Monday, November 25, 2019

SƯ ĐOÀN 5 BỘ BINH - Niềm tự hào và nỗi đau.

Kính gửi: Các Chiến Hữu QLVNCH, các đoàn thể, hội đoàn, các đơn vị, các tổ chức đang hoạt động dưới Lá cờ Chính Nghĩa Quốc Gia VNCH tại hải ngoại. 
       Chúng tôi xin được hân hạnh giới thiệu về đơn vị của chúng tôi: SĐ5BB. Tên đơn vị chúng tôi, nếu viết đầy đủ, phải viết như sau: Sư Đoàn 5 Bộ Binh/ Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, có khác biệt với Sư Đoàn 5 Không Quân/ QLVNCH và bọn Việt cộng cũng có một đơn vị Công trường 5 (cấp Sư đoàn) gần như là một lực lượng chính quy, thường xuyên đụng độ với SĐ5BB từ nội địa đến ngoại biên như tại Snoul, và bị đánh tan tác.
Vào đề hơi rườm rà nhưng cần thiết để tránh sự nhầm lẫn. Để bài viết gọn gàng, xin viết tắt, đơn vị chúng tôi là "SĐ5BB". 
           Trước năm 1975, người dân sống tại Miền Nam Việt Nam, đặc biệt là những người dân sống tại thủ đô Saigon và vùng phụ cận, hầu như đều biết tiếng SĐ5BB, một đơn vị Lục Quân của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà với những chiến binh quả cảm và những trận chiến thắng lừng danh, oanh liệt đã ghi vào Quân Sử như: Dầu Tiếng, Long Nguyên, Rạch Bắp, Snoul, An Lộc,... SĐ5BB chịu trách nhiệm bảo vệ cuộc sống yên bình cho người dân và xây dựng cũng như phát triển vùng nông thôn và thành thị, để giúp người dân địa phương đủ điều kiện sống trong ấm no và hạnh phúc, với địa bàn hoạt động trải rộng trên 3 tỉnh: Bình Long, Phước Long và Bình Dương, khi cần có thể tiếp ứng cho các tỉnh lân cận. 
SĐ 5 BB đã chiến đấu đến giờ phút cuối cùng của ngày 30/4 đen tối, vận nước đến lúc suy vong, mọi nguồn tiếp vận đều bị cắt đứt, người lính phải dành dụm từng viên đạn, từng giọt xăng, lương thực cho người lính cũng cạn dần, không còn đủ phương tiện để chiến đấu. Khi Dương văn Minh ra lệnh đầu hàng, nhiều đơn vị SĐ5BB vẫn kiên cường chiến đấu. 
            Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ, đương nhiệm Tư Lệnh SĐ5BB, sau khi ra lệnh cho các quân nhân cấp dưới phải chấp nhận đầu hàng để tránh tổn thất nhân mạng, đã lặng lẽ vào phòng riêng tự sát để không rơi vào tay giặc. Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, nguyên Tư Lệnh SĐ5BB, Tư Lệnh Phó Quân Đoàn IV, cũng tự sát trong ngày hôm đó.
Toàn thể quân nhân SĐ5BB, bàng hoàng, ngơ ngác. Các sĩ quan chỉ huy cố giữ sinh mạng cho cấp dưới và chấp nhận đầu hàng để bảo toàn lực lượng, vì mỗi chiến binh của sư đoàn đều là những người con ưu tú và Trung Tín của Tổ Quốc, phải giữ được sự an toàn và trả họ về với gia đình. Chúng ta đành chấp nhận cuộc thua trong nỗi ô nhục của cả dân tộc, những giọt nước mắt uất nghẹn dâng trào... Đồng đội, anh em, thầy trò chia tay trong nỗi đau tột cùng của những người lính chiến bại, và nhà tù và những năm tháng khổ sai chờ đợi họ. 
Cả ngàn người lính SĐ5BB tan tác khắp nơi trong các trại tập trung khổ sai hay các khu kinh tế mới, họ bị giặc thù hạ nhục, bêu xấu, trả thù, hành hạ, đánh đập,... nhiều chiến sĩ không chết trong chiến đấu nhưng lại bỏ thây trong ngục tù vì kiệt sức, đói khát, bệnh tật, bị xử bắn khi tìm đường trốn thoát.  
          45 năm trôi qua, vết thương chiến tranh vẫn còn ứ máu, nỗi căm hận giặc thù vẫn không nguôi ngoai. Một số Chiến Binh Sư Đoàn, bằng nhiều con đường khác nhau đã tìm cách thoát Cộng và định cư ở nhiều nước tự do trên thế giới, trong đó nước Mỹ chiếm đa số. Nhiều nhóm nhỏ anh em đồng đội của từng Tiểu Đoàn, từng Trung Đoàn đã có những buổi gặp gỡ, họp mặt, cùng nhau ngồi ôn chuyện quá khứ và mọi người đều muốn thành lập một tổ chức có hệ thống của tất cả Chiến Binh SĐ5BB. 
          Đầu năm 2019, nhiều người trong Sư Đoàn tự đến với nhau, nhắn nhủ nhau, tổ chức những cuộc họp với các chiến sĩ trong các Trung Đoàn và nhiều đơn vị khác trực thuộc Sư Đoàn đã tham dự. Tất cả đều chung nhau một ước muốn: Tổ chức Ngày hội ngộ của anh em SĐ5BB. Tận trong trái tim của mỗi Chiến Hữu đều có chung một suy nghĩ: "Nếu không tổ chức được một ngày họp mặt để tưởng nhớ các Đồng Đội đã hy sinh, thì chúng ta có lỗi với những người đã nằm xuống."  và từ hôm ấy, tất cả Chiến Hữu bắt đầu liên lạc với các đồng đội mà mình đã từng biết, vòng tay cứ rộng mở dần. 
          Vào ngày cuối tháng 7/2019, trong một phiên họp quan trọng, tất cả đều đồng ý, với một Ban Đại Diện đã chọn ngày 01/03/2020 nhằm ngày Chủ Nhật, sẽ là ngày Hội Ngộ SĐ5BB với chủ đề: "TƯỞNG NHỚ ĐỒNG ĐỘI" và sẽ chính thức thành lập hội lấy tên "Hội Chiến Sĩ Sư Đoàn 5 Bộ Binh - Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà" viết tắt là "Hội Chiến Sĩ SĐ5BB/QLVNCH". Một Ban Tổ Chức được Ban Đại Diện cùng toàn thể anh em của các đơn vị hiện diện để cử và bầu chọn với 3 Chiến hữu, chính thức hoạt động với nhiệm vụ trước mắt là phải tổ chức Ngày Hội Ngộ SĐ5BB.
Với những bước đi ban đầu đầy khó khăn và thử thách, những buổi họp được tổ chức luân phiên tại nhà các Chiến Hữu, nhiều người tự nguyện góp tiền quỹ để trang trải những chi phí cho công cuộc tổ chức, và các đồng đội ở xa cũng đóng góp thêm.
          Kính thưa tất cả các Chiến Sĩ QLVNCH, các tổ chức Quân Dân Cán Chính VNCH, đây là lần đầu tiên SĐ5BB, một trong những đơn vị kiêu hùng của QLVNCH, tổ chức Ngày Hội Ngộ, với chủ đề "TƯỞNG NHỚ ĐỒNG ĐỘI". Hội SĐ5BB/QLVNCH sẽ chính thức hiện diện và đồng hành với các đoàn thể QLVNCH, hoạt động trên tinh thần của người chiến sĩ Quốc Gia với mục đích liên kết trong tình Huynh Đệ Chi Binh, tương thân tương trợ lẫn nhau. 
Rất mong được toàn thể các Chiến Hữu nhiệt tình tham gia và ủng hộ. Sự hiện diện của các chiến hữu, thân hữu và quý vị quan khách sẽ là một khích lệ lớn lao cho tất cả chiến sĩ SĐ5BB chúng tôi.
          Xin trân trọng gửi đến tất cả mọi người lời chào "TRUNG TÍN".  

