Tuesday, August 20, 2013

Đào Vũ Anh Hùng – Không bỏ anh em không bỏ bạn bè.


“ Câu chuyện bắt đầu vào một buổi sáng: Thứ tư ngày 27-03-1968 tại Không Đoàn 62 Nha Trang. Trung uý phi công Trần duy Nguyện, hoa tiêu PĐ524/KĐ62, ba mươi hai tuổi, cao một mét sáu chín, nặng 72 ký. Chiếc L19 mang số AP112584 danh hiệu Liver 02 .Phi vụ liên lạc hành quân Nha Trang- Pleiku. Trung úy Nguyện lái chiếc L19 đó. Anh cất cánh rời phi đạo 30 hồi 07 giờ 50 phút. Khoảng nửa tiếng sau thì chiếc Liver 02 ngộ nạn.
Nguyện bay tới giữa vùng Khánh Dương – Dục Mỹ thì thấy trời xấu. Mây trắng đặc đầy và sương mù kín phủ bốn phía núi non. Anh làm vòng ngược quay về, nhưng động cơ bung tiếng nổ khác thường rồi ngưng tắt. Nguyện biết lâm nguy. Nhưng anh vẫn đủ bình tĩnh kiểm lại một lần máy móc và làm các động tác khẩn cấp cho trường hợp hạ cánh bắt buộc. Anh không liên lạc được với Phi Vân bằng vô tuyến. Lúc ấy chiếc Liver 02 đang ở trên ngàn rưỡi bộ và Nguyện nhận ra khúc đường đèo M’Drak chênh vênh sườn núi mịt mù sương. Anh cho tầu lao xuống đèo. Rơi như hòn đá. Rơi như một khối vẩn thạch từ cõi thinh không giáng xuống. Thật nhanh, thật kinh hồn và Nguyện chưa xong thảng thốt, anh nghe tiếng đâm xầm dữ dội của khối sắt nặng ngàn cân cộng với trọng lượng thân thể mình khi đụng ngọn cây rừng. Toàn thân anh rung động như nhận chịu một cơn trời xập. Rồi không biết không hay gì nữa trong cõi hôn mê mịt mùng lãng đãng bắt đầu một cuộc phiêu lưu định mệnh…
Nguyện còn sống nhưng bị gãy cánh trên tay trái và thân thể anh bầm dập đau đớn thảm thương. Những đêm, những ngày, gần một trăm tiếng đồng hồ kiệt cùng sức lực, đói lạnh gian nan bò lết lần tìm về miền đất sống trong khi tử thần cao ngạo bao lần vung lưỡi hái nhưng không giết anh ngay. Mà thong thả vờn đùa cắt cứa thân anh từng mảnh thịt da quý báu
Cuối cùng với lòng can đảm tuyệt vời, với sức chịu đựng siêu nhiên, với ý chí quyết sống mãnh liệt, Nguyện đã thoát vòng hung hiểm, trở về. Hôm đó, chủ nhật 31 tháng 03 , ngày ăn mừng đầy tháng con trai đầu lòng của Nguyện….”
MỘT
———–
ASOC gọi xuống Phi Đoàn báo có một L19 mất tích trên đường đi Pleiku, yêu cầu cho các phi hành đoàn túc trực chuẩn bị việc tìm cứu. Trung trả lời nhận rõ và tôi thấy gương mặt bạn hốt hoảng:
- Tụi bây kêu mấy đứa trực Rescue và Ground-alert sửa soạn lẹ lên. Tao qua ASOC lấy Frag và hỏi chi tiết xem đứa nào rớt.
Tôi nhảy hai bước níu lấy vai Trung
- Không biết đứa nào mà sui quá vậy?…
Trung không nói gì và tôi hỏi xong mới nghĩ Trung có biết gì hơn tôi đâu mà nói? Tôi thấy Nam từ phòng Hành quân đi ra, tay cầm tấm bản đồ:
-A hay quá, các cậu vào đây. Peacock vừa báo về cho bên này biết ông Trung úy Nguyện đến giờ này vẫn không thấy đáp Pleiku, chắc rớt dọc đường…Các cậu vào lấy chi tiết rồi làm ơn nói Trung úy Bình cho an hem tìm ngay hộ. Phía Pleiku trời xấu nhưng mình cũng rang tìm may ra hắn còn sống và mình đem về kịp.
- Tội nghiệp…! Tôi hỏi Nam, Nguyện nào?
- Nguyện 524 đấy. Hắn qua bay L19 mấy hôm nay…
Tôi xửng sốt. “Nguyện 524 hả?” và cũng buột miệng kêu lên. “Tội nghiệp”. Đồng thời nghe dọc theo sống lưng mình một dòng cảm xúc tái người chạy ngược lên tủy não. Toàn thân bủn rủn. Tôi không nghe biết những điều Trung bàn bạc với mọi người trong phòng Hành quân Không đoàn những gì. Chỉ nghe, chỉ biết một nỗi kinh hoàng rời rã tứ chi. Tấm bản đồ vùng Hai to lớn trên tường, những chấm xanh chấm đỏ. Những đường bút chì mỡ khoanh tròn vạch thẳng. Rừng núi, sông ngòi, đường xá và đồng ruộng…Tôi thấy màu biển xanh nhoẹt nhoè trước mắt. Cái tai nạn của Lê chiêu Hiền tháng trước…
Chiếc U17 vùi sâu đáy biển trên đường từ Quy Nhơn về Nha Trang. Lần đó chúng tôi bay vòng ngược vòng xuôi đến mấy mươi lần dọc theo triền cát, trên vùng biển xanh, đỏ mắt trông tìm mà chỉ thấy cát trên bờ và biển điềm nhiên đưa sóng ngu si lầm lũi lao vào ghềnh đá…Những cái chết không tìm ra thân xác. Hoặc có tìm ra cũng chỉ là những tử thi biến dạng, tan nát thịt xương, đen cháy cong queo. Thật tội thương cho những người phi công dọc ngang trời rộng. Biết có một ngày hung hiểm đến mà vẫn thản nhiên nhận chịu căn phần, vẫn chứa chan tim óc trẻ trung nỗi nhiệt nồng yêu sống, mê luyến không gian. Không ai muốn mà cũng chẳng ai trôngchờ bất hạnh đến cho mình. Bất hạnh thê thảm nhất là sự chết non đến rất tình cờ. Người sống và kẻ chết đều không ngờ tới cuộc vĩnh biệt không lời từ giã.
