, sĩ quan liên lạc Không Quân (ALO) phải nhảy lên mới bám
được vào càng bên trái của chiếc trực thăng.
Khi
anh em kéo tôi lên được trên sàn tàu, tôi phải xoay người lại nhờ anh
em bám chặt hai chân, cúi xuống nắm lấy hai cổ tay của của Đ/Úy Thành và
la lớn để anh thả hai tay ra thì tôi mới kéo anh lên được. Những Anh
Thành vẫn không chịu buông tay ra và la lên "Cho tàu đáp xuống" ...khi
chiếc trực thăng đã bốc lên cao khoảng 200 bộ , bỗng nhiên anh bỏ tay ra
không báo trước nên tôi đã để vuột anh. Nhìn anh rơi xuống như một
chiếc lá rụng, chiếc áo jacket da bò xòe ra như một cánh bướm mất hút
với tiếng là thảm thiết của anh, tôi như người mất hồn...Cả phi hành
đoàn đều cúi xuống nhìn anh rơi mà không màng đến hàng trăm viên đạn
phòng không đang túa theo chiếc trực thăng đang nặng nề rời bãi .
Chiếc
trực thăng duy nhất của Không Đoàn 43 đó Tr/Uy Sơn (Sơn ) lái đã phải
cất cánh với 32 nguời kể cả phi hành đoàn, nó đã bị quá tải
(overtorque), chỉ bay mà không đáp được nữa vì nếu đáp sẽ không còn có
thể cất cánh được nữa.
Trong
đời binh nghiệp của tôi từ khi còn là một toán trưởng thám sát cho đến
khi trở thành một cấp chỉ huy cao hơn, chưa bao giờ tôi phải ân hận như
thế, đã để rớt Đ/Úy Thành. Hình ảnh của anh còn mãi trong tôi như một
cơn ác mộng luôn đè nặng lên tôi trong nhiều năm.
Có
rất nhiều phi hành đoàn trực thăng đã chết lây theo chúng tôi. Vì là
một đơn vị lấy phương tiện không vận và không yểm là con chủ bài, hầu
hết các cuộc hành quân của Liên Đoàn 81 BCND đến nằm trong vùng địch và
sau lưng địch, không nằm trong tầm pháo binh, có khi còn phải chuyển
tiếp qua căn cứ tạm để tiếp nhiên liệu vì thời gian bay của trực thăng
không đủ bảo đảm số thời gian bao vùng. Nếu nói một cách tàn nhẫn hơn
thì dù 81 BCND chỉ là một đơn vị nhỏ nhưng đã làm thiệt hại rất nhiều
phi cơ của cả hai phía Hoa Kỳ và Việt Nam.. Tôi đã sống hết đời quân ngũ
trong chỉ một đơn vị duy nhất, 12 năm khởi đầu bằng nghề Toán Trưởng,
leo lên đến được BCH/ Biệt Đoàn, tôi đã chứng kiến được nhiều điều đau
xót. Quên sao được khi lần đầu tiên bước chân lên chiếc H-34 nặng nề như
một con voi của Phi Đoàn 215 Thần Tượng, nhớ những Anh Vui, Vinh, Khôi,
Mành, Trắng, Hiếu ....Những con người hào hoa đã đưa chúng tôi vào
những mặt trận "thắt cổ họng còn sướng hơn" như Bình Giả, Pleime, Đức
Cơ, Đồng Xoài ...và đã đón chúng tôi trở về trong niềm vui gặp lại vợ
con, bằng hữu. Quên sao những bạn bè như Trọng, Vỹ, Bảo, Dõng, Duyên và
hàng trăm phi công trẻ của Không Đoàn 43 Chiến Thuật, những cánh bay
mong manh L-19 thủng hàng chục lỗ đạn. Quên sao được những buổi hàng
đoàn trực thăng đáp xuống sân căn cứ hành quân ở Suối Máu, Biên Hòa, phi
hành đoàn ngồi chờ phi vụ với một khúc bánh mì, gói xôi đậu xanh mua
vội ở Biên Hòa. Những con người đã từng đối đầu với gian nguy cùng với
chúng tôi qua bao nhiều mặt trận mà cuộc sống vật chất không đủ để nuôi
vợ con, nhưng vẫn cười vang mỗi lần gặp gỡ.