TM. Ban Tổ Chức,
Trưởng Ban.
Chiến Binh VŨ NGỌC LINH (3/9)
Phone: (714) 829-9092

Trong 11 sư đoàn bộ binh Việt Nam, có 4 sư đoàn nổi danh ở bốn vùng chiến thuật. Ở Vùng 1 là Sư Đoàn 1 BB, Vùng 2 là Sư Đoàn 23 BB, Vùng 4 có Sư Đoàn 21 BB và Sư Đoàn 5 ở Vùng 3 Chiến Thuật. Đó là những sư đoàn gánh chịu trách nhiệm những vùng chiến trận ác liệt nhất, chịu tổn thất nặng nề nhất và cũng tạo nhiều chiến công lẫm liệt nhất.
Gốc gác của Sư Đoàn 5 Bộ Binh là từ vùng cực Bắc Việt Nam. Trong thời chiến tranh Đông Dương, Pháp đã tuyển mộ dân gốc thiểu số Nùng để thành lập các đơn vị tuần tiểu biên giới sát Trung Hoa. Người Nùng nói tiếng Quảng Đông với âm sắc hơi khác chút đỉnh. Nhiều người trong số họ là dân Nùng bên Trung Hoa chạy qua Việt Nam để lánh nạn cộng sản (cộng sản Trung Hoa chiếm lục địa từ tay Tưởng Giới Thạch và lập chính quyền năm 1949). Vị chỉ huy các đơn vị Nùng đó là Đại tá Vòng A Sáng (sau này là tư lệnh đầu tiên của Sư Đoàn 5 BB).
Sau khi Hiệp Định Geneve được ký kết, chia đôi lãnh thổ Việt Nam ở Vỹ Tuyến 17, các tiểu đoàn Nùng mang số 32, 67, 71, 72 và 75 được chuyển vào Ba Ngòi (thuộc tỉnh Khánh Hòa, phía Nam thành phố Nha Trang). Sau đó lại di chuyển vào Sông Mao thuộc tỉnh Bình Thuận. Do Nghị Định số 040-QP/NĐ ký ngày 10 tháng 2 năm 1955, các đơn vị Nùng này được phiên chế thành Sư Đoàn 6 Bộ Binh (chính thức thành lập trên giấy tờ là ngày 1 tháng 2, 1955) dưới quyền chỉ huy của Đại tá Vòng A Sáng.
Ngày 1 tháng 8, 1955, Sư Đoàn đổi tên thành Sư Đoàn 6 Dã Chiến. Tháng sau, ngày 9 tháng 9, lại được bổ sung quân số và đổi tên thành Sư Đoàn 41 Dã Chiến. Ngày 1 tháng 11, 1955, lại đổi tên thành Sư Đoàn 3 Dã Chiến trước khi vĩnh viễn trở thành Sư Đoàn 5 Bộ Binh vào tháng 1 năm 1959.
Từ đó về sau, Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã ra lệnh bố trí các sĩ quan và binh lính người Kinh vào Sư Đoàn. Lính Nùng không còn chiếm đa số nữa. Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 5 BB vẫn ở lại Sông Mao trong khi đa số các đơn vị của Sư Đoàn đã chuyển về Biên Hòa, thay thế Sư Đoàn 7 BB được đưa về Cần Thơ. Vào tháng 11 năm 1960, hai Trung Đoàn 7 và 8 cùng Bộ Tư Lệnh Tiền Phương thì đóng ở Vùng 3 Chiến Thuật (mà lúc đó là Quân Khu 1) trong khi Trung Đoàn 9 và hậu cứ thì còn ở Vùng 2.
Khi xảy ra cuộc đảo chính lật đổ Tổng Thống Ngô Đình Diệm (1-11-1963), quân sĩ Sư Đoàn 5 dưới quyền Đại tá Nguyễn Văn Thiệu đã tham chiến với trọng trách tấn công vào Dinh Gia Long. Từ đó, cuộc đời binh nghiệp của Đại tá Thiệu chuyển hướng để sau này trở thành Tổng Thống của nền Đệ Nhị Cộng Hòa.
Đến tháng 7 năm 1964, Sư Đoàn lại dời về Phú Lợi, cách thị xã Bình Dương vài cây số về phía Đông. Qua tháng 2 năm 1970, khi quân Mỹ bắt đầu rút, Sư Đoàn 5 BB lại chuyển vào căn cứ Lai Khê là nơi đóng quân của Sư Đoàn 1 BB Hoa Kỳ (The Big Red One). Các đơn vị của hai sư đoàn Việt-Mỹ tổ chức những cuộc hành quân phối hợp trong vùng lãnh thổ ba tỉnh Bình Dương, Bình Long và Phước Long. Căn cứ Lai Khê cách Bình Dương 30 cây số trên đuờng Quốc lộ 13, trước đây là một đồn điền cao su, có Trung Tâm Nghiên Cứu về Cao Su.
Sư Đoàn 5 có ba Trung Đoàn trực thuộc, một Đại Đội Tổng Hành Dinh, và Đại Đội 5 Trinh Sát. Các Trung Đoàn 7, 8, và 9, mỗi Trung Đoàn có 4 Tiểu Đoàn, 1 Đại Đội Trinh Sát và 1 Đại Đội Chỉ Huy Công Vụ, quân số tổng cộng xấp xỉ 2500 người. Ngoài ra, thống thuộc Sư Đoàn còn có Thiết Đoàn 1 Kỵ Binh, 3 Tiểu Đoàn Pháo Binh mang số 51, 52, và 53; Tiểu Đoàn 5 Tiếp Vận, Tiểu Đoàn 5 Truyền Tin, Tiểu Đoàn 5 Quân Y, Tiểu Đoàn 5 Công Binh. Tổng quân số Sư Đoàn lên đến hơn 10000 quân.
Vùng trách nhiệm của Sư Đoàn 5 toàn rừng rậm trải dài đến biên giới Việt-Miên, là con đường tiếp tế, chuyển quân của cộng sản. Nơi đây có những mật khu nổi tiếng như Chiến Khu D, Tam Giác Sắt, Hố Bò, Bời Lời... Lợi dụng chính sự miền Nam nhiều rối rắm, cộng sản mở nhiều trận đánh long trời mà số thiệt hại nhân mạng mỗi bên lên đến hàng trăm mỗi trận. Điển hình là trận Đồng Xoài mùa hè năm 1965, trận Làng 13 Bis Đồn Điền Michelin vào tháng 11 năm 1965. Qua chiến trận, Sư Đoàn 5 thực sự lớn mạnh, thiện chiến từ năm 1969 khi dưới quyền Thiếu tướng Phạm Quốc Thuần. Khả năng chiến đấu và tinh thần binh sĩ lên cao nhờ tài chỉ huy của các sĩ quan trẻ có học của thế hệ mới từ các khóa về sau của quân trường Đà Lạt, Thủ Đức, cũng như sự góp mặt lần đầu tiên của 39 sĩ quan khóa 1 Đại Học Chiến Tranh Chính Trị. Cũng trong thời gian từ 1969, nhiều sĩ quan xuất thân Đại Học CTCT đã tỏ ra xuất sắc trong chiến đấu và đã được giao phó trọng trách chỉ huy từ cấp đại đội đến cấp tiểu đoàn. Mùa xuân 1971, Trung úy Dương Quang Bồi xuất thân khóa 1 Hiện Dịch/ĐHCTCT thuộc Tiểu Đoàn 4/8 được chọn là Sĩ Quan xuất sắc nhất Quân Đoàn 3 và được tưởng thưởng du lịch Đài Loan.
Năm 1969, Sư Đoàn 5 Bộ Binh là đơn vị bộ binh đầu tiên được tuyên dương công trạng trước Quân Đội lần thứ 6, và các quân nhân trực thuộc được vinh dự mang giây Biểu Chương màu Đỏ (Bảo Quốc Huân Chương). Trong hai năm 1970, 1971, Sư Đoàn đã tham gia các cuộc hành quân Toàn Thắng đánh sâu vào lãnh thổ Kampuchea, triệt hạ cơ sở hậu cần của Trung ương Cục Miền Nam của Việt Cộng. Trong trận Snuol đầu năm 1971, một tiểu đoàn của Sư Đoàn 5 BB đã tấn công tràn ngập một căn cứ Cộng quân ngang cấp, và sau đó đã đánh phản công một trận để đời, loại khỏi vòng chiến một Trung Đoàn địch, hạ sát toàn ban tham mưu Trung Đoàn. Sau chiến công này, một sĩ quan xuất thân Đại Học CTCT đã được Trung tướng Đỗ Cao Trí trao gắn Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương Liễu. (xin xem bài Chiến Thắng Đầu Xuân trên trang web
http://michaelpdo.com/2015/06/chien-thang-dau-xuan-1971). Đó là thời gian Thiếu tướng Nguyễn Văn Hiếu – vị tướng tài ba và thanh liêm số một của QLVNCH – làm Tư Lệnh. Sau này, cựu Thiếu tá Trần Lương Tín, khóa 20 Võ Bị Quốc Gia, Tiểu Đoàn Trưởng 3/7 đã phải khen rằng: “Các anh CTCT đã lấn sân chơi của Võ Bị.” Gần 40 năm sau, trong một lá thư của cựu Thiếu tá Nguyễn Chí Hiền (Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 4/8) từ Thias, France gửi cho một thuộc cấp ngày 3 tháng 3, 2010 có đoạn: “Anh đã chỉ huy nhiều Tiểu đoàn, nhưng có lẽ Tiểu đoàn 4/8/SĐ5BB đã hằn lên trong lòng anh nhiều kỷ niệm và chiến thắng. Một đặc điểm của tiểu đoàn là ba vị Đại Đội Trưởng xuất thân từ khóa 1/CTCT, hậu duệ của Quân Sư Nguyễn Trãi: Dương Quang Bồi, Đỗ Văn Phúc, Quách Kế Nhơn và Mai Thanh Tòng (Trưởng ban 5) đã bảo toàn quân số cho bạn bè tác chiến. Tiểu Đoàn 4/8 đã tạo chiến công, giúp cho hai vị Trung Đoàn Trưởng vinh thăng Đại tá (Bùi Trạch Dần và Mạch Văn Trường).
Tuyệt vời nhất là trận tử thủ An Lộc dưới quyền Tư Lệnh Lê Văn Hưng năm 1972. Khi hàng sư đoàn thiện chiến Cộng quân Bắc Việt với sự yểm trợ của chiến xa và pháo 130ly, hỏa tiễn... đã mưu toan đánh chiếm An Lộc để mở đuờng tiến công về Thủ Đô Sài Gòn. Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu biết tầm quan trọng sinh tử của trận đánh, đã ra lệnh phải giữ được An Lộc với “bất cứ giá nào”. Chuẩn tướng Lê Văn Hưng đã thề nguyền cùng quân sĩ rằng ông sẽ sẵn sàng hy sinh mạng sống để bảo vệ An Lộc không rơi vào tay Cộng Quân.
Chúng ta cũng ca ngơi tinh thần hy sinh đồng cam cộng khổ của các Cố Vấn Hoa Kỳ dưới quyền Tướng James F. Hollingsworth, Tư Lệnh Quân Viện Vùng 3 CT. Chính sự có mặt của Đại tá William Miller cùng toàn toán Cố Vấn của Sư Đoàn 5 tại chiến trường đã làm cho binh sĩ vững tin rằng họ sẽ không cô đơn và sẽ nhận được yểm trợ phi pháo hữu hiệu. Chính Tướng Hollingsworth đã chỉ thị cho các cố vấn: “Hãy kìm chúng (Cộng quân) lại, tôi sẽ cho Không Quân tiêu diệt chúng. Hãy cho tôi những mục tiêu để đánh bom, và chúng ta sẽ thắng.”
Sau gần ba tháng chịu trận trước nhiều đợt pháo kích bằng đủ loại pháo, hỏa tiễn mà chưa từng xảy ra ác liệt trên chiến trường Việt Nam, cùng nhiều đợt tấn công biển người và xe thiết giáp T-54 tối tân, Sư Đoàn 5 BB và các đơn vị tăng phái đã giữ vững được Thị Xã An Lộc. Cộng Quân đành thúc thủ trước sự chịu đựng và tinh thần chiến đấu quả cảm của quân sĩ VNCH. Chiến thắng trong cuộc chiến bất cân xứng (1 chọi 6), quân trú phòng ban đầu gồm chủ lực là các đơn vị của Sư Đoàn 5 BB, vài đơn vị của Sư Đoàn 18 BB, Liên Đoàn 3 BĐQ cùng binh sĩ Tiểu Khu Bình Long sau được tăng cường thêm Lữ Đoàn 1 Dù, Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù, đã chứng minh sự trưởng thành vượt bực trong chiến đấu. Chiến thắng này cũng có sự góp sức của các đơn vị thuộc Sư Đoàn 9 và Sư Đoàn 21 BB tăng cường hành quân quấy nhiễu và giữ an ninh trục lộ bên ngoài Lộc Ninh.
Vào cuối tháng 4 năm 1975, khi Tổng thống ba ngày Dương Văn Minh ra lệnh buông súng để “bàn giao” cho Cộng Quân, Chuẩn tướng Lê Nguyên Vỹ, vị Tư Lệnh cuối cùng của Sư Đoàn đã tức tưởi cho binh sĩ giải tán và ông rút lui vào phòng riêng, dùng súng tự kết liễu đời mình, chứng minh khí phách của một người làm Tướng tận trung với Tổ Quốc.
Sư Đoàn 5 BB, với hơn 20 năm chiến đấu và trưởng thành, đã góp một phần rất lớn vào sự nghiệp chiến đấu chống sự xâm lăng của cộng sản Bắc Việt. Cùng chịu chung một số phận đau thương của dân tộc, những quân nhân Sư Đoàn đã phải ngậm ngùi buông súng. Tất cả sĩ quan còn kẹt lại thì bị lùa vào các trại tù mệnh danh là tập trung cải tạo chịu đọa đày khổ nhục hàng chục năm dài. Tham Mưu Trưởng cuối cùng là Đại tá Từ Vấn và nhiều vị đã bỏ mình trong lao tù cộng sản. Các thương phế binh đã hy sinh một phần thân thể mình cho Tổ Quốc thì bị đẩy ra bên lề xã hội. Mộ phần tử sĩ thì bị san bằng, cô nhi bị phân loại, bạc đãi...
Nhưng trong lòng những người chiến sĩ từng mang phù hiệu số 5 đỏ trên vai áo, thì niềm hãnh diện được là người lính Bộ Binh vẫn mãi mãi không phai mờ.