Bất hạnh đã đến với anh Nguyện rồi sao? Mong gì một sự trở về bình yên trong những phi vụ phi cơ rớt nơi vùng núi cao biển sâu này? Tôi muốn kêu lên cho thoát nỗi nghẹn ngào thương sót kết tinh thành khối chận ngang cổ họng…Xót thương lo lắng cho anh Nguyện. Anh Nguyện dễ thương không phải với tôi ruột thịt mà tôi đã thực tình lo lắng cho nỗi an nguy của anh như người ruột thịt. Ai cũng có kẻ thù hay người khinh ghét. Nhưng tôi nghĩ, người như anh Nguyện chắc không có ai khinh ghét thù hằn, mà đều quý thương kính nể anh như tôi vậy. Bởi tính tình Nguyện đễ thương quá đi. Anh điềm đạm, ít nói, nhưng khi nói chuyện thì vui vẻ cởi mở, đối đãi thật tử tế đứng đắn với tất cả mọi người. Ở đời có những hạng người tuy chưa từng trò chuyện tiếp xúc nhưng chỉ thoạt nhìn thấy mặt là tôi ghét và đôi khi coi khinh coi thường. Nhưng cũng có những người mới vừa trông thấy là tôi đã có cảm tình , sinh lòng quý mến và coi như thân thiết lắm. Anh Nguyện là lớp người thứ hai và cái nhận xét chủ quan của tôi chưa bao giờ lầm.
Tôi không ở cùng phi đoàn với Nguyện nên không gặp anh thường và được biết nhiều về anh. Nhưng thảng hoặc được ngồi cùng bàn trong các bữa cơm trên Câu lạc bộ hay gặp nhau đâu đó, tôi chào anh, hỏi dăm ba câu chuyện, anh đều vui vẻ chào hỏi lại và vui vẻ tiếp chuyện, dùng nhân xưng “tôi” cho anh, chỉ thị đại danh “anh” với tôi, với mọi người. Nhưng hai tiếng “Anh, Tôi” không có vẻ trịch thượng, không có vẻ nhạt nhẽo hời hợt mà đầy ý niềm nở thân ái. Đôi khi lễ phép như anh dùng tiếng “dạ” . Dạ phải. Dạ vâng. Dạ thưa anh nói đúng…Mà những tiếng ấy nhiều khi làm tôi bối rối . Tôi thật tình chỉ đáng tuổi em thứ hai, thứ ba của Nguyện. Sau này tôi dần trở nên quen với sự “lễ phép” ấy và hết bối rối ngượng ngịu, nghĩ đó là lời xưng hô đứng đắn lễ độ của một người có căn bản giáo huấn tốt và tính hiền tự nhiên như khuôn mặt phúc hậu thật thà của anh. Người như thế, không thể mang một tâm địa xấu được và tôi chỉ biết nói, anh Nguyện là một người đàng hoàng. Tôi coi anh như một người anh gương mẫu khả trọng và điều này tôi giữ trong lòng, anh không biết được lại có tôi quý mến anh nhường ấy.
Tin Nguyện mất tích truyền đi thật nhanh , xôi nổi một luồng xúc động khắp Không đoàn. Người không biết anh, tôi chẳng hiểu thế nào. Riêng ở tôi, ở những bạn bè thân quen với Nguyện, tất cả đều thật tình xúc động lo lắng cho anh. Tôi nhìn thấy điều đó ở tôi, ở trên khuôn mặt mọi người, ở cái không khí nhộn nhịp hăng hái chí tình quên ăn quên nghỉ trong việc tìm kiếm tung tích chiếc phi cơ xấu số. Suốt mấy ngày trời, dọc theo lộ trình rộng lớn trùng điệp núi rừng xuôi ngược Nha Trang – Pleiku. Bao nhiêu là máy bay đổ vào phi vụ tìm cứu Nguyện. Trực thăng H34, khu trục, L19, Cessna, C47, của cả Không đoàn 62 lẫn Không đoàn 33 từ Saìgòn ra và bên Trung tâm huấn luyện. Không biết bao nhiêu lần, không biết bao nhiêu chiếc và không biết bao nhiêu người đã dồn vào việc ấy…
Cái gì khiến nên tận tình như vậy? Bổn phận dĩ nhiên phải làm sau mỗi tai nạn xảy ra hay là gì khác? “ Cái gì khác” đó, tôi biết, thúc đẩy tinh thần hăng say tận tuỵ kiếm tìm anh Nguyện vượt khỏi một cuộc tìm kiếm thông thường chính là những tình cảm đẹp đẽ và sự quý mến mọi người dành cho anh. Thiếu tá Tư lệnh phó cũng đích thân điều động và lái trực thăng ngày ngày tìm dấu Liver 02. Lòng thương yêu đằm thắm ấy, anh Nguyện, anh xứng đáng được hưởng . Hơn cả tình nghĩa bạn bè. Trên cả cái mà người ta gọi là “tình đồng đội, tình huynh đệ chi binh” . Đó là do lòng sót thương một người anh em như thể anh em ruột thịt.
Ngày đầu chúng tôi hy vọng. ngày thứ hai hy vọng mòn nhụt dần đi sau khi Lộc về cho biết có thấy một nơi rừng phía Bắc Khánh Dương có hai người đốt khói đỏ, dơ vải trắng vẫy gọi trực thăng nhưng Lộc nghi ngờ Việt Cộng lừa bắn không dám đáp vì Nguyện đi Pleiku chỉ có một mình sao lại những hai người vẫy gọi? Tuy nhiên Lộc vẫn về báo cáo và trở lại chỗ cũ thì không thấy chỉ ngoài rừng sậy và loang lổ vết cỏ khô ngún cháy.
Ngày thứ ba thì chúng tôi không còn ai hy vọng tìm thấy Nguyện và xác chiếc L19 nơi đâu. Nhưng vẫn cố công tìm kiếm đến ngày01_gray thứ tư , thứ năm… Mọi người không một tin tưởng mong manh nào nữa. Ai cũng thương sót Nguyện ngùi ngùi. Riêng tôi nặng thêm lòng uẩn ức. Sao không chết những thằng bần tiện, những thằng không đáng được gọi là người, những con bọ hung hôi thối trong đoàn thể đang làm điều nhơ nhớp nhục nhã đến chúng tôi. Đang làm vấy bẩn, uế tạp bộ áo Không Quân danh diện của chúng tôi, mà chết những người như Nguyện?… Ôi anh Nguyện dễ thương, anh Nguyện hiền lành. Không biết anh còn sống hay đã thịt xương rữa nát? Tôi cầu mong có một “phép màu” nào đó cứu mạng sống anh, và đưa anh Nguyện của chúng tôi trở về. Đem lại ấm cúng cho gia đình anh, để anh chung chia thống khổ với đồng bào, tham dự với chúng tôi cuộc chiến đấu đắng cay nhọc nhằn hiện tại. Sơn bảo với tôi rằng anh vừa có con trai đầu lòng chưa tròn tuổi thôi nôi. Tôi nghe quặn thắt trong lòng. Mối thương tâm buốt nhức làm hoe nước mắt. Tôi tưởng tượng ra khi người vợ trẻ của anh nhận được hung tin. Tôi nghĩ đến Quang chết cháy trong chiếc khu trục trúng đạn và rơi khi nó giáng từng loạt bom sấm sét xuống ngay đầu kẻ thù man mọi. Quang chết đúng một tuần sau đám cưới. Ngân đã ngất lịm sau tiếng kêu thảng thốt xé trời. Những cơn khóc than kể lể bi thương làm tôi mủi lòng. Chị Nguyện rồi sẽ ra sao? Cả đứa con trai đầu lòng của anh Nguyện nữa? Tôi đâu có biết mặt vợ con anh . Tôi băn khoăn chẳng hiểu mai này lớn lên trong trí óc sơ sinh của con trai Nguyện có mờ phai chút nào hình ảnh gương mặt người cha rạng rỡ hoan lạc phút giây nhìn nó mở mắt chào đời? Đứa con sinh ra thời chiến và tự sơ sinh đã mất vòng tay chắt chiu nựng nịu của người cha. Thật là tội thương cho nó.