Chúng
tôi đã không có đủ khả năng để đãi các bạn một bữa cơm trưa thanh đạm
mà phải để các bạn bay về căn cứ, nuốt vội bữa cơm ở Câu Lạc Bộ, để rồi
lại phải tiếp tục suốt buổi chiều, có khi trở về khi trời đã tối. Thế mà
các bạn vẫn cười, không có một lời phiền hà. Chúng ta đã đã cùng chiến
đấu để không vì miếng cơm manh áo của chính mình mà vì để bảo vệ miền
Nam tự do, tránh được cái họa cộng sản.
Mỗi
lần đi tham dự ngày họp mặt của các Quân Binh Chủng bạn, nhìn lại các
chiến hữu xưa, nay đầu đã bạc trắng bỗng bùi ngùi nhớ lại thân phận
mình. Nhớ tới tôi đã chưa một lần gửi lời cảm ơn các bạn, vì lòng nhiệt
thành của các bạn, biết bao nhiêu lần chỉ vì để cứu một người lính 81
BCND trong vòng vây địch, để rồi lại phải hy sinh cả phi hành đoàn,
chúng tôi đã phải chấp nhận những tổn thất về nhân mạng. Chúng ta khác
kẻ thù, chúng ta quý nhân mạng hơn, dù chỉ là một người lính bình
thường. Biết bao lần tôi chứng kiến những chiếc trực thăng bị nổ tung
khi vừa vào bãi đáp, không một người sống sót. Sự tiếp cứu sau đó chỉ để
mang về những xác người đã cháy đen!!! Còn gì buồn hơn khi thấy người
phi công thoát ra khỏi chiếc A-37 bị bắn cháy, chiếc dù cứ trôi theo gió
rồi rơi vào đất địch. Hãy cảm nhận nỗi đau khổ của anh em chúng tôi,
những người tiếp cứu một phi công L-19 của Không Quân Việt Nam bị bắn
cháy chỉ mang về một thi thể trần truồng. Địch đã xỉ nhục hay căm thù
đến nỗi lột hết quần áo của một người đã chết thân thế không còn nguyên
vẹn. Cái bản chất cầm thú của kẻ địch đã đối xử với một người đã chết
còn như thế, thử hỏi đối với những chiến hữu của chúng ta rơi vào tay
địch còn phải chịu đựng những khổ nhục như thế nào? Bao nhiêu chiến sĩ
Không Quân đã hy sinh, bao nhiêu người đã rơi vào tay địch?
Hoàng
hôn ngày 27 tháng 4 năm 1975, giữa khung trời còn âm u khói từ kho bom
phi trường Biên Hòa bị nổ trước đó vài ngày, tôi đứng bên nầy hàng rào
nhìn hàng chục chiếc trực thăng cất cánh rời bỏ phi trường. Thế là hết,
ẩn ý như một lời vĩnh biệt...đó là lần cuối cùng tôi nhìn thấy những
cánh chim ấy, những cánh chim đã cùng chúng tôi trải qua bao gian nguy.
Bây
giờ những cánh bay ấy có thể đã nằm mục rã ở một vài bãi phế thải nào
đó, hoặc năm sâu dưới đáy biển sau lần bay cuối cùng, hay may mắn hơn
được nằm trong các viện bảo tàng chiến tranh. Nhưng những con người điều
khiển chúng vẫn còn nhiều, lòng yêu nước và tinh thần dấn thân vẫn còn
và mơ ước một ngày nào đó được bay trên vùng trời Tổ Quốc Việt Nam Tự
Do.
Cuộc chiến tranh này chưa bao giờ chấm dứt, nó chỉ được thay đổi hình thức mà thôi ...
"Old soldiers never die; they just fade away."
General Douglas MacArthur
Vũ Xuân Thông
Liên Đoàn 81 BCND
No comments:
Post a Comment