Danh sách các vị Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh


01. Đại tá Vòng A Sáng 01/03/1955
02. Đại tá Phạm Văn Đổng 25/10/1956
03. Trung tá Nguyễn Quang Thông 18/03/1958
04. Đại tá Tôn Thất Xứng 16/09/1958
05. Trung tá Đặng Văn Sơn 19/11/1958
06. Đại tá Nguyễn Văn Chuân 03/08/1959
07. Chuẩn tướng Trần Ngọc Tám 20/05/1961
08. Đại tá Nguyễn Đức Thắng 16/10/1961
09. Đại tá Nguyễn Văn Thiệu 20/12/1962
10. Chuẩn tướng Đặng Thanh Liêm 02/12/1964
11. Chuẩn tướng Cao Hảo Hớn 05/06/1964
12. Chuẩn tướng Trần Thanh Phong 21/10/1964
13. Thiếu tướng Phạm Quốc Thuần 19/06/1965
14. Thiếu tướng Nguyễn Văn Hiếu 15/08/1969
15. Chuẩn tướng Lê Văn Hưng 14/06/1971
16. Chuẩn tướng Trần Quốc Lịch 04/09/1972
17. Chuẩn tướng Lê Nguyên Vỹ 07/11/1973


Sư đoàn 5 Bộ binh Quân lực Việt Nam Cộng hòa

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Buớc tưới chuyển hướng Bước tới tìm kiếm
Sư đoàn 5 Bộ binh
Việt Nam Cộng hòa
ARVN 5th Division SSI.svg
Phù hiệu
Hoạt động1955-1975
Quốc giaFlag of South Vietnam.svg Việt Nam Cộng hòa
Phục vụFlag of the Army of the Republic of Vietnam.jpg Quân lực VNCH
Quân chủngLục quân
Phân loạiBộ binh
Bộ phận củaQD III VNCH.jpg Quân đoàn III và Quân khu 3
ARVN Joint General Staff Insignia.svg Bộ Tổng Tham mưu
Khẩu hiệuTrung tín
Tham chiến-Mùa hè đỏ lửa
-Mặt trận Bình Long năm 1972
Các tư lệnh
Chỉ huy
nổi tiếng
-Tôn Thất Xứng
-Trần Ngọc Tám
-Nguyễn Văn Thiệu
-Trần Thanh Phong
-Nguyễn Văn Hiếu
-Lê Văn Hưng
-Lê Nguyên Vỹ
SƯ ĐOÀN 5 BỘ BINH
  • Bản Doanh: Căn cứ Lai Khê, Bình Dương[1]
Sư đoàn 5 Bộ binh,[2] là một trong 3 đơn vị chủ lực quân trực thuộc Quân đoàn III và Quân khu 3 của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Đây là một đơn vị quân đội lớn, từng tham dự nhiều trận quan trọng trong Chiến tranh Việt Nam. Lãnh thổ hoạt động và trách nhiệm bảo vệ là khu vực các tỉnh phía đông của miền Nam Việt Nam Cộng hòa. Nơi đây có chiến khu D là mật khu của Lực lượng mang danh Quân giải phóng, là thành phần của Quân đội Bắc Việt.

Lịch sử hình thành

Sư đoàn 5 Bộ binh được thành lập vào ngày 9 tháng 3 năm 1955 tại Sông Mao, quận Hải Ninh, Bình Thuận với danh xưng ban đầu là Sư đoàn 6 Bộ binh[3] do Đại tá Vòng A Sáng[4] làm Tư lệnh đầu tiên.
Sư đoàn 6 là biến thân của Sư đoàn 3 Sơn cước thuộc Quân đội Liên hiệp Pháp, đồn trú tại vùng biên giới Việt-Hoa, với nhiệm vụ bảo vệ khu vực mỏ than Móng Cái, Hòn Gai (thời kỳ này cũng do Đại tá Sáng chỉ huy).
Sau Hiệp định Genève ngày 20 tháng 7 năm 1954, Sư đoàn 3 Sơn cước di chuyển vào Nam và đồn trú tại Sông Mao, sau đó giải tán và dùng làm nòng cốt để thành lập Sư đoàn 6. Đến gần cuối năm 1955, trong vòng 3 tháng Sư đoàn thay đổi phiên hiệu 3 lần để phù hợp với tổ chức và trang bị. Ngày 1 tháng 8 đổi thành Sư đoàn 6 Dã chiến, ngày 1 tháng 9 lại đổi thành Sư đoàn Dã chiến số 41 và ngày 1 tháng 10 trở thành Sư đoàn 3 Dã chiến.[5]
Ngày 1 tháng 12 năm 1958, Sư đoàn Dã chiến số 3 được tăng cường thêm 2 Trung đoàn địa phương 130 và 162, đổi tên lần cuối cùng thành Sư đoàn 5 Bộ binh. Sau đó di chuyển về miền Đông Nam phần đảm trách vùng hoạt động mới gồm lãnh thổ các tỉnh Bình Dương, Bình Long và Phước Long. Ban đầu đặt bản doanh tại Phú Lợi, Thị xã Thủ Dầu Một, sau chuyển Bộ Tư lệnh lên Lai Khê (là căn cứ do Quân đội Mỹ để lại) thuộc quận Bến Cát cho đến tháng 4 năm 1975.[6]
Nhiệm vụ của Sư đoàn 5 không kém phần quan trọng so với các Sư đoàn bạn thuộc Quân đoàn III nói riêng và đối với Quân lực Việt Nam Cộng hòa nói chung. Sư đoàn có trọng trách bảo vệ và an ninh tuyệt đối vùng biên cương, vì địa bàn hoạt động của Sư đoàn (giáp ranh với nước bạn Campuchia) là cửa ngõ phía bắc của Thủ Đô Sài Gòn.
Năm 1972, Sư đoàn là đơn vị chủ lực của mặt trận Bình Long, đã kiên cường bảo vệ Thị xã An lộc trong suốt 3 tháng trời, đã anh dũng chiến đấu chống lại sự tấn công và lấn chiếm của Việc Cộng.[7] Đồng thời đã cùng các đơn vị bạn gồm Lực lượng Nhảy dù, Liên đoàn 81 Biệt cách dù, Biệt động quân các Trung đoàn của Sư đoàn 18 và 21 Bộ binh đẩy lùi địch quân về phía biên giới Việt-Miên. Trong lịch sử "chiến tranh bảo vệ tự do" của Việt Nam Cộng hòa gọi thời điểm này là Mùa hè đỏ lửa.

Đơn vị trực thuộc và phối thuộc

Stt Đơn vị Chú thích Stt Đơn vị Chú thích
1[8]
Trung đoàn 7

10
Biệt đội Quân báo

2
Trung đoàn 8

11
Biệt đội Kỹ thuật

3
Trung đoàn 9

12
Biệt đội
Tác chiến Điện tử

4[9]
Đại đội
Tổng hành dinh

13
Tiểu đoàn Quân y

5
Đại đội Trinh sát

14
Tiểu đoàn Truyền tin

6
Đại đội Quân cảnh

15
Tiểu đoàn Tiếp vận

7
Đại đội Công vụ

16
Tiểu đoàn Công binh

8
Đại đội Vận tải
(Quân xa)

17
Trung đoàn Pháo binh
Các Tiểu đoàn: 50 (155 ly), 51. 52, 53 (105 ly). Phối thuộc và dưới sự điều động của Tư lệnh Sư đoàn
9
Đại đội
Hành chính Tài chính

18
Thiết đoàn 1
Thuộc "Lữ đoàn 3 Kỵ binh". Phối thuộc và dưới sự điều động của Tư lệnh Sư đoàn

Bộ Tư lệnh Sư đoàn và Chỉ huy Trung đoàn tháng 4/1975

Stt Họ và Tên Cấp bậc Chức vụ Chú thích
1
Lê Nguyên Vỹ
Võ bị Địa phương
Trung Việt Huế K2[10]
Chuẩn tướng
Tư lệnh
Tự sát ngày 30 tháng 4 năm 1975
2
Trần Văn Thoàn[11]
Võ bị Đà Lạt K10
Đại tá
Tư lệnh phó

3
Từ Vấn[12]
Võ bị Đà Lạt K12
Tham mưu trưởng

4
Nguyễn Văn Vượng
Võ khoa Thủ Đức[13]
Chỉ huy
Trung đoàn 7

5
Nguyễn Bá Mạnh Hùng[14]
Võ bị Đà Lạt K10
Chỉ huy
Trung đoàn 8

6
Trần Phương Quế[15]
Võ bị Đà Lạt K10
Chỉ huy
Trung đoàn 9

Trung đoàn Pháo binh

  • Đơn vị phối thuộc
Stt Họ và Tên Cấp bậc Chức vụ Đơn vị Chú thích
1
Tống Mạnh Hùng[16]
Võ khoa Thủ Đức K5
Trung tá
Chỉ huy trưởng
Bộ chỉ huy
Trung đoàn

2
Phan Đình Dậu[17]
Võ khoa Thủ Đức K5
Tiểu đoàn trưởng
Tiểu đoàn 50

3
Hoàng Trung Liêm
Võ bị Đà Lạt K13
Tiểu đoàn 52

4
Phạm Ngọc Quỳ
Thiếu tá
Tiểu đoàn 51

5
Trần Vĩnh Tươi
Võ khoa Thủ Đức K7
Tiểu đoàn 53

Tư lệnh Sư đoàn qua các thời kỳ

Stt Họ và Tên Cấp bậc Tại chức Chú thích
1
Vòng A Sáng
Võ bị Frejus, Pháp
Đại tá[18]
3/1955-10/1955
Giải ngũ ở cấp Đại tá. Thân phụ của Đại tá Hoàng Gia Cầu[19], nguyên Tham mưu trưởng Cơ quan Tổng Thanh tra Quân lực Việt Nam Cộng hòa.
2
Phạm Văn Đổng
Võ bị Móng Cái
10-/1955-3/1958
Giải ngũ năm 1965 ở cấp Thiếu tướng
3
Nguyễn Quang Thông[20]
Võ bị Huế K2
Trung tá
3/1958-9/1958
Sau là Đại tá Tỉnh trưởng Tây Ninh. Giải ngũ
4
Tôn Thất Xứng
Võ bị Huế K1
Đại tá
9/1958-11/1958
Giải ngũ năm 1967 ở cấp Thiếu tướng
5
Đặng Văn Sơn[21]
Trường Hạ sĩ quan Pháp
Trung tá
11/1958-8/1959
Sau là Đại tá Chỉ huy trưởng trường Hạ sĩ quan Đồng Đế, Trung tâm Huấn luyện Dục Mỹ. Giải ngũ năm 1964
6
Nguyễn Văn Chuân
Võ bị Huế K1
Đại tá
8/1959-5/1961
Giải ngũ năm 1966 ở cấp Thiếu tướng
7
Trần Ngọc Tám
Võ bị Liên quân
Viễn Đông Đà Lạt
Thiếu tướng
5/1961-10/1961
Giải ngũ năm 1974 ở cấp Trung tướng
8
Nguyễn Đức Thắng
Võ khoa Nam Định[22]
Đại tá
10/1961-12/1962
Giải ngũ năm 1973 ở cấp Trung tướng
9
Nguyễn Văn Thiệu
Võ bị Huế K1
12/1962-2/1964
Sau là Trung tướng. Đắc cử Tổng thống Việt Nam Cộng hòa 2 nhiệm kỳ (1967-1975)
10
Đặng Thanh Liêm
Võ bị Liên quân
Viễn Đông Đà Lạt
2-6/1964
Giải ngũ năm 1965 ở cấp Thiếu tướng
11
Cao Hảo Hớn
Võ bị Liên quân
Viễn Đông Đà Lạt
Chuẩn tướng
6/1964-10/1964
Sau cùng là Trung tướng Phụ tá Tổng trưởng Quốc phòng
12
Trần Thanh Phong
Võ bị Huế K2
Đại tá
10/1964-7/1965
Năm 1972, đang là Thiếu tướng Phụ tá Ủy ban Trung ương Đặc trách chương trình Thị tứ, tử nạn máy bay Carribou tại Tuy Hòa trong khi thi hành công vụ. Được truy thăng Trung tướng
13
Phạm Quốc Thuần
Võ bị Đà Lạt K5
7/1965-8-1969
Sau cùng là Trung tướng Chỉ huy trưởng trường Hạ sĩ quan Đồng Đế
14
Nguyễn Văn Hiếu
Võ bị Đà Lạt K3
8/1969-6/1971
Ngày 8 tháng 4 năm 1975, đang là Thiếu tướng Tư lệnh Phó Quân đoàn III, bị ám sát bởi cận vệ của Tướng Toàn, Đại Úy Đỗ Đức. Ngày 10 tháng 4, được truy thăng cấp bậc Trung tướng.
15
Lê Văn Hưng
Võ khoa Thủ Đức K5
6/1971-9/1972
Tự sát ngày 30 tháng 4 năm 1975 tại Cần Thơ, Quân đoàn IV.
16
Trần Quốc Lịch
Võ khoa Thủ Đức K4
9/1972-11-1973
Năm 1974, liên quan đến vụ buôn lậu trong quân đội, bị tạm giam và giải ngũ
17
Lê Nguyên Vỹ
11/1973-30/4/1975
Thăng cấp Chuẩn tướng ngày 1/11/1974.
Tự sát ngày 30 tháng 4 năm 1975 tại Bộ Tư lệnh Sư đoàn ở căn cứ Lai Khê.