HAI
______
Ba giờ trưa ngày chủ nhật 31-03. Tôi đang nằm đọc quyển Văn, thì Cầu mở toang cửa nhảy vào phòng la chói lói:
- Anh Nguyện về rồi mày ơi! Trực thăng bên phi đoàn mày vừa đem về đây xong tức thì.
Nỗi mừng rỡ bật tung tôi dậy. Sự mừng rỡ lớn lao đột ngột quá làm tôi đứng sững. Cầu nói:
- Bác sĩ Trụ đem “thằng chả” qua Nguyễn Huệ rồi. Đụ họ…thiệt hên hết sức!
Tôi hỏi:
- Mày thấy hắn sao không?
- Mẹ, thiệt dễ sợ, trông “đíu” giống ai hết. Quần áo rách mướp đầy bùn xình. Gãy tay, lọi giò, bầm tím cùng người nhưng coi bộ “thằng chả” vẫn khỏe và nói chuyện tỉnh khô à.
Tôi cười, đưa tay nắn bả vai, nói:
- Thiệt mừng kể gì hả? Để hắn tĩnh dưỡng yên yên, hôm nào tao đi thăm…
Anh Nguyện được đưa vào Quân y viện Nguyễn Huệ đến đúng chủ nhật sau tôi mới có thì giờ vào thăm anh gần trọn buổi sáng. Anh Nguyện nằm trong phòng nhìn thấy tôi và gọi. Tôi đi thoáng qua, nhìn vào, anh nằm đấy mà đâu nhận ra, ngờ ngợ ngó thân thể nào bó bột trắng hếu cả mình, cả cánh tay nằm trên giường bệnh viện cho đến khi anh lên tiếng gọi và tôi mừng rỡ. Anh mời Hảo, mời tôi ngồi trên hai chiếc ghế cạnh giường, nhờ Hảo lấy dùm gói Pall mall, vồn vã mời chúng tôi hút thuốc. Anh cũng hút một điếu và tự bật lửa bằng cánh tay còn lành lặn. Đó là cánh tay phải,không bó bột. Tôi nhìn anh, quan sát từ đầu đến chân, vừa trả lời anh những câu hỏi, vừa hỏi anh về tình trạng sức khỏe . Anh mặc có chiếc quần đùi, đôi chân rắn chắc đầy những vết tray xướt quẹt thuốc đỏ và những vết bầm tím chưa tan. Nguyện nói anh bị gãy cánh trên tay trái, dập một hai đốt xương sống và cùng khắp thân thể bầm tím như nhuộm chàm, nhất là khoảng từ lưng trở xuống mông mà tôi không thấy vì anh được bó bột. Bác sĩ khoét một mảng trước bụng cho khỏi hấp hơi.
- Bây giờ tôi đỡ nhiều lắm rồi đó anh. Hôm mới về tôi nói ai thấy cũng hết hồn không dám ngó.
Tôi cũng nghĩ là bây giờ anh đã đỡ nhiều lắm và thấy anh như không xụt cân, vẫn rắn chắc đẫy đà nhưng da mặt thì xanh mướt. Nguyện nói chuyện nhiều, cười nhiều. Giọng nói và nụ cười của anh vẫn ròn rã cởi mở nhưng dường như chứa đựng nhiều hân hoan vui sướng vì nỗi mình thoát nạn, nỗi bạn bè thương quý nườm nượp đến thăm mỗi ngày với quà bánh và những lời an ủi. Anh kể suốt hơn một tiếng đồng hồ cho chúng tôi nghe về cuộc phiêu lưu định mệnh vừa mới trải qua, hãi hùng tưởng như mơ mà có thật. Anh kể cho chúng tôi nghe rõ ràng mạch lạc cả từng điều nhỏ mọn trong cuộc vật nhau với tử thần dài chín mươi chín tiếng và cuối cùng anh thắng vinh quang đem sinh mạng trở về vùng đất sống.
BA
——–
Nguyện tỉnh dậy sau cơn hôn mê dài lãng đãng phiêu diêu hồn phách. Tỉnh dậy bàng hoàng như vừa qua một giấc mơ êm đềm mê mẩn chẳng hề tri giác một phân đau trên cơ thể. Tỉnh dậy và nghe đầu tiên là tiếng chim kêu và thấy đầu tiên là vùng sáng tối ảo mờ chốn rừng hoang tịch mịch. Một giây bỡ ngỡ rồi anh hồi tưởng được ngay…. Bắt đầu từ lúc chiếc Liver 02 lúng túng trở xoay trong biển mây mù rồi đột nhiên ngưng tắt. Rồi mang cả phi công vùn vụt lao xuống rừng cây bên phải con đường đèo M’Drak. Màu xanh, tiếng kinh hồn trời xập. Màu đỏ, hào quang chói lói….Bàn tay nào phũ phàng dìm tôi xuống, nâng tôi lên, nhẹ hẫng, bềnh bồng và tôi không biết không hay gì nữa…
Bây giờ thì Nguyện biết mình vừa hồi tỉnh sau cơn lịm ngất dài. Chiếc đồng hồ tay còn chạy 11giờ 30. Lúc máy bay rơi tám rưỡi. Nguyện nghe ê ẩm váng vất. Anh cựa mình,. Cổ anh như gãy, sống lưng anh như gãy. Cánh tay trái đau dội lên làm Nguyện cứng người cắn răng mà chịu. Đầu anh cũng nghe ê ẩm và như có tảng máu khô bết nặng. Anh nhắm mắt thở, trán vã mồ hôi. Nguyện thử nhấc cánh tay và anh phát giác nó đã lọi, gãy lìa ống xương cánh trên. Không có máu thấm ra vải áo phi hành nhưng Nguyện nghe rõ các mảnh xương gãy bên trong như dằm củi nhọn, như vụn thủy tinh đâm xối vào thớ thịt khiến Nguyện đau buốt choáng người muốn trào nước mắt.