Chú thích

  1. ^ Nơi đặt Bộ Tư lệnh Sư đoàn. Còn gọi là Hậu cứ.
  2. ^ Vào năm 1965, cũng có một Sư đoàn khác của Mặt trận Giải phóng Miền Nam thành lập ở Bà Rịa trùng phiên hiệu với Sư đoàn 5 Bộ binh. Tuy nhiên, đơn vị này tồn tại không lâu vì bị quá nhiều tổn thất
  3. ^ Theo Nghị định số 040-QP/NĐ ngày 10 tháng 2 năm 1955. Sự vụ Văn thư số 15590/TTM/1/1/S ngày 22 tháng 11 năm 1954. Ngoài dân gian còn gọi Sư đoàn 6 Bộ binh là Sư đoàn "Nùng", vì các quân nhân trong Sư đoàn từ chỉ huy đến binh sĩ hầu hết là người dân tộc Nùng ở miền Bắc
  4. ^ Đại tá Vòng A Sáng còn có tên là Hoàng Phúc Thịnh, sinh ngày 19/3/1902 tại huyện Hà Cối, tỉnh Hải Ninh (nay là huyện Hải Hà, tỉnh Quảng Ninh). Ngày 2/5/1975, ông qua đời khi đang cùng gia đình di tản khỏi VN trên tàu Trường Sơn, được thủy táng trên biển.
  5. ^ Sự vụ văn thư số 3975/TTM/1/1/SC ngày 17 tháng 9 năm 1955.
  6. ^ Cả hai căn cứ Phú Lợi và Lai Khê đều thuộc tỉnh Bình Dương.
  7. ^ Quân đội miền Bắc lợi dụng biên giới giữa Việt Nam-Campuchia và núp dưới danh nghĩa Mặt trận giải phóng miền Nam.
  8. ^ Từ số 1 đến số 3 là các đơn vị "Tác chiến" trực thuộc Sư đoàn.
  9. ^ Từ số 4 đến số 18 là các đơn vị "Yểm trợ" trực thuộc Sư đoàn.
  10. ^ Xuất thân từ Trường Sĩ quan.
  11. ^ Đại tá Trần Văn Thoàn sinh năm 1932 tại Pháp.
  12. ^ Đại tá Từ Vấn sinh năm 1936 tại Hà Nội.
  13. ^ Trường Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức.
  14. ^ Đại tá Nguyễn Bá Mạnh Hùng sinh năm 1935.
  15. ^ Đại tá Trần Phương Quế sinh năm 1930 tại Hải Dương.
  16. ^ Trung tá Tống Mạnh Hùng sinh năm 1932 tại Hà Nội.
  17. ^ Trung tá Phan Đình Dậu sinh năm 1933 tại Nam Định.
  18. ^ Cấp bậc khi nhậm chức.
  19. ^ Đại tá Hoàng Gia Cầu sinh năm 1929 tại Hải Ninh, tốt nghiệp Võ bị Móng Cái.
  20. ^ Đại tá Nguyễn Quang Thông sinh năm 1922 tại Quảng Bình.
  21. ^ Đại tá Đặng Văn Sơn sinh năm 1916 tại Huế.
  22. ^ Trường Sĩ quan Trừ bị Nam Định.

Tham khảo

  • Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân, Lê Đình Thụy (2011). Lược sử Quân lực Việt Nam Cộng hòa.

NGƯỜI LÍNH CỘNG SẢN NÓI VỀ NGƯỜI LÍNH NHẢY DÙ - Bảo Ninh


... Đã hơn mấy mươi năm nhưng khi nhớ lại trận đánh cuối cùng sáng ngày 30/4 tôi vẩn thấy khó hiểu bởi sự chống trả ngoan cố thậm chí là điên cuồng của một nhóm lính nhảy dù. Tình thế sáng 30/4 không thể xoay chuyển nổi thế nhưng thay vì buông súng đầu hàng để được sống đám lính dù này lại tiếp tục chiến đấu.
Điều đặc biệt là trong số lính này không có bóng dáng sỉ quan cao cấp mà chỉ là hạ sỉ quan, lính trơn do các thiếu úy, trung úy chỉ huy chốt chặn ở ngã tư bảy hiền cổng vào sân bay và ngay trong sân bay.
...........
Mất gần 2 giờ C7 mới tiến gần ngả tư bảy hiền, đại đội trưởng Tư hy sinh, C7 thương vong quá nửa vì bọn dù chốt trong bệnh viện vì dân kháng cự mảnh liệt. C7 được lệnh bỏ mục tiêu tấn công sang cổng số 5 (?) sân bay. Tiểu đòan điều C5 và 3 chiếc T 54 lên tăng cường. Bọn địch lại dùng hỏa tiển chống tăng bắn hạ cả 3 chiếc tăng của ta. BCH quyết định đưa 2 khẩu 88 lên thanh toán mục tiêu địch. 2 khẩu pháo chưa kịp bắn phát nào đã bị địch dùng súng cối phá hủy. Pháo thủ thương vong gần hết.
..................
Mải đến chiều tối bọn tôi mới tiêu diệt được ổ kháng cự cuối củng của bọn Dù trong sân bay. Không phải là một cài boongke bê tông kiên cố mà chỉ là một ụ súng đắp bao cát với một khẩu M 60 và chục tay súng M 16.
Chúng tôi bao vây chặt và gọi hàng. Đáp lời kêu gọi của chúng tôi lả những tràng súng bằn xối xả về phía chúng tôi. Không một tên nào ra hàng cả. Một chiếc T54 được gọi đến và suýt nửa bị hạ bởi 2 quả M 72 bắn sượt qua pháo tháp.
Nòng 100 ly được hạ xuống hướng về mục tiêu. Đây là quả pháo cuối cùng trong ngày 30/4 !!!