Nguyện thấy mình không hẳn ở trong mà cũng không hẳn ở ngoài phòng lái. Sợi dây an toàn vẫn giữ anh liền ghế phi cơ nhưng nửa thân trên nghiêng lọt ra ngoài. Cánh cửa bật tung đâu mất, kính tàu vỡ vụn. Chiếc máy bay của anh. Nó không còn hình thù của chiếc phi cơ nữa. Cánh quạt, đầu máy và khung phòng lái cong queo biến dạng như có bàn tay mạnh mẽ vô cùng nào xoắn vặn. Nguyện rùng mình khi nhìn xuống nền đất dốc nghiêng. Mảnh helmet tan tành vung vãi cùng những mảnh kim khí vụn nát của thân tàu. Ôi nếu đầu anh không có chiếc nón bay che chở?…Xác thân anh là thịt xương trăm ngàn lần mềm hơn sắt thép. Anh sống sót thật kỳ diệu.
Nguyện nhớ nơi mình rơi xuống bên phải con đường đèo M’Drak. Con đường rắn lượn hình cung và anh có thể theo hướng 180, 200, 250, 279, …mà đi là ra mặt lộ. Yên vắng trong khu rừng u tịch vây bủa tứ bề. Nguyện nhìn những chiếc kim, những con số , những vạch đỏ xanh vàng trên các mặt đồng hồ phi cụ. Tất cả đều im lìm bất động khiến Nguyện mung lung bối rối. Phải chui ra khỏi chiếc L19 xấu số và tìm kiếm đường về. Qua giây lát suy nghĩ. Nguyện nghiến nát cơn đau đớn giữa hai hàm răng, dùng bàn tay phải hì hục toát đẫm mồ hôi gắng sức bẻ cho bằng được chiếc la bàn cầu du chuyển đã gãy rời ba con ốc vặn. Có đến gần nửa tiếng sau Nguyện mới xong công việc gỡ lấy chiếc la bàn. Mệt muốn đứt hơi, anh ngồi rũ người thở dốc…
Nguyện ra khỏi phòng lái bằng cách trườn mình cho người rơi xuống đất. Cánh tay phải với bàn tay nắm giữ chiếc la bàn không đủ sức chống đỡ và Nguyện phũ phàng rơi xuống như tấm rẻ rách. Anh bật lên tiếng thét đau đớn xé trời, nghiến răng ràn rụa nước mắt nằm phủ phục mà chịu nỗi đau đớn tái tê đến tận nguồn thần kinh cảm giác. Nguyện mệt lả, đau nhức khốn cùng và anh không dám chống tay ngồi dậy bởi anh biết mình không đủ sức ngồi dậy. Không dám cử động mạnh nữa. Đau đớn nhức buốt ở từng khớp xương, ở từng thớ thịt. Nguyện xoay người nằm ngửa trên triền dốc, anh thử co duỗi đôi chân. Chân anh không gãy nhưng cả hai đều bị trật khớp ở cổ chân. Anh thử cựa mình, thứ đau đớn nào nhọn hoắt nhói lên nơi xương sống ngang thắt lưng. Nguyện lại nằm yên đưa đôi mắt nhìn cảnh vật.
Cây rừng bay cao ngó xuống thì tủn mủn rong rêu, nhưng ở dưới lại là đại thụ cao to lá tàn rậm rạp. Lá như khối đặc âm u che khuất nắng trời. Nguyện đếm được tất cả ba ngọn cây cao bị phi cơ anh chém. gục. Chiếc phi cơ thì đuôi cánh gãy gập, dúm dó chúi đầu nằm thê thảm giữa các mảnh kim khí vỡ văng vãi tùm lum. Bốn trái Rocket chưa nổ nằm ù lì lăn lóc dưới cánh tàu gãy cụp. Một giọt nắng xuyên qua kẽ lá xoi thẳng vào mắt Nguyện, anh thiêm thiếp muốn ngủ…
Nhưng vừa chợp mắt thì Nguyện nghe văng vẳng tiếng máy bay ầm ĩ. Anh choàng tỉnh, lắng tai và tim đập mạnh. Tiếng động cơ ròn rã quen thuộc đến gần. Tiếng trực thăng! Không phải một mà những hai chiếc H34 song song ồ ạt bay ngang, thật thấp và ngay trên đầu Nguyện. Bóng hai chiếc phi cơ loáng thoáng trên vùng lá biếc và Nguyện rộn rã cơn xúc động bồi hồi…Anh biết họ đi tìm mình và nôn nao mừng rỡ. Nguyện muốn bật tung người dậy hò hét vãy gọi bạn bè anh trên đó biết anh ngộ nạn chỗ này xuống cứu. Nhưng anh không vùng dậy được , không làm gì được mà chỉ nằm yên nghẹn ngào trông lên bóng hai chiếc trực thăng bay thật gần, thật thấp trên vùng cây lá um tùm…
Anh nghe rõ tiếng cánh quạt chém gió phành phạch, tiếng máy nổ ầm ĩ vụt qua…cho đến khi trở lại ầm ì rồi tắt, vậy mà Nguyện vẫn ngẩn ngơ văng vẳng bên tai những lời mời gọi, hối thúc anh trỗi dậy. Bạn bè đang đi tìm kiếm anh, họ sẽ trở lại nhiều lần nhưng chắc chắn không ai thấy bởi cây cao lá rậm và Nguyện không có cách nào báo hiệu. Anh chẳng mang theo một dụng cụ trang bị cấp cứu cá nhân nào kể cả con dao, khẩu súng. Giá bây giờ có một viên đạn hỏa châu nhỏ bé hay một trái khói màu?…Tại tôi coi thường không đem theo những thứ người ta cấp phát. Tôi đã còn sống sau tai nạn, rồi nếu có chết thê thảm, chốn rừng hoang này chính là tự tay tôi hủy diệt mạng sống mình.
Nguyện nằm ôm mối uẩn ức giận trách mình. Anh bỏ chiếc la bàn xuống đất, đưa tay nắn túi áo bay và móc ra được chiếc bật lửa. Anh loay hoay gắng gượng chịu đựng đau đớn bám lấy thành tàu đu người dựa vào mặt chiếc phi cơ, với tay mở nắp bình xăng. Mùi nhiên liệu thân quen nực nồng khứu giác. Nguyện tính đốt tàu gây đám cháy làm hiệu cho phi cơ bạn trông thấy nhưng anh thất vọng.