- Bảo Ninh / Những trận đánh cuối cùng/ NXB Trẻ / trang 49 - 65
- Nhiều tác giả / 30 tháng 4 và tôi/ NXB Trẻ 2005
"Nỗi buồn chiến tranh" được giảng dạy rộng rãi trong các đại học ở Mỹ, được xếp cùng nhiều tác phẩm danh giá khác và có vị trí trang trọng tại các trường học.
Chiều ngày 15/7, khoa Văn học, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội tổ chức thuyết trình khoa học  “Ảnh hưởng quốc tế của tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh”.
Trước sự chứng kiến của vị khách mời đặc biệt là nhà văn Bảo Ninh - cha đẻ tiểu thuyết - và các giảng viên, nghiên cứu sinh, sinh viên của khoa Văn học, diễn giả Giáo sư, Tiến sĩ Laichen Sun đã dành gần hai giờ đồng hồ để nói về ảnh hưởng quốc tế của tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh. Ông nêu lý do tại sao cuốn tiểu thuyết này lại được cộng đồng quốc tế quan tâm. TS Laichen Sun giảng dạy ở Đại học bang California tại Fullerton, Mỹ, Tổng biên tập Tạp chí Chuỗi dịch thuật nước ngoài ở Đông Nam Á, thành viên Hội đồng quản trị Hiệp hội Châu Á về lịch sử thế giới.
Tai sao tieu thuyet 'Noi buon chien tranh' duoc quoc te quan tam? hinh anh 1
Nhà văn Bảo Ninh.
Mở đầu phần thuyết trình, Laichen Sun đã trích dẫn một số nhận định về cuốn tiểu thuyết này: 
“Ở Việt Nam từ khi xuất bản Nỗi buồn chiến tranh, mọi người không còn mô tả chiến tranh như trước đây nữa”, ông Phạm Xuân Nguyên - cựu Chủ tịch Hội Nhà văn Hà Nội nói. 
“Trước khi đến Việt Nam, tìm hiểu về Việt Nam, bạn hãy đọc Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh”, Nhà xuất bản Lonely Planet chuyên xuất bản sách hướng dẫn Du lịch có trụ sở ở Melbourne, Australia khuyến nghị.
“Tất cả các trường học trên thế giới nên đọc cuốn tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh”, nhà văn người Anh và đạo diễn từng đoạt giải thưởng Charlie Raman nói.
“Tiểu thuyết vượt lên thời gian và không gian và có ảnh hưởng đến nhiều thế hệ”, Kang Young Ha, một nhà văn nổi tiếng của Hàn Quốc nhận xét. 
Laichen Sun cho biết ông đã dành nhiều công sức và thời gian để tìm hiểu tác phẩm Nỗi buồn chiến tranh của nhà văn Bảo Ninh khi nhận lời viết lời giới thiệu cuốn tiểu thuyết dịch xuất bản ở Trung Quốc. Sau khi đọc tác phẩm, ông đã viết lời giới thiệu 97 trang (khoảng 70.000 chữ tiếng Trung). Riêng phần tóm tắt đã là 6.000 chữ.
Laichen Sun cũng cho biết có hàng trăm công trình trên thế giới nghiên cứu cuốn tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh. Đây là tác phẩm lớn đáng để tìm hiểu, không chỉ bởi vai trò của nó trong thúc đẩy hòa bình ở châu Á mà nó còn giúp chúng ta hiểu được giá trị của hòa bình và căm ghét chiến tranh.
Tai sao tieu thuyet 'Noi buon chien tranh' duoc quoc te quan tam? hinh anh 2
Nhà văn Bảo Ninh (bên trái), Giáo sư, Tiến sĩ Laichen Sun (giữa) trong buổi thuyết trình.
Nhiều vấn đề liên quan đến cuốn tiểu thuyết được Laichen Sun tìm hiểu rất cặn kẽ, ông còn lập các phụ lục với hàng loạt số liệu thống kê về các công trình trích dẫn cuốn tiểu thuyết, các bài phỏng vấn nhà văn Bảo Ninh, những trường đại học, trung học sử dụng tiểu thuyết, các thứ tiếng dịch tác phẩm…
Ông cho biết cuốn tiểu thuyết dịch ra 15 thứ tiếng, 18 phiên bản (mỗi thứ tiếng Nhật, tiếng Hàn và tiếng Trung có hai phiên bản), tiếng Anh, Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Điển, Pháp, Đức, Ba Tư, Hy Lạp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ba Lan, Thái Lan. Phần lớn các bản dịch là chuyển ngữ lại từ bản tiếng Anh, cho dù chưa thực sự chính xác nhưng nó vẫn chiếm được sự quan tâm lớn lao của quốc tế.
"Nỗi buồn chiến tranh của nhà văn Bảo Ninh góp phần làm cho Việt Nam nổi tiếng. Đây là cuốn tiểu thuyết tiếng Việt được dịch ra nhiều thứ tiếng nhất thế giới, tác phẩm văn học nổi tiếng nhất của Việt Nam từ trước tới giờ. Một trong những tác phẩm văn học lớn nhất trên thế giới. Một tác phẩm về chiến tranh nổi tiếng nhất thế kỷ XX", GS Laichen Sun dành nhiều lời ca ngợi.
Cuốn tiểu thuyết còn vượt qua khỏi lãnh địa văn chương sang các lĩnh vực khác như tâm thần học, tâm lý học, giới sử học và các khoa học khác cũng rất quan tâm.
Tác phẩm này còn được giảng dạy rộng rãi trong các đại học ở Mỹ và một số nước, được xếp cùng nhiều tác phẩm danh giá khác và có vị trí trang trọng trong không gian trường học Mỹ. Không những thế tiểu thuyết còn ảnh hưởng đến không ít các học giả và là nguồn cảm hứng cho nhiều nhà văn quốc tế.
Laichen Sun cho biết sau khi đọc Nỗi buồn chiến tranh ông rất xúc động và tác phẩm này đã làm thay đổi cách dạy lịch sử của ông. Trong hơn 10 năm dạy học, trong các tiết học, ông luôn yêu cầu sinh viên đọc tác phẩm này để hiểu hơn về lịch sử Việt Nam, về sự tàn phá của chiến tranh, sự khủng khiếp của chiến tranh, căm ghét chiến tranh và nuôi dưỡng tình yêu hòa bình.
Nhà văn Bảo Ninh cho biết nhờ bài thuyết trình của Giáo sư Laichen Sun mà ông biết tiểu thuyết của mình được sự quan tâm của quốc tế. Nhưng ông cũng băn khoăn khi thực trạng của văn học Việt Nam trầm lắng. Bởi nhiều tác phẩm chưa được dịch sang các ngôn ngữ khác. Ông đề nghị giáo sư với uy tín của mình nên quảng bá, giới thiệu nhiều tác phẩm văn học của Việt Nam ra quốc tế.
Tai sao tieu thuyet 'Noi buon chien tranh' duoc quoc te quan tam? hinh anh 3
Tiểu thuyết “Nỗi buồn chiến tranh” được dịch ra nhiều thứ tiếng.
Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh xuất bản lần đầu vào năm 1990 với tiêu đề do các biên tập viên xuất bản lựa chọn: Thân phận của tình yêu. Một năm sau đó cuốn sách đầu tay này của nhà văn Bảo Ninh được tái bản với tiêu đề của chính tác giả: Nỗi buồn chiến tranh.
Sự ra đời của cuốn tiểu thuyết đặt dấu mốc quan trọng, mở ra một lối viết khác, cách nhìn khác về chiến tranh. Nếu như trước đây, chiến tranh thường được tái hiện từ cái nhìn của cộng đồng, con người thường được khai thác từ phương diện xã hội, được nhìn từ góc độ của cái đẹp, cái anh hùng, và kết cấu tiểu thuyết thường được xây dựng theo chiều tuyến tính, thì đến Nỗi buồn chiến tranh, người ta bắt gặp một lối viết hoàn toàn mới: Cá nhân hoá hư cấu, xây dựng nhân vật trên phương diện tâm lý cá nhân, tái hiện cuộc chiến từ góc độ chủ yếu là bi kịch, với kết cấu tiểu thuyết theo mô hình dòng ý thức, tiểu thuyết ở bên trong tiểu thuyết.
Sự đổi mới trong cả cách nhìn và lối viết ấy khiến cho chiến tranh và con người bước ra từ cuộc chiến hiện lên với tính hiện thực, phức tạp, đa chiều, nhiều ám ảnh. Đó là một tiểu thuyết giúp con người bước vào hành trình đi tìm chân lý: Chiến tranh là nỗi buồn, là điều khủng khiếp, nhưng chính sự sẻ chia nỗi buồn ấy là gia tài quý báu mang lại sức mạnh vĩ đại để những người lính vượt qua nó, và hoà bình chính là điều quý giá nhất của nhân loại.
Tiểu thuyết này cũng kiến tạo một hành trình đi tìm một lối viết mới về chiến tranh và khơi nguồn cảm hứng cho nhiều tác phẩm sau này.

Nỗi Buồn Chiến Tranh

Tác phẩm là dòng hồi ức của người lính về chiến tranh và thời tuổi trẻ đã trải qua trong bom đạn. Đó là lòng tiếc thương vô hạn đối với những người cùng thế hệ với mình đã nằm xuống, là ám ảnh về thân phận con người trong thời buổi loạn ly, và thông qua thân phận là sự tái hiện đầy xót xa  về quá khứ, những suy tư nghiền ngẫm về con đường dấn thân của cả một thế hệ sinh ra trong chiến tranh. Bao trùm lên tất cả, là nỗi buồn sâu xa gắn với từng mảnh đời riêng. Tác phẩm đã bước ra khỏi lối mòn về lòng tự hào dân tộc cùng những chiến công và vinh quang tập thể để nêu lên thông điệp về sự ghê tởm, về tính chất hủy diệt của chiến tranh đối với con người.

Vào thời điểm ra đời cuối thập niên 1980, “Nỗi buồn chiến tranh” có thể  được xem là tác phẩm văn học Việt Nam hiện đại đầu tiên viết về chiến tranh có cái nhìn khác với quan niệm truyền thống, khẳng định mạnh mẽ vai trò cá nhân trong xã hội, quyền sống, hạnh phúc và đau khổ của con người với tư cách một cá thể độc lập. .


Nhận xét bởi Trung Hiếu, vào ngày 26/11/2018



Biết bao nhiêu những cuốn sách đã viết về những người lính sau khi kết thúc chiến tranh cuộc đời họ sẽ bước sang một trang mới có nhiều thay đổi hơn. Thế nhưng cuốn sách này lại vô cùng đặc biệt, nó không viết lên được cuộc đời của người lính ấy thay đổi như thế nào khi trở về từ chiến tranh mà nó viết rằng cái quá khứ oai hùng máu lửa ấy, quá khứ mà chỉ biết mỗi nã súng, quá khứ đậm mùi máu tanh, quá khứ la liệt xác của anh em đồng đội cứ mãi mãi ăn sâu, đeo bám, bủa vây không bao giờ buông tha Kiên - người lính may mắn sống sót trở về, người lính mà thần chết chừa ra không gọi tên.
Cuốc sống của anh đau đớn, u uất, khắc khoải và toàn là hoài niệm, anh không thể quên đi được nhưng năm tháng ấy, anh không thể nào rũ bỏ được hết để làm lại cuộc đời. Nhắm mắt lại những hồi ức vẻ vang vinh quang thì không thấy chỉ thấy toàn là máu thịt đồng đội nằm lại nơi rừng sâu hoang vu.
Người lính trở về bỡ ngỡ với cuộc sống, người lính trở về không biết bon chen với đời, người lính ấy chỉ biết cầm súng và bắn, nã hết băng này qua băng khác, người lính ấy làm được gì để tự nuôi sống bản thân?
Chiến tranh, chiến tranh...! Chiến tranh làm tâm hồn anh mệt mỏi, đói khổ, bệnh tật, thiếu thốn đủ thứ kể cả là một nụ cười hạnh phúc trên môi. Chiến tranh và chết tróc, nào đâu ai muốn, nào đâu ai muốn mỗi ngày phải sống trong máu và máu. "... anh chỉ muốn được yên thân, chết một cách yên thân, yên với số phận con sâu cái kiến của chiến tranh..."
Nỗi buồn chiến tranh ấy ngăn không cho anh cảm thấy một chút nhẹ lòng trong đời sống hiện tại. Ngày tháng của cuộc đời anh cứ lùi lại mãi mãi. Có lẽ ấy là một cảnh ngộ trái khoáy, một sự bi quan bế tắc... một đời sống tinh thần vô vọng. Nhưng mặc dù thế tôi tin rằng anh vô cùng hạnh phúc trên con đường hướng mãi về quá khứ. Không bị sự quên lãng xói mòn... Anh sẽ được trở lại với tình yêu, tình bạn, tình đồng chí những tình cảm đã giúp vượt qua muôn vàn đau khổ của chiến tranh...

Nhận xét bởi Phàm Vũ Long, vào ngày 12/09/2019



Ngay từ cái nhan đề của cuốn sách "Nỗi buồn chiến tranh" khiến chúng ta có thể hiểu được rằng nó như thể đang miêu tả chân thực cuộc sống bị "sốc" của những con người từ giả chiến trường trở về cuộc sống đời thường. Họ, những chàng lính anh dũng trên chiến trận, còn lại gì khi đất nước đã hòa bình? Phải chăng, họ còn lại là nỗi buồn, mất mát, ám ảnh và đang loay hoay trong cái gọi là hòa nhập, là sống lại với hòa bình? Kiên sau khi trở về Hà Nội, anh đã viết, viết để kể, được hồi ức, để tránh những nỗi ám ảnh, nỗi cô độc, nỗi buồn trong chính con người mình về tình yêu, về chiến tranh. Có ai đó đã nói "Cách tốt nhất để né tránh nỗi đau là đối diện trực tiếp với nó". Phương đã rời xa anh, còn lại một mình anh chỉ biết viết mà thôi.
Sau tất cả, điều đẹp nhất của "Nỗi buồn chiến tranh", với tôi, đó chính là kí ức, kỉ niệm đẹp về tình yêu, về những rung động đầu đời, cho dù sau này có yêu bao nhiêu người đi nữa, cũng không thể nào lấy lại được cảm giác ấy. Cảm giác rạo rực, say đắm nhưng hoang mang, sợ sệt. Đó là những hoài niệm về những điều đã xa, trôi vào ký ức nhưng mãi mãi.