Bật bốn năm lần không nhen chút lửa thì chiếc hộp quẹt hết đá. Nguyện nhét bật lửa vào túi áo. Lúc đó anh mới giật mình hoảng sợ nghĩ đến điều nếu đốt tàu , bình xăng nổ, cháy tràn lan, anh không thể nào chạy thoát và sẽ bị thiêu sống. Nguyện thở phào, đưa mắt tìm kiếm trong tàu…Anh thấy dưới gầm ghế hoa tiêu có một gói dù và một trái khói màu còn nguyên vẹn. Anh xúc động, lẩy bẩy rướn người nhoài tới. Cánh tay trái anh gãy lặc lìa như cành cây chỉ còn dính với thân bằng lượt vỏ, đong đưa trước gió. Nguyện chỉ còn cánh tay phải để xử dụng cho việc nặng nhọc lung túng xoay vần, kéo đẩy chiếc dù và trái khói màu rơi xuống đất. Đau đớn dội lên nhưng Nguyện mím môi cưỡng chống, nằm ôm lấy gói dù mà thở. Lúc này ruột gan anh mới cồn cào vì đói…Buổi sáng Nguyện vào phi đoàn sớm. Trước khi đi bay anh ghé vào câu lạc bộ Phi Hổ mua khúc bánh mì jambon 25 đồng bạc, để trên giá đựng bản đồ tính nhẩn nha vừa bay vừa ăn sáng nhưng chưa kịp cắn miếng nào thì tai nạn xảy ra, khúc bánh mì đã bay đâu mất.
Cơn đói làm Nguyện cồn cào gan ruột , bải hoải toàn thân. Anh nghe đầu nặng, mắt hoa, bắp thịt rung chuyển, người nóng bừng bừng như lên cơn sốt, đầu óc váng vất khó chịu. Chất chua từ dạ dày đưa lên miệng khiến Nguyện buồn nôn. Đói và khát nữa. Lưỡi anh tê đắng và cổ họng, môi khô. Nguyện nằm áp má thiêm thiếp trên gói dù đưa mắt lờ đờ nhìn xuống triền dốc…Đói khát, mệt mỏi, đau đớn khiến Nguyện tưởng chừng kiệt cùng hơi sức không sao gượng nhích được. Nhưng Nguyện đã nhích gượng. Hơn thế nữa, anh nhổm dậy, nghiêng người chống khuỷu tay bò như con thằn lằn bị dập nát hai chân sau. Bằng cách dùng cánh tay phải làm điểm tựa, nhón đội mũi giày đẩy cả thân hình đồ sộ kéo cánh tay gãy, lết từng phân một xuống con dốc ngắn. Bởi ở dưới đó có một khe nhỏ mà Nguyện thì khát khô môi họng. Đá dăm đâm qua làn vải áo nát cánh tay anh. Khoảng cách đến khe nước bùn không hơn bốn mét, vậy mà có đến nửa giờ mới lết tới được. Anh hảo hển gối má nằm nghiêng trên những hòn đá nhọn của bờ vũng, ghé miệng tham lam cuồng dại mà uống, mà thở. Nước bùn ngầu đục tanh tưởi rong rêu mùn lá nhưng anh bất kể. Nguyện mê mẩn uống, say sưa uống từng dòng mát lạnh vỗ về cổ họng khô khan, tưới mát ruột gan bỏng cháy, nghe sảng khoái lâng lâng. Anh lăn người vào trong vũng nước tận hưởng cơn mát mẻ dễ chịu thấm qua làn vải áo phi hành. Rồi như trẻ con no sữa. Nguyện nhắm mắt lại, anh thiếp đi hay ngủ cũng không biết nữa.
Nguyện tỉnh dậy lúc xế trưa. Anh vẫn sũng người trong bùn ngầu đục. Đồng hồ tay anh chỉ 3 giờ 10 phút. Lại có tiếng máy bay ầm ĩ trên vùng cây cao vợi. Nằm chỗ này. Nguyện thấy được một mảng trời xanh dị dạng giữa khoảng lá thưa gió thổi chập chờn. Có một giải mây trắng nõn lững thững bay…Ôi cánh mây giang hồ mỏng manh kia sáng nay có góp phần trong khối mây mù mịt bưng bít mắt anh, cản lối phi trình và làm anh ra nỗi hoạn nạn thế này không? Tiếng máy bay ù ù một điệu từ trên không đồng vọng. Nguyện thấy một chiếc L19 buồn hiu lủi thủi bay ngang mảnh trời xanh có giải mây trắng nõn ấy. Một lát sau lại thêm hai chiếc trực thăng song hàng rầm rộ lướt qua. Anh thấy rõ những cái bụng thon dài đậm nét trên nền trời xanh lơ, những con số màu vàng và lồng kính phi cơ chói loé ánh mặt trời phản chiếu. Nguyện cảm động nghĩ đến bạn bè đang nôn nả kiếm tìm mình. Nhớ tới trái khói màu. Nguyện lẩy bẩy chống tay rời khe nước bò lên. Không mang thương tích chỉ cần vài bước nhảy là tới, nhưng lúc này Nguyện chỉ nhích người bò lết được vài phân mét lại nằm nhăn nhó vì đau đớn, hồi lâu mới ngóc đầu tiếp tục bò thêm vài phân mét nữa. Khoảng cách thật gần nhưng thời gian bò lết dài quá đỗi. Trong khi đó thỉnh thoảng anh lại nghe, lại thấy những chiếc phi cơ tìm cứu bay ngược suôi trên đầu. Chúng làm anh nôn nao cuống quíu. Nguyện với được trái khói màu, anh chờ đợi tiếng máy bay, ghé răng giựt chốt an toàn, quơ tay thảy xuống triền dốc….
Trái khói vừa lăn vừa cuồn cuộn tuôn màu xanh đậm. Nguyện nằm chong mắt nhìn và ngửi mùi khét tràn không khí. Gió từ trên lùa xuống, khiến khói không vươn lên được, mà rạp mình bò sát mặt đất. Gió làm nhiễu loạn dặt dìu đám khói, loãng nhạt dần màu xanh đậm và cuối cùng chỉ còn những sợi mỏng tanh uốn éo tan biến trong không khí. Hy vọng của Nguyện cũng lụn tàn, nghĩ nếu trời im gió khói xanh có bốc lên cao, phi cơ cũng khó mà thấy được bởi màu xanh của khói tiệp với màu xanh của rừng. Anh thở dài chua xót…Bạn bè tôi đôn đáo từ sáng đến giờ tìm tôi nhiều quá. Mà tôi thì mỗi lần tỉnh dậy nghe tiếng động cơ rền rĩ kiếm gọi, muốn làm hiệu đáp lời, muốn hét to như sấm sét bảo với họ rằng tôi đang bồn chồn cuống cuồng chờ đợi ở đây, nhưng tôi không làm chi được. Tôi mang thương tích thảm thê, tôi đã kiệt cùng sức lực…
Nguyện đâm sợ hãi những tiếng ầm ĩ rền rĩ của máy bay, nghe như lời nghiêm khắc mỉa mai trách mắng làm anh uất nghẹn. Nỗi ăn năn dằn vặt khi nghe tiếng động cơ trên cao vọng xuống làm anh hoang mang bực tức. Nguyện muốn bưng tai nhắm mắt ngủ vùi, thiếp đi hay chết để khỏi chịu đựng đau đớn khổ sở trên thân và cả trong lòng. Anh chỉ còn mong manh hy vọng ở đây bên xác chiếc L19 may ra tới chiều bạn bè sẽ thấy và xuống cứu.
Cho tới bảy giờ chiều, suốt ba bốn tiếng nằm chờ, Nguyện nghe tiếng và trông thấy đủ loại máy bay qua lại nhiều lần. Trực thăng, L19, U 17, C47, và cả HU1 của Mỹ nữa. Khi nắng chiều chỉ còn thoi thóp và tăm tối dần nhuộm đen khu rừng. Nguyện không thấy bóng một chiếc phi cơ nào nữa. Quanh anh chỉ có một bầu tịch mịch im vắng hãi hùng như cõi chết. Đêm đã xuống hoàn toàn nhưng đêm có trăng và đêm có sao cho Nguyện chút ánh sáng mờ đủ nhận ra cảnh vật, đủ cho anh nhận ra một phiến đá rộng phẳng phiu nằm phơi lưng dưới ánh trăng cách chỗ anh đang ngồi chừng 15, 20 thước, không có bóng cây che. Nguyện đã ngồi dậy được nhưng di chuyển thì phải bò bằng vai và dùng gót giày đẩy thân mình nhích tới. Suốt một đêm dài, anh hì hục bò, kéo theo bọc dù tới phiến đá. Chiếc dù trở nên nặng vô cùng. Khoảng cách không đầy hai chục mét đối với Nguyện thật là dài. Suốt đêm mệt lả, ngủ thiếp và ngất đi không biết bao nhiêu lần mà đếm. Khi giật mình tỉnh dậy anh lại tiếp tục bò trên đường gồ ghề sỏi đá, chằng chịt giây leo, lồi lõm hiểm trở để vần bọc dù tới nơi phiến đá lộ thiên.
chiếc la bàn cầu du chuyển Nguyện làm rơi xuống triền dốc, nằm trong đám cỏ dưới một hố nông chỉ nửa sải tay là với tới nhưng anh loay hoay mãi cũng không lấy được. Nguyện đành bỏ và tiếp tục kéo chiếc dù tới sáng, Chung quanh phiến đá là những cỏ tranh đã cháy tro tan dầy tung lên làm Nguyện ho sặc sụa. Đến sáng thì Nguyện đã ôm bọc dù nằm trên phiến đá, chân tay quần áo đen đúa tro than bùn đất và bộ đồ bay màu cam trở thành màu gì bẩn thỉu, rách tả tơi. Nguyện đã đem được gói dù tới phiến đá, đã mở được bọc ngoài nhưng anh xoay trở mãi vẫn không thể nào trải nổi. Cái dù quá rộng, phiến đá thì không bằng phẳng và cao…
Ngày thứ hai, bình minh trong khu rừng còn đẫm sương đêm và có lời chim hót. Sáu giờ ba mươi. Nguyện bỏ chiếc dù, bắt đầu khởi hành ra phía bìa rừng không có cây cao chỉ toàn cỏ tranh vượt đầu người cùng những cây thấp. Bữa điểm tâm của anh là những ngụm nước đầy rong rêu và những con sâu nhỏ mà anh bẻ nắp bật lửa múc nước từ vũng đọng trên phiến đá.
Về trưa ánh nắng càng gay gắt thiêu đốt Nguyện hừng hực. Chiếc áo bay bốc hơi hôi nồng, khô cứng. Đói và khát vô cùng. Cổ họng, môi anh khô bỏng nhưng Nguyện vẫn nhủi đầu dùng bàn tay khỏe mạnh gạt những bụi cây nhỏ đan chằng chịt trườn bò từng tấc…Qua vùng lau bụi, qua chỗ bằng phẳng, qua triền đất dốc đá núi gồ ghề sắc cạnh, tới nơi có bóng cây râm mát trốn chạy nắng như đổ lửa. Nguyện thấy một vũng bùn mà anh tưởng như gặp dòng suối mát, hổn hển bò tới vục mặt tham lam mút từng chút nước đen tanh tưởi xác côn trùng. Anh bò đi, đói khát, lại bò trở lại vũng nước đó mà uống đến hàng chục lần. Có lúc Nguyện thấy đủ loại cây ăn trái mọc hoang trong rừng như soài, ổi, mít, khế…nhưng còi cọt không hoa quả. Mà giả có quả anh cũng bất lực ngẩng cổ nhìn thèm chớ không sao với tới một cành thấp, nói gì đến việc trèo lên mà hái?
Một lần Nguyện đã thử đứng hẳn dậy bằng hai chân để bức mấy chiếc lá khế mà ăn, nhưng anh mới vừa thẳng người đã lao đao ngã vật,ngất đi vì đau đớn. Ba bốn phút sau đó Nguyện mới tỉnh, đầu bê bết máu vì khi ngã va đầu vào đá nhọn. Cánh tay gãy tòn ten bị động lại đau nhức điếng người. Nguyện hoàn toàn cô đơn lạc lõng. Lúc này Nguyện ước ao có được bất cứ một ai bên cạnh giúp mình. Anh cùng quẫn muốn điên loạn. Anh đã cùng đường bi thảm. Mấy lần Nguyện bật tiếng la như người quẫn trí:
- Có ai nghe tôi không? Tiếp cứu! Tiếp cứu!…
Chỉ có tiếng vang của anh trả lời, âm thanh lồng lộng trong miền hoang vu như chế nhạo mình.
Mười giờ sáng Nguyện thấy một trực thăng H 34 bay ngang sát đầu, ngay trên ngọn cây khế dại. Anh tràn trề hy vọng rồi lại tuyệt vọng ngay, khi chiếc trực thăng vô tình bay thẳng.
Suốt ngày 28-03 Nguyện bò được không đầy hai trăm thước. Đêm anh nhìn sao nhắm hướng mà bò. Buổi chiều khi hoàng hôn tắt. Nguyện gặp một hiện tượng huyền bí mà anh không hiểu có thật hay chỉ là ảo giác? Lúc ấy Nguyện hoàn toàn tỉnh táo. Anh bỗng nghe có tiếng đàn bà rất thanh thoát, rõ ràng ở ngay bên cạnh , vồn vã mời Nguyện:
- Lại đây, lại quán này có nhiều món ăn ngon lắm!