Nhận xét bởi Minh Vương, vào ngày 21/07/2019



Nỗi buồn chiến tranh là gì đây? Nỗi buồn do một quá khứ đầy bi thương do chứng kiến cảnh tượng chết chóc ghê rợn. Hay nỗi buồn do thấy bất lực với cuộc sống?... nhiều câu hỏi được đặt ra khi đọc tựa đề. Nó đánh vào sâu thẳm con tim mỗi người. Tác phẩm này rất đặc biệt, tác giả khồn ca ngợi chủ nghĩa anh hùng hay đấng thiên sứ mà chỉ miêu tả. Miêu tả sự đớn đau, dằn vặt của Kiên - nhân vật chính trong truyện- sau khi đã trải qua cuộc chiến tranh khốc liệt. Nó lột tả một bức tranh trung thực và tàn nhẫn đến sử sốt. Khiến cho ai đọc cũng thổn thức khó nguôi ngoai. Mỗi dòng văn của cuốn tiểu thuyết ẩn chứa những vẻ đẹp về nhiều khía cạnh như tâm hồn con người Việt... Đã là con người, có lẽ ít ai muốn cầm súng giết đồng bào. Nhưng do hoàn cảnh đẩy đưa. Một tác phẩm nên đọc với bất kỳ ai.
Nhận xét bởi Phương, vào ngày 29/05/2019



Những phút đầu tiên khi đọc "Nỗi buồn chiến tranh" tôi tưởng chừng như mình không thể chịu được cái cách kể chuyện tuỳ hứng của Bảo Ninh - tôi cảm giác như tôi đang ta nghe một anh lính kể về chiến tranh theo trí nhớ phập phồng của anh ta vậy. Nhưng cũng rất bất ngờ chính sự phi logic đó lại dần cuốn lấy tôi, buộc tôi dấn thân vào "ngõ ngách" của từng con chữ mà hoà mình vào chính cái vòng hồi ức của Kiên - nhân vật chính. Được đắm mình trong những hồi ức đó, tôi tưởng như chính mình là một người bạn của Kiên trong thời chiến vậy. Không chỉ khắc hoạ sự khốc liệt của một cuộc chiến tranh phi nghĩa, "Nỗi buồn chiến tranh" còn giúp ta nhận ra số phận của những con người thời kì hậu chiến, đặc biệt là những người lính.
Nhận xét bởi Phan, vào ngày 18/04/2019



Không một chút logic nào khi lắng nghe mạch kể chuyện của Kiên, người lính đã từng hết mình chiến đấu, nay sống cô độc và thất thần trong thời bình. Cái không logic ấy là những suy nghĩ, cảm nhận rời rạc của Kiên về mọi thứ, từ quá vãng ì đùng bom đạn xưa kia cho tới con gió mát lành thuở hòa bình lập lại ngày nay. Tất cả quá ám ảnh và tàn nhẫn. Chiến tranh, bằng cách này hay cách khác, dù thắng trận hay bai cuộc, đều nhuốm một màu sắc u buồn lên mọi thứ, nhất là cuộc sống sau hậu chiến. Được sống và trở về đôi lúc chưa hẳn là điều tốt. Từng dòng cảm nhận của Kiên trải đều ra mặt chữ, đọc tới đâu lạnh gáy tới đó, bám riết lấy suy nghĩ của độc giả không buông. Khép lại hẳn là một tiếng thở dài dài thượt, cho một kiếp đời chẳng mấy vui tươi.
Nhận xét bởi Nguyễn, vào ngày 01/01/2019



Tác phẩm với giọng văn lành lạnh, giản đơn nhưng ám ảnh người đọc. "Chiến tranh là cõi không nhà không cửa, lang thang khốn khổ và phiêu bạt vĩ đại, là cõi không đàn ông, không đàn bà, là thế giới thảm sầu, vô cảm, là tuyệt tự khủng khiếp nhất của dòng giống con người", nó phá nát những thứ hữu hình và cả những thứ vô hình trong ta. Cuộc sống sau ngày Hòa bình của Kiên và những người đã đi qua chiến tranh trở nên vô định, vô hồn. Tác phẩm đề cập đến mưu cầu cụ thể trong mỗi người lính, vững vàng trước địch, đôi khi xem thường cái chết và thèm khát những nhu cầu bình thường của con người. Hãy trân trọng hòa bình, trân trọng quá khứ bi tráng đã qua, trân trọng những hi sinh thể xác tinh thần của người lính để sống tốt hơn cho chính mình, để yêu thương nhiều hơn, đừng hằn thù nhau nữa. Chiến tranh là thế, chỉ khi Tổ quốc cần, chứ có ai muốn đâu!
Nhận xét bởi Huy, vào ngày 15/12/2018



Đây là quyển sách khá đặc biệt vì nó không hề viết theo một mạch truyện nào cả, trang nào cũng có thể là trang đầu, trang nào cũng có thể là trang cuối! Xuyên suốt tác phẩm là một không khí u ám, nặng trĩu đầy rối bời của người lính thời chiến, họ tham gia chiến trường rồi liệt oanh ngã xuống, linh hồn, máu, xương và thịt hòa quyện vào mùi thuốc súng bay khắp chiến trường, bay qua những khu rừng cháy trụi, bay qua những ngôi làng không một bóng người dù bếp vẫn đang nấu, phản vẫn còn ấm hơi người.
Nỗi buồn chiến tranh không chỉ xuất hiện thời chiến, nó còn ám ảnh cả thời hậu chiến. Những người trở về không bị tàn tật thì cũng ám ảnh cả phần đời còn lại, họ trở nên vô phương hướng, khó hòa nhập được với cuộc sống nữa.
Tóm lại đây là một quyển rất ám ảnh, nhưng nó lột tả rất chân thực về sự khốc liệt của chiến tranh, về tâm trạng của những người lính cả thời chiến và hậu chiến. Nếu các bạn muốn tìm hiểu về chiến tranh ( Việt Nam ) ,về những thứ nó mang đến, về chính những gì mà những con người của tổ quốc thân yêu đã gánh chịu để có được ngày nay, hãy đọc nó!

Nhận xét bởi Nguyễn, vào ngày 08/12/2018



Tác giả đặt nhan đề của sách là "Nỗi buồn chiến tranh", nỗi buồn chứ không phải là nỗi đau thương, ám ảnh, dằn vặt, không phải là tuyệt vọng, hận thù, tức giận. Nỗi buồn của một cá nhân trải qua trong và sau chiến tranh, dường như chạm đến nỗi buồn sâu thẳm và vĩnh viễn của cả nhân loại, một loài người không thể thoát khỏi cảnh máu lửa tương tàn vì những điều người ta cho là chính nghĩa hoặc phi nghĩa, nhưng cuối cùng dẫn đến những mất mát thật sự vô nghĩa. Vô nghĩa không phải là những hy sinh hoàn toàn không có ý nghĩa cho kết cuộc của chiến tranh, mà là sự vô nghĩa của cái chết, của những bạo tàn. Câu chuyện là những trăn trở và ám ảnh của Kiên, mối tình với Phương, những ngày chiến trận ác liệt và những ngày hòa bình thê lương. Người đọc thường nhìn vào phần nỗi buồn và chiến tranh mà không chú trọng phần tình yêu và những số phận con người trong chiến tranh tàn khốc, như tên gọi trước đó của tác phẩm, "Thân phận của tình yêu". Chiến tranh tước đi nhiều thứ của nhiều thân phận người nhỏ bé, tình yêu cũng như nhiều cảm xúc khác bị chiến tranh tàn phá, đến mức chỉ còn lại một nỗi buồn triền miên trong lòng những người còn sống sót. Sách bìa mềm, giấy xốp, có màng bọc, có tem chống sách giả.
Nhận xét bởi Phương, vào ngày 03/12/2018



Bảo Ninh đã mượn hình tượng nhân vật Kiên để thuật lại những tháng năm chinh chiến gian khổ ấy của dân tộc mà chính Kiên là nhân vật sử thi đại diện cho cả một tầng lớp bộ đội xưa. Trong truyện, có những con người vì sợ hãi mà đào ngũ, có những tình yêu day dứt mãi sau thời chiến, có những nỗi nhớ và ám ảnh khôn nguôi về một thời đã vãng...
Đọc xong, nghĩ đến những dòng thơ của Quang Dũng:
"....Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa..."
Mọi người nên đọc để có cái nhìn và cảm nhận về chiến tranh một cách toàn diện và chân thực nhất. Thật sự sau mỗi trang sách là một sự ám ảnh khác nhau, tiểu thuyết này gây cho mình nhiều nỗi ám ảnh và day dứt về cuộc sống, tâm trạng khổ đau, dằn vặt của ng lính hậu chiến tranh!

Nhận xét bởi Misu, vào ngày 01/12/2018



Tôi tìm đến Nỗi Buồn Chiến Tranh thông qua lời giới thiệu của cô giáo dạy sử, một người yêu nước, từng sống trong những năm tháng bom đạn của Mĩ. Ý nghĩ ban đầu của tôi khi mua nó là nghĩ về một chiến tranh với những chiến thắng hào hùng vang dội, nhưng không phải, vẫn chiễn thắng đó, vẫn tinh thần yêu nước đó, vẫn là những cơn mưa bom đạn nhưng dường như Nỗi buồn chiến tranh còn thể hiện nhiều thứ hơn cái mà nó vồn có, thể hiện một khía cạnh khác của chiến tranh- những khoảng khắc sự lựa chọn chri trong tích tắc giữa sự sống và cái chết. Điều ấy được thể hiện trong những câu truyện, những sự thật trần trụi về những mảnh đời, những số phận không may mắn sinh ra trong thời loạn. Đó là những mối tình xa nhau hơn hai mươi năm, hai người vẫn hướng về nhau những mai không thể trùng phùng, là những bản chất" con người", cái thiện bị chiến tranh chà đạp, những người chiến sĩ luôn bị ám ảnh bởi cái chết.
Tác phẩm như một cuốn hồi kí về những sự việc mà tác giả trái qua, đồng thời nó cũng nhắc nhở chúng ta những đau đơn mà chiến tranh gây ra. Nó nó lên những sự thật mà bấy lâu nay chúng ta luôn né tránh. Giọng văn nhẹ nhàng ấy như thấm sâu vào lòng người đọc, như khắc hoải một nỗi buồn chiến tranh khó quên.
Đánh giá cá nhân:9/10

Nhận xét bởi Độc Cô Công Tử, vào ngày 25/11/2018 Đã mua hàng



Một tác phẩm thực sự xuất sắc về chiến tranh. Mình tìm đọc đến nó vì khi đọc cuốn "Tuổi thơ dữ dội" đã khiến mình thôi thúc tìm đến các tác phẩm về chiến tranh Việt Nam. Tôi sống trong cảnh hòa bình, chỉ có thể tìm hiểu chiến tranh, sự mất mát, khổ cực của cha ông ngày xưa qua các tác phẩm văn học. Càng đọc, tôi càng kính phục và biết ơn về lòng dũng cảm, sự mưu trí, sự hi sinh bản thân của những người đi trước. Tác phẩm này đã lột tả trần trụi nhiều sự thật đau thương do chiến tranh mang đến, làm chúng ta phải sững sờ, chết lặng tự hỏi, đó là thực ư, nó khốc liệt thế ư. Cuốn sách là hành trình tìm lại quá khứ, tìm lại cuộc sống của nhân vật Kiên- sống trong những ngày đầu sau khi giải phóng. 1 tác phẩm đáng, cực kỳ đáng khi bạn bỏ tiền ra mua và đọc.