Nguyện cảm như có một bàn tay mềm mại nắm bả vai anh đẩy tới và xô mạnh khiến Nguyện ngã xấp xuống vũng nước bùn. Anh ngoan ngoãn uống, bên tai vẫn nghe tiếng nói trong thanh đó mời mọc rồi lơ mơ thiếp đi một giấc dài. Khi tỉnh dậy đã khoảng 8 giờ tối, lại nghe có tiếng đàn ông kêu:
- Thôi đừng ăn ở quán này. Qua bên kia có đồ ăn ngon gấp ngàn lần…Anh cứ việc ăn uống cho đã rồi tôi có đủ phương tiện đưa ra đường đón xe mà về, đừng lo…
Rồi Nguyện được đưa vào một quán nhậu, được mời những món thơm ngon vô cùng nhưng anh không thấy rõ mặt người đàn ông đàn bà mà chỉ nghe tiếng nói. Đến đêm, bò một quãng lại thiếp ngủ. Trong giấc mơ màng, Nguyện nghe nhiều tiếng người cười nói xôn xao, mơ thấy mình nằm bên cạnh những người bà con họ hàng đủ mặt. Nhưng khi tỉnh dậy anh lại thèm khát lạ lùng những thứ thật bình thường như một ly nước Sunroc, một ly nước mía hoặc một chút cặn càphê sữa…Ôi khi đói khát người ta nảy sinh những cơn thèm muốn hèn mọn làm sao.
Hai ngày trôi qua. Sáng ngày thứ ba. Nguyện thức giấc thật sớm. Đồng hồ của anh ngưng chạy từ lúc 12 giờ 30 đêm trước. Ý niệm về thời gian bây giờ là nhìn mặt trời. Lại qua một ngày, lại qua một đêm, gian nan đói khát lần bò trên đất đá lởm chởm trong các bụi tre gai, những bãi tro đầy bẩn thỉu. Đói khát đau đớn hành hạ anh khổ sở. Đêm thì lạnh, ngày thì nóng như thiêu. Suốt bốn ngày trời anh sống toàn bằng nước bùn, không có một miếng gì vào miệng. Có những vũng bùn chỉ sâm sấp nước, không thể vục mặt uống được. Nguyện dùng vỏ bút nguyên tử hút từng chút. Một lần trông thấy một cây chuối non mới mọc bị cháy lá và không có củ. Nguyện bật rễ, phủi qua lớp than tro bám bên ngoài rồi đưa lên miệng toan nhai nuốt nhưng anh vội nhổ ra ngay. Chất nước chát xịt và đắng khiến Nguyện không tài nào nuốt nổi.
Lần khác Nguyện bắt gặp một con nhái nhỏ bằng ngón chân cái ngồi chễm chệ trên một hòn đá cạnh vũng bùn. Anh mừng quýnh, không chần chờ do dự chồm tới chụp con mồi. Nhưng Nguyện vồ hụt! Anh nằm sấp trên vũng bùn tức tối thèm thuồng nhìn theo chú nhái tí hon nhảy vào đám cỏ. Nỗi tuyệt vọng chán chường của Nguyện đã đến cực cùng. Ngày nào cũng thấy phi cơ bay ngang nhưng anh không ra hiệu được. Đôi bàn chân ướt sũng làm đôi giày cao cổ nặng chĩu. Nguyện cởi giày vứt bỏ đôi bí tất hôi thối nồng nặc, phơi chân khô, lại xỏ giày tiếp tục bò. Suốt ngày anh không vượt quá 200mét. Bao nhiêu nghị lực gắng gượng đến chiều thứ tư là tàn lụn không còn chi nữa. Nguyện tin tưởng trăm phần mình gục chết ở nơi đây, anh đau đớn trông chờ may rủi. Đêm đó Nguyện không bò nữa, anh nằn rũ liệt nhưng trí óc sáng suốt tỉnh táo vô cùng. Ký ức nảy nở những hình ảnh, những gương mặt thân quen, những kỷ niệm từ thủa xa xưa như cuốn phim dài hiện lên rõ ràng đầy đủ hơn bao giờ hết. Có lúc anh mơ thấy được ăn uống những món sơn hào hải vị chưa khi nào được nếm trong đời. Có lúc Nguyện mơ thấy vợ con, chị em, cha mẹ…nằm ngay bên cạnh. Anh thảng thốt choàng dậy gọi thành tiếng tên người yêu dấu…
Đêm mông lung lạnh lẽo chỉ có tiếng thầm thì âm u của gió và tiếng côn trùng rỉ rả. Nguyện không sợ đêm đen. Anh không sợ rắn rếtL-19Olive thú dữ , không sợ gặp Việt Cộng. Anh không nghĩ đến những điều đe dọa có thể đến với mình mà chỉ băn khoăn làm sao thoát nơi đất chết này trở về. Nguyện không muốn chết. Anh hình dung ra nụ cười trẻ thơ của đứa con trai đầu lòng bụ bẫm ngày mai vừa tròn thôi nôi…Vợ anh, con anh! Ôi mái gia đình ấm êm hạnh phúc cần có anh hiện diện. Tình thương thiết tha dâng ngập khiến Nguyện rưng rưng nước mắt. Anh phải trở về. Phải gượng gắng đến cùng tìm ra đường về xum họp với vợ con, bè bạn…
Sáng chủ nhật 31 tháng 3, ngày thứ năm của cuộc hành trình bi thảm. Nguyện như được tưới thêm chất sống nhờ hình ảnh đứa con trai bé bỏng. Anh dậy thật sớm với lòng hăm hở quyết định sống còn lần chót. Hoặc anh trở về, hoặc anh gãy gục cuộc đời trong ngày hôm nay. Bao nhiêu sức lực đã cùng kiệt, tình thương thắm thiết cho đứa con trai đã tưới bùng ngọn lửa nhiệt thành yêu sống trong anh lần cuối. Anh khởi hành từ mờ đất, bò lết đến 10 giờ sáng thì Nguyện nghe có tiếng xe chạy!