Hay

Nhận xét bởi Wind, vào ngày 22/11/2018



Tôi chưa từng trải qua chiến tranh nhưng tôi biết chiến tranh là kẻ thù lớn nhất của cuộc sống hạnh phúc. Hậu quả mà chiến tranh để lại luôn ác liệt và đau đớn đến ám ảnh Nỗi Buồn Chiến Tranh kể về nhân vật Kiên - một chiến sĩ, một nhà văn, một người bốc hài cốt chiến sĩ và một kẻ si tình Xuyên suốt cuốn sách là sự đan xen giữa hồi ức và hiện tại, khắc họa chân thực hơn những ngày chiến tranh. Chiến tranh lấy đi của ta rất nhiều thứ, tình yêu, máu và nước măt nữa. Tác phẩm này gợi nhớ cho tôi về một người thân của tôi, ông là một thương binh và sau khi chiến tranh kết thúc nỗi đau đớn do mảnh đạn để lại vẫn nhức nhối cho tới tận bây giờ. Tác phẩm rất hay, rất ý nghãi và mang tới những cảm xúc đặc biệt
Nhận xét bởi Huy, vào ngày 20/11/2018



Chiến tranh luôn là một đề tài khiến con người day dứt, khôn nguôi và mình phải công nhận một điều rằng Bảo Ninh đã thể hiện một cách xuất sắc chiên tranh Việt Nam qua tác phẩm "Nỗi buồn chiến tranh".
Đã đọc qua rất nhiều tác phẩm chiến tranh như "Tuổi thơ dữ dội" hay "Dấu chân người lính" nhưng thật sự mà nói cuốn sách của Bảo Ninh để lại một ấn tượng khá đặc biêt cho mình. "Nỗi buồn chiến tranh" thể hiện một cách chân thực về chiến tranh Việt Nam, vô cùng tàn khốc, vô cùng đau thương. Những sự thật về chiến tranh được ngòi bút Bảo Ninh phơi bày khiến mình phải sững sờ, trần trụi, khủng khiếp.
Tác phẩm cho con người chúng ta những hồi ức đâu thương về chiến tranh để nhắc nhở chúng ta rằng để có được cuộc sống như ngày hôm nay đất nước đã trãi qua những ngyà tháng chìm trong mây mù bom đạn.
Một cuốn sách cực kỳ cực kỳ xuất sắc.

Nhận xét bởi Gin, vào ngày 13/11/2018



Nỗi buồn chiến tranh là câu chuyện của nhân vật Kiên - một người lính trở về sau trận chiến sinh tử, thế nhưng trải dài câu chuyện là những khoảng trống không thể lấp đầy, hàn gắn từ cuộc sống cho đến tình yêu. Tôi chưa từng ở trong giai đoạn chiến tranh cho nên đọc cuốn sách này cảm thấy như kiến thức về lịch sử, trận chiến của mình được tăng lên rất nhiều. Chiến tranh đã đi qua để lại biết bao hậu quả cho biết bao con người, nó không chỉ là sự nghèo đói, khốn khổ về vật chất, nó còn là sự hoang mang, trống rỗng về tinh thần. Sau cùng, chúng ta còn lại gì từ những mất mát? Nhân vật Kiên cuối cùng vật lộn giữa quá khứ và hiện tại để lại nỗi buồn dai dẳng nhức nhối hàng ngày. Giọng văn da diết, đầy xúc cảm cứ lắng đọng mãi trong tôi.
Nhận xét bởi Minh, vào ngày 13/11/2018



Tôi luôn rất thích đọc các tác phẩm về đề tài chiến tranh, và cuốn Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh luôn nằm trong top những quyển sách yêu thích nhất của tôi. Cuốn sách là hành trình tìm lại quá khứ, tìm lại cuộc sống đã trôi qua của nhân vật Kiên khi anh đang ở trong thời kỳ đầu sau ngày giải phóng. Trí nhớ của nhân vật Kiên về từng trận chiến, từng con người, từng kỷ niệm đẹp ngày xưa luôn in đạm trong tâm trí anh. Nhưng rồi, những hồi ức đó vỡ vụn khi anh trở lại hiện tại, nơi anh đang sống cùng với nỗi buồn trong thời bình. Giống như Kiên, những người lính bước ra khỏi cuộc chiến, họ sẽ không bao giờ quên đi những đau thương dân tộc ta đã trải qua. Một cuốn sách rất hay và ý nghĩa.
Nhận xét bởi Nghĩa, vào ngày 29/10/2018



Nỗi Buồn Chiến Tranh là câu chuyện của Kiên - một chiến sĩ, một nhà văn, một người bốc hài cốt chiến sĩ và một kẻ si tình. Xuyên suốt tác phẩm là những hồi tưởng đứt đoạn không liền mạch xen kẻ cùng hiện tại, có lúc một diễn biến xuất hiện chỗ này nhưng nó lại dừng lại, để rồi trải qua vài diễn biến khác nó mới lại tiếp diễn. Thế đấy, nghe thì hơi loạn. Cơ mà dẫu vậy người đọc vẫn nắm được là Kiên đang nghĩ gì, Kiên cảm thấy thế nào và đặc biệt là sức nặng trong câu chữ của nhà văn Bảo Ninh, bọn chúng thật sự khiến mình suy nghĩ rất nhiều.
Với lối miêu tả đầy chân thực và sinh động, kết hợp với kết cấu truyện chặt chẽ, Nỗi Buồn Chiến Tranh là một tổng thể văn chương hoàn hảo và hết sức tiêu biểu cho văn học Việt Nam.

Nhận xét bởi Hạ, vào ngày 28/10/2018



Kiên là một người sống sót sau chiến tranh Việt Nam. Cuốn sách được viết bởi một tác giả người miền Bắc, và hoàn toàn phản ánh được những trải nghiệm của ông về cuộc chiến tranh lâu dài ở Việt Nam
Những điểm tương đồng về sự ảnh hưởng của chiến tranh ở mọi nơi rất rõ ràng, nhưng cuốn này thật sự rất đặc biệt. Câu chuyện được kể qua các dòng thời gian khác nhau. Kiên hồi tưởng lại tuổi trẻ của anh ấy, những năm tháng còn trong quân đội, 10 năm sau khi chiến tranh kết thúc, các sự kiện sau chiến tranh, thời kỳ cuối...
Mối quan hệ chính của cuốn sách là chuyện tình giữa Kiên và Phương.
Như nhan đề của truyện, nỗi buồn là một khía cạnh chính của cả cuốn sách. Và chiến tranh chính là nguồn cội dồi dào và phong phú dành cho nỗi buồn...
Những hình ảnh trong truyện của Bảo Ninh rất phong phú, các nhân vật hấp dẫn và thú vị, chuyện tình giữa Kiên và Phương bị rất nhiều yếu tố xen vào ngăn cách.
Dù cuốn sách chưa đứng cùng cấp độ với những "gã khổng lồ" của văn chương, nhưng cuốn sách thật sự rất tuyệt vời.
Đối với tôi, cái chết chưa bao giờ thực tế và gần giống với những gì được mô tả trong tiểu thuyết. Sau khi đọc, tôi tự hỏi liệu đó có phải là cuộc chiến mà chúng tôi đã học được ở trường hay không. Chưa bao giờ có ai dám nói về cuộc chiến ở Việt Nam. Mọi thứ luôn luôn rất vinh quang và chiến thắng. Không phải loại đau khổ nặng nề này và bi quan
Thật buồn và vẫn rất lãng mạn theo cách buồn ..

Nhận xét bởi Nguyễn Thành công, vào ngày 26/10/2018 Đã mua hàng



Đã qua rồi những ngày chiến tranh ác liệt những năm tháng hào hùng của dân tộc ta, song qua  chiến tranh nhìn lại những con người đang sống chúng ta sẽ có nhiều suy ngẫm hơn. Chiến tranh đi  qua để  lại những câu chuyện mà theo tôi nghĩ phần lớn trong số đó là những câu chuyện buồn của những con người vào sinh ra tử cùng nhau. Họ về với thời bình nhưng vẫn đang mang trong mình những nỗi đau thầm kín. Chiến tranh viết lên trang hùng ca cho dân tộc , nhưng nó cũng cướp đi của chúng ta 3/4 đồng bào  anh em .Họ đã ngã xuống đơn giản vì lòng tự hào vì niềm yêu thương và vì một thế hệ con em .Chiến tranh sẽ chỉ dừng lại khi cả hai phe đều mất mát , và chiến tranh là nơi mà con người  ta sẽ vì nó để đổi lấy cái trước đây đã có . Phải chăng mọi cuộc chiến tranh đều phi nghĩa ,hay bởi có một kẻ chơi không đúng luật và liệu  rằng kẻ chơi không đúng luật luôn luôn sai . Chúng ta không thể biết được vì đơn giản thời gian không có phép "Thử " mà nó sẽ luôn là dấu suy sa. Số phận con người cũng vậy, đó là cách tự nhiên vận hành "Sinh lão bệnh tử " .Trong chiến tranh có một thứ mà ta ít thấy đó là "Tình Yêu ", có vẻ như cái khắc nhiệt bi thương của chiến tranh đã làm cho tình yêu không có đất dung thân , họa chăng đó  chỉ là tình dục. Thứ cao  đẹp trên đời mấy khi được sinh ra từ nơi nhơ bẩn, ấy vậy mà sau khi đọc xong cuốn sách "Nỗi Buồn Chiến Tranh" ,tôi mới nhận ra rằng ẩn sâu trong lớp văn chương cách mạng còn có những ánh văn mộng  mơ pha chút bi là cách  mà tác giả đưa chúng ta đi từ quá khứ về quá khứ một cách lôi cuốn . Tình yêu người con gái tên Phương sao mà mãnh liệt như vậy , nó như bản tình ca không bờ bến không có hồi kết . Nó làm cho người ta có cảm giác như cách mà nó đến cũng như lúc nó đi , biến mất vào dĩ vãng để cho nhân vật tôi trong tác phẩm có cảm giác đau mà lại không đau , buồn mà lại không buồn .
Nhận xét bởi Rin, vào ngày 23/10/2018



Câu chuyện của nhân vật Kiên trở về sau cuộc chiến, nhưng trong đầu mãi không thôi ám ảnh về bom đạn và đồng đội hy sinh trong cuộc chiến khốc liệt đó. Không còn là những bản anh hùng ca như những tác phẩm viết về đề tài chiến tranh như trước đây. Ta thấy trong cuộc chiến này, có người đã bỏ trốn, có người chỉ mong anh cho một phát đạn vào đầu để khỏi phải giằng xéo giữa những cơn đau đang chịu đựng,...Có lẽ vì khai thác đề tài quen thuộc dưới một góc nhìn khá mới lạ nên suốt một thời gian dài, "Nỗi buồn chiến tranh" đã chiụ cảnh ba chìm bảy nổi trên văn đàn Việt Nam.
Mình vô cùng ấn tượng về mối tình giữa Kiên và Phương. Mối tình này không phải chỉ để tăng thêm chút lãng mạn như việc tác phẩm có một thời từng bị đổi tên thành "Thân phận của tình yêu" mà mình nghĩ nó là phần cốt lõi của tác phẩm thật. "Từ nay thiếu vắng Phương. Hiện thực hàng ngày sẽ thừa ra. Anh sẽ mất hết mọi rung cảm với nhịp sống đời thường hiện nay. Chỉ còn có hồi tưởng là cơ sở cua nhận thức. Và nỗi đau buồn, và niềm nhớ thương sẽ biến thành ngọn nguồn của mơ mộng, đưa anh đạt tới những trải nghiệm tối tăm sâu thẳm nhất của trí tưởng tượng". Sự bất hạnh của Kiên là vẫn sống sót sau khi hòa bình, cảm giác bơ vơ, lạc lõng của người lính trở về với cuộc sống bình thường.

Nhận xét bởi thảo, vào ngày 20/10/2018



Những kỉ niệm chiến tranh có thể êm đềm, ác hại đều để lại những vết thương mà tới bây giờ khi 1 năm đã qua, 10 năm hay 20 năm nữa vẫn còn đau , đau mãi. Người lính đôi khi chỉ cần nhắm mắt lại là kí ức lại trào ra mạnh mẽ, cuốn phăng thực tại sang 1 bên. Biết bao nỗi đau, kỉ niệm bi thảm đều dễ dàng bị lay thức bởi những mối liên tưởng nảy sinh 1 cách khôn lường từ những chi tiết tầm thường, rời rạc nhất trong cuộc sống. Kiên - 1 con người dày dặn, từng trải với tâm hồn đã chai sãn bởi chiến tranh đã đặt bút viết cuốn sách đầu tiên của đời mình. Từng đêm, anh viết liên tục cho đến khi kiệt sức. Anh viết về cuộc đời chiến đấu của trung đội trinh sát với những khúc buồn vui,tình đồng đội, nhúng thống khổ thời trận mạc hòa cùng bao lạc thú của tuổi trẻ. '' Theo dòng tiềm thức, còn đường của tiểu thuyết lại nhập vào chặng đưởng hành hương của đội thu nhặt hài cốt tử sĩ , nối những nấm mồ bộ đội tản mát vương rắc trên khắp miền bắc Tây Nguyên . Thời chiến tranh , sự hi sinh dường như trở thành lẽ tự nhiên . Mình chết thì đồng đội mình được sống . Trở về cuộc sống hòa bình sau khoảng thời gian tham chiến ác liệt , Kiên sống như là không sống. Lúc nào anh cũng nghĩ về những kỉ niệm, không thể thoát khỏi quá khứ mà nhìn về tương lai. Trong tâm tưởng, anh luôn nhớ đến bóng hình của Phương - người con gái đã đánh cắp đồng thời làm tan nát trái tim của anh.
Nhận xét bởi PQ, vào ngày 20/10/2018



Nỗi buồn chiến tranh tập trung vào những cảm xúc và suy nghĩ của người lính sau khi phục vụ chiến tranh chứ không hề nhận xét hay đánh giá về bất cứ bên nào hay bất cứ điều gì trong lịch sử nên tác phẩm không hề khô khan tí nào. Nghe tên chắc nhiều bạn sẽ ngại mua vì sợ nó thiên về lịch sử nhưng mình khuyên các bạn nên đọc cuốn này. Dù là ở bên thắng hay bên thua thì trong tâm hồn người lính cũng đã để lại một mảng tối không thể nào xóa đi được. Tác giả đã thể hiện điều này không chỉ qua con chữ mà còn qua cách sắp xếp bố cục khá mới lạ. Nó không theo một trình tự nào nhất định, lộn xộn và rối bời như tinh thần người lính. Cũng chính vì vậy mà mình nghĩ tác phẩm này khá kén người đọc. Tuy nhiên mình vẫn khuyên mọi người nên dành một cơ hội cho cuốn sách này.
Nhận xét bởi Hoa Xương Rồng Nhỏ, vào ngày 19/10/2018



Chiến tranh đem đến bao đau thương, mất mát, chồng xa vợ, cha mẹ xa con... Qua "Nỗi buồn chiến tranh", tác giả Bảo Ninh đã đem đến cho người đọc thấu hết những đắng cay mà chiến tranh đem lại, nó cũng khái quát được cuộc sống của những người lính. "Nỗi buồn chiến tranh" là những dòng hồi ức của Kiên, anh trở về sau chiến tranh nhưng không làm cách nào hoà nhập được với cuộc sống hiện tại. Điều đó càng khẳng định rằng, chiến tranh tuy đã đi qua nhưng những mất mát những đắng cay vẫn còn đó, không bao giờ xoa dịu được. Trong những dòng hồi ức đó là sự hi sinh anh dũng của các chiến sĩ kèm theo nỗi buồn mất mát của mỗi một đồng đội còn sống sót. Giọng văn lúc nhẹ nhàng trầm lắng da diết lúc lại dồn dập dữ dội.
Nhận xét bởi Hồng Khánh, vào ngày 17/10/2018



Tác phẩm là dòng hổi ký đan xen giữa hiện tại và quá khứ của nhân vật Kiên - một người lính trẻ thuộc Trung đoàn trinh sát. Anh đã đi qua cuộc chiến, sống sót trở về nhưng không hòa nhập được với cuộc sống hiện tại, có lẽ bởi, tâm hồn anh đã từng chút, từng chút một rơi rớt tại chiến trường. Trong Nỗi buồn chiến tranh, chẳng còn phân biệt bên ta, bên địch, chỉ có nỗi buồn đau dằng dặc cào xé tâm hồn..... Giọng văn lúc nhẹ nhàng da diết, khi mạnh mẽ, dữ dội vừa đủ để từng con chữ thấm vào hồn người đọc, cùng cảm được nỗi buồn đau của nhân vật.Với tôi, tôi thấy mình may mắn đã được đọc cuốn sách để có một cái nhìn nhân bản hơn về chiến tranh - khác với những gì tôi luôn nghĩ về đề tài chiến tranh trong văn học Việt Nam.
Nhận xét bởi Linh, vào ngày 16/10/2018



Bảo Ninh đã trộn lẫn, đan xen quá khứ với thực tại, không chút tách rời, phân biệt, mà như gắn liền với nhau, giống như cuộc đời của chính nhân vật chính - Kiên - vậy. Kết thúc chiến tranh, trở về chính cuộc sống hiện thực của mình, nhưng Kiên dường như không hòa nhập được, nhập nhằng giữa ranh giới thời gian. Kết thúc chiến tranh liệu có phải là giải thoát? Quá khứ và hiện tại hòa quyện với nhau, tạo nên một chàng Kiên hâm hâm dở dở, sống điên dại và cuồng loạn giữa đất trời này, sống giữa dày vặt, khổ sở, sống ở thực tại nhưng hồn vẫn chìm trong dòng thác âm ty với những đồng đội nơi viễn xứ.
Chiến tranh đã qua đi nhưng những mất mát về cả thể xác và tâm hồn nó mang lại dường như không thể nào xóa nhòa đi được, bởi vậy nên có những lúc Kiên muốn buông xuôi tất cả để về với vòng tay yêu thương của mẹ trời mẹ đất ư? Và chiến tranh kết thúc rồi thì sao, sống sót có thật là hạnh phúc hay không cơ chứ?

Lạc loài, cô đơn sầu cảm ngay khi đang hòa bình, đang ở giữa lòng đám đông thời đại mới, đó là những nét hay, nét đẹp mà tôi yêu ở "Nỗi buồn chiến tranh".

Nhận xét bởi Minh Huyền, vào ngày 12/10/2018



"Không có chiến tranh chính nghĩa hay phi nghĩa, chỉ có chiến tranh vô nghĩa" dường như là thông điệp mà Bảo Ninh muốn truyền đạt đến mọi người.
Kết thúc chiến tranh. người lính như gắn liền với nỗi buồn: quá khứ buồn, hiện tại buồn, và tương lai cũng thảm đạm chẳng kém. Chìm trong men say, có lẽ nhân vật nhà văn, người chiến sĩ sợ khi tỉnh sẽ nhớ về quá khứ đầy chết chóc, nhưng thân thể càng say, đầu óc càng tỉnh, và trái tim càng nặng trĩu một khối tình.
Rời đi hay ở lại, sống hay chết đã chẳng quan trọng, mà dù cho có hoàn cảnh gì, cuộc sống ra sao, những người lính là những người chịu những tổn thương sâu sắc và trực tiếp nhất, khiến chúng ta phải đau lòng vì họ.

Nhận xét bởi Diệu Anh, vào ngày 02/07/2018 Đã mua hàng



Cuốn sách đã nói lên những góc khuất của chiến tranh mà sách giáo khoa chưa bao giờ đề cập tới. Đằng sau những chiên thắng huy hoàng luôn có những nỗi khổ của các chiến sĩ.


Nhận xét bởi Phương Thủy, vào ngày 07/05/2018
Một cuốn sách rất hay, cho ta cái nhìn mới về người lính trong chiến tranh. Không còn oai hùng, không còn yêu đời, vô tư, "đi dân nhớ, ở dân thương" mà là một hình ảnh hoàn toàn mới về người lính. Một sự thật "trần trụi", khiến người đọc sốc và ám ảnh. Họ không còn là anh hùng nữa, họ cũng giống như bao người, nhớ nhà, dục vọng, sa đà vào thuốc, họ trốn lính và nhất là lãnh cảm trước cái chết,...
Có thể trong thời chiến, họ là những người hùng, những người xông pha trận mạc, nhưng khi về với thời bình, về với xã hội, họ không thể hòa đồng, họ lạc hậu, họ nhố nhăng và họ không hiểu được xã hội. Họ bơ vơ, lạc lõng, sống trong ký ức năm xưa, họ trở thành người thừa thãi trong chính cái nơi mà từng ca tụng họ.
Chắc chắn sau khi đọc xong câu truyện này, bạn sẽ phải ám ảnh nó một thời gian bởi cái khắc nghiệt mà nó đang nói đến. Thật sự, đây là một cuốn sách tuyệt vời. Cảm ơn Bảo Ninh về điều tuyệt vời này mà ông đã kể.




Biết bao nhiêu những cuốn sách đã viết về những người lính sau khi kết thúc chiến tranh cuộc đời họ sẽ bước sang một trang mới có nhiều thay đổi hơn. Thế nhưng cuốn sách này lại vô cùng đặc biệt, nó không viết lên được cuộc đời của người lính ấy thay đổi như thế nào khi trở về từ chiến tranh mà nó viết rằng cái quá khứ oai hùng máu lửa ấy, quá khứ mà chỉ biết mỗi nã súng, quá khứ đậm mùi máu tanh, quá khứ la liệt xác của anh em đồng đội cứ mãi mãi ăn sâu, đeo bám, bủa vây không bao giờ buông tha Kiên - người lính may mắn sống sót trở về, người lính mà thần chết chừa ra không gọi tên.
Cuốc sống của anh đau đớn, u uất, khắc khoải và toàn là hoài niệm, anh không thể quên đi được nhưng năm tháng ấy, anh không thể nào rũ bỏ được hết để làm lại cuộc đời. Nhắm mắt lại những hồi ức vẻ vang vinh quang thì không thấy chỉ thấy toàn là máu thịt đồng đội nằm lại nơi rừng sâu hoang vu.
Người lính trở về bỡ ngỡ với cuộc sống, người lính trở về không biết bon chen với đời, người lính ấy chỉ biết cầm súng và bắn, nã hết băng này qua băng khác, người lính ấy làm được gì để tự nuôi sống bản thân?
Chiến tranh, chiến tranh...! Chiến tranh làm tâm hồn anh mệt mỏi, đói khổ, bệnh tật, thiếu thốn đủ thứ kể cả là một nụ cười hạnh phúc trên môi. Chiến tranh và chết tróc, nào đâu ai muốn, nào đâu ai muốn mỗi ngày phải sống trong máu và máu. "... anh chỉ muốn được yên thân, chết một cách yên thân, yên với số phận con sâu cái kiến của chiến tranh..."
Nỗi buồn chiến tranh ấy ngăn không cho anh cảm thấy một chút nhẹ lòng trong đời sống hiện tại. Ngày tháng của cuộc đời anh cứ lùi lại mãi mãi. Có lẽ ấy là một cảnh ngộ trái khoáy, một sự bi quan bế tắc... một đời sống tinh thần vô vọng. Nhưng mặc dù thế tôi tin rằng anh vô cùng hạnh phúc trên con đường hướng mãi về quá khứ. Không bị sự quên lãng xói mòn... Anh sẽ được trở lại với tình yêu, tình bạn, tình đồng chí những tình cảm đã giúp vượt qua muôn vàn đau khổ của chiến tranh...