Ôi thật mừng kể gì…Tiếng xe hơi có vẻ gần lắm và Nguyện bồi hồi cảm động. Chừng tiếng rưỡi sau. Nguyện mới thấy quốc lộ phơi mình dưới nắng. Anh đầm đìa nước mắt tủi mừng. Suốt mấy ngày trời gian nan khổ nhọc bây giờ Nguyện mới thật sự khóc dàn dụa. Anh lết được tới bờ đường. với tay xoa vuốt mặt nhựa nóng hầm hập mà lòng chứa chan mừng tủi. Nhưng lúc đó không có một chiếc xe nào chạy ngang. Nguyện thấy chiếc L19 mang dấu hiệu Không Quân Mỹ chao liệng trên khúc đường đèo cách nơi anh nằm chừng 500 mét, rồi thêm hai chiếc Huey loại Gunship xuất hiện. Những chiếc trực thăng hung hãn chúi đầu thay phiên nhau bắn từng loạt đại liên, rocket xuống dọc hai bên khúc đường đèo M’Drak, tiếng nổ ròn rã vang lên. Nguyện thấy rõ những tia lửa xẹt, đất đá bụi mù tung tóe cùng những cụm khói nhỏ rải rác bốc lên. Mới đầu Nguyện toan trườn hẳn lên mặt đường cho phi cơ trông thấy nhưng sau khi nghe tiếng nổ, anh hoảng sợ…Nguyện không dám nằm bên vệ đường vì sợ phi cơ bắn lầm, bèn bò ngược lại, lăn mình nấp sau một gò đất có cỏ cao che kín…
Có đến ngoài 30 phút thấp thỏm hồi hộp lo sợ cứng người trước cái chết oan uổng kỳ cục có thể đến với mình, khi hai chiếc trực thăng bay đi. Nguyện mới hoàn hồn bò ra ngoài đường cái. Anh nằm phơi nắng, nhuễ nhại mồ hôi chờ một chiếc xe qua. Nhưng xuốt hơn một tiếng đồng hồ, có tất cả mười bốn chiếc xe hàng suôi ngược đường Khánh Dương – Dục Mỹ chạy qua. Nguyện dơ tay vẫy, không xe nào ngừng. Tài xế chạy chậm lại. Thấy anh họ trợn mắt nhìn kinh hãi tưởng như thấy con vật kinh khủng hay một con quỷ đội mồ hiện lên, nhổm người ngó anh rồi hết hồn rú ga chạy thẳng.
Nguyện chua sót nhìn lại thân thể mình. Anh cũng không thể tưởng tượng ra anh nữa. Bộ áo bay màu cam rách nát bết đen tro bùn, mặt mũi tóc tai chắc cũng kinh tởm lắm nên tài xế và những hành khách trên 14 chiếc xe đò mới nhìn anh sợ hãi và bỏ chạy như vậy. Nguyện đành liều bò ra giữa đường, khi anh thấy chiếc xe hàng thứ 15 từ phía Dục Mỹ bon tới. Chiếc xe thắng gấp giữa đường, những cái đầu nhô ra xôn xao bàn tán. Đó là chiếc xe du lịch hiệu Renault chở hành khách mang chữ “ Hương Bình”. Anh ngóc đầu đưa tay ra dấu…
Nguyện được người tài xế và một ông già hành khách vực lên, đặt ngồi trên băng trước. Anh biết mình từ phút này kể như thoát nạn. Anh tài xế có tên là Bảy. Những đàn ông đàn bà ở các băng sau ồn lên lời hỏi han, xót xa tội nghiệp khi được anh cho biết là Phi công rớt máy bay. Những người ở sau chuyền lên những khúc bánh mì, những chai nước và cả những lọ dầu khuynh diệp…Nhưng Nguyện mừng quá đỗi anh không thấy đói. Ông khách già ôm lấy anh dùng khăn ướt lau sạch những vết máu khô trên mặt và đổ cho anh uống từng ngụm nước cam. Nguyện như đứa trẻ yếu đuối ngoan ngoãn uống những dòng nước ngọt lịm như sữa mẹ trong bàn tay âu yếm sót thương của người hành khách già nua. Những săn sóc nhiệt tâm ấy khiến anh bồi hồi cảm động. Tình quân dân, tình đồng bào ruột thịt đẹp đẽ làm anh mừng mừng tủi tủi…
Chiếc xe hàng ngừng ngay trước cửa văn phòng Quận Khánh Dương. Ông Quận trưởng và nhân viên hành chánh Quận, Cảnh sát, Y tá, ùa ra khiêng Nguyện vào trong phòng bệnh xá Chi y tế. Tất cả mọi người đều lăng xăng săn sóc Nguyện. Anh được tiêm thuốc khỏe, được chích nước biển và tự tay ông Quận pha cho anh một ly sữa nóng. Ly sữa của tình thương. Nguyện uống và cảm thấy ngon nhất đời. Dân chúng nghe tin cũng lại thăm anh. Họ đem tới những quả cam, những miếng cam thảo…Nguyện chỉ còn biết ứa nước mắt thu nhận hình ảnh tất cả những gương mặt ấy để nhớ đời ân nghĩa. Anh nhờ ông Quận trưởng điện thoại về Nha Trang. Hai giờ rưỡi trưa, trực thăng H34 lên đón Nguyện về.
BỐN
———
Nguyện say sưa nói, chúng tôi say sưa nghe, hồi hộp, thương sót và cảm phục sức chịu đựng, ý chí mãnh liệt cùng lòng can đảm tuyệt vời của Nguyện. Hải thì cứ như một bà già xưa đầy lòng nhân ái, luôn miệng suýt xoa trầm trồ chặc lưỡi lắc đầu những câu: “ …Tội nghiệp, ghê gớm đến thế kia à, nghe anh Nguyện nói mà lạnh người dễ sợ…” Những điều kinh khủng Hải nghĩ không gì quá đáng bởi chính từ anh Nguyện kể và trăm phần trăm chúng tôi tin. Tin là sự thật nhưng vẫn tưởng chừng như chỉ có trong tiểu thuyết phiêu lưu tưởng tượng mà riêng tôi chưa từng trải qua hay nghĩ mình nếu lâm vào cảnh huống gian nan cùng khổ ấy lại có thể trở về như cuộc trở về của Nguyện.
Biến cố ghê gớm nhất đời Nguyện và anh nói không thể nào quên. Anh cũng không thể nào quên được cái tình nghĩa sâu xa cảm động của bè bạn đồng đội dành cho anh. Cả những hành khách, anh Bảy tài xế chiếc xe hàng Hương Bình, ông Quận trưởng Khánh Dương cùng tất cả nhân viên trong quận đã tận tình săn sóc an ủi anh. Nguyện nói hoài rằng anh cảm kích vô cùng và nhớ đời ơn nghĩa đó.
Tôi muốn kêu lên, anh Nguyện , anh xứng đáng với những điều đẹp đẽ mọi người dành cho anh vì anh thật hoàn toàn. Anh Nguyện, dầu sao anh cũng tai qua nạn khỏi nhờ phúc đức và lòng can đảm của anh hơn là nói đến điều chúng tôi ơn nghĩa…
Anh đã Không bỏ anh em, không bỏ bạn bè, là điều chúng tôi mừng ghê gớm lắm.
ĐÀO VŨ ANH HÙNG

No comments: