Saturday, July 25, 2015

Đường Vào Nông Sơn

 
 ( Xin chân thành cảm ơn:
Đại Tá Trần Kim Đại, Liên Đoàn Trưởng LĐ12 BĐQ
Trung Tá Hoàng Phổ, Liên Đoàn Phó LĐ12 BĐQ
Đại úy Nguyễn Trung Tín, Y Sĩ Trưởng LĐ 12 BĐQ
Đại úy Trần Văn Vương, Đại Đội Trrưởng ĐĐ3/TĐ37/LĐ12BĐQ
đã giúp người viết xác định tình hình, thời gian hành quân, và vị trí của Liên Đoàn 12 BĐQ trên đường vào Nông Sơn, 24-07 đến 09-08-1974 )
 
24-07-1974
Rồi cũng xong mấy ngày mưa Hiếu Đức. Rồi cũng qua những sáng loi ngoi, những chiều ướt sũng để lùng sục các giàn hỏa tiễn, hay các toán du kích quấy rối trong tuần lễ kỷ niệm Ngày Quốc Hận 20 tháng 7 vừa qua. Hôm nay nắng tuyệt đẹp nhưng không ai có thì giờ thưởng thức cảnh trí của núi đồi phía tây quận lỵ sau mấy ngày âm u mưa, vì vừa có lệnh rời khỏi vùng hoạt động để về ngay khu vực gần Chi Khu nhận thêm tiếp tế kèm hai ngày lương khô, sau đó là thời gian dài cổ để chờ phương tiện.
 
- Sao lại là Duy Xuyên? Đang đụng nặng ở Đức Dục mà!?
 
Người bạn Trung Đội Trưởng vừa đốt thuốc, vừa hỏi bâng quơ. Không ai lên tiếng trả lời. Các “ Quan nhí “ còn lại chỉ ngồi trong quán, trầm ngâm nhìn ra bên ngoài, nơi đơn vị đang rải dài hai bên Tỉnh lộ, và cũng đang đứng, ngồi tán chuyện với nhau.  Có lẽ lính cũng như quan đều có cùng một thắc mắc vì tin tức về sự thất thủ Nông Sơn đã được loan báo từ 18 tháng 7, lúc Liên Đoàn còn đang dưỡng quân trong công tác bình định an dân tại Quảng Ngãi. Tướng Trưởng đã tung Sư Đoàn 3 Bộ Binh vào vùng  Đức Dục, nhưng nghe nói Trung Đoàn 2 có một tiểu đoàn bị kẹt cứng tại khúc sông Tịnh Yên và viền núi ngay vòng đai phía tây nam của An Hòa, nghĩa là còn cách Nông Sơn đến cả hơn 10 km đường bộ. Việc làm của cấp trên nhiều khi khó hiểu, và câu hỏi có lúc chỉ là lời cho có gì để nói mà thôi. “ Mình là con ghẻ. Ai sai đâu, thì đi đó. Họ muốn xài mình ra sao thì xài.” Câu này của ai không biết, nhưng đã trở thành chân ly’ của dân tăng phái, và “ phe ta ” đã chấp nhận nó với tinh thần …sao cũng được!
 
Rồi cũng đến lúc lên xe. Lại con đường quen thuộc xuôi nam qua Hòa Vang, Miếu Bông, Vĩnh Điện. Vẫn những khu vực trù phú dọc theo Quốc Lộ 1, con đường huyết mạch của những vùng đông đúc dân cư. Vẫn những sinh hoạt bình thường về mọi mặt. Ánh mắt nhìn theo đoàn xe gần như vô cảm mặc dù người dân không hờ hững với Lính. Người thân của họ đang có mặt trong chuyến công voa. Đa số Mũ Nâu trong Tiểu Đoàn 37 BĐQ và cả Liên Đoàn 12 BĐQ là thanh niên Đà Nẵng và những vùng lân cận. Nhưng người dân đã quá quen với cảnh binh đao, quá gần với sanh ly, tử biệt, khi mà đất Thuận Hóa từ thuở đựơc khai khẩn đến hiện tại không lúc nào ngớt can qua.
 
Đoàn xe quẹo phải tại Nam Phước. Tỉnh lộ nối vào Duy Xuyên là con đường từ thời Pháp đến giờ không được tu sửa đúng mức nên lớp nhựa đã nứt nẻ và ổ gà như mặt rỗ. Đoàn GMC không dừng ở chợ quận như mấy tháng trước, khi đón Tiểu Đoàn về ăn Tết hậu cứ, mà vượt Cầu Chìm để vào tận Trà Kiệu. Đoạn đường quen thuộc mới hôm nào thật sinh động dưới màu nắng xuân nay trông đìu hiu và lặng lẽ làm sao! Khu làng định cư, ngay phía nam tỉnh lộ, ở khoảng giữa Cầu Chìm và Trà Kiệu, đã vắng bóng người. Thỉnh thoảng có tiếng đạn cối rót vào nơi vườn trống nhà không một cách vu vơ, chẳng làm nao núng một ai trên chuyến xe đang vào vùng đổ quân. Nhưng chiến tranh đã  về gần như vậy sau?! Mới hôm nào hai quan “ nhí “ - khi dẫn đệ tử  ruột lén thẩm quyền Vương Vũ, vượt mấy bờ đê của ruộng đồng Duy Sơn để mò về Trà Kiệu xem…cảnh xuân - đã  tình cờ dừng lại đây trò chuyện với một cô giáo từ Đà Nẵng về thăm cha mẹ. Vui quá nên hai quan “ nhí “ bỏ luôn mục đích và phải vội vã lội về sau bữa ăn đạm bạc với cả gia đình nàng. Kỷ niệm còn đó, nhân ảnh bây giờ nơi đâu? Cách hai xe phía sau chắc chắn Nguyễn Thanh Vân cũng có cùng tâm trạng. Chút nữa phải nói chuyện này với hắn mới được.
 
Trà Kiệu cháy bỏng dưới nắng hè đang đổ lửa. Kinh đô khởi thủy của Chiêm Quốc ngày xưa có lẽ đã đi vào quên lãng theo qui luật tự nhiên của thời gian nếu không có phép lạ của Đức Mẹ năm 1885 để cứu ngôi làng công giáo khỏi bị quân đội Văn Thân tận diệt. Từ đó, khoảng đất trên dưới một cây số vuông với chừng ba ngàn giáo dân này đã  trở thành trung tâm hành hương nổi tiếng và cũng là thành trì chống cộng hữu hiệu nhứt của Duy Xuyên. Trà Kiệu hôm nay cũng đang khiêm nhường hy vọng vào sự chở che của Mẹ Thiên Chúa khi tiếng súng lớn nhỏ vang vọng đâu đó không xa và thỉnh thoảng đã có đạn cối của địch từ hướng thung lũng Quế Sơn rót vào khu vực đông nam của tỉnh lộ.
 
Tiểu Đoàn xuống xe ngay tại tượng đài Đức Mẹ, băng qua xóm chợ dưới chân đồi Trà Kiệu, rải đều ra phía sau mấy dảy phố và dọc theo đường lộ, thả về hướng tây bắc chừng vài trăm thước, rồi nằm tại chỗ chờ lệnh. Tiếng súng từ phía trước mặt đang vọng đến thật gần.Vài lời kinh khấn vội, thêm vài câu nguyện thầm, xin ơn an bình cho đơn vị và cho người dân Trà Kiệu, là vừa vặn có lệnh đến gặp Đại Đội Trưởng để nhận kế hoạch hành quân trước khi vào vùng.
 
Thì ra trận chiến đang diễn ra phía Chiêm Sơn. Đồn nghĩa quân phía cực bắc bị vây đã mấy hôm. Lính không được tiếp tế, còn dân thì kẹt đường giao thông vì đường lộ bị chận, khóa, và đặt mìn. Trà Kiệu là một trong những trung tâm hành hương nổi tiếng, một tiền đồn và cũng là biểu tượng chống cộng. Vì vậy Liên Đoàn 12 BDQ dù đang trên đường vào Nông Sơn cũng được lệnh chuyển hướng đến giải tỏa áp lực địch tại Duy Xuyên để củng cố lại an ninh và sinh hoạt cho Trà Kiệu.
 
- Thằng 4 theo hướng núi. Thằng 2 nổ lực chính, ủi ngay trên đường để gỡ chốt. Tiểu Đoàn và thằng 1 theo sau nó. Còn mình cặp hông theo hướng ruộng. Tất cả các Đại Đội sẽ xuất phát một lượt. Đại úy Vương trải bản đồ, ban lệnh thật ngắn gọn. Trung Đội 1 và 3 theo Đại Đội Phó tùng thiết từ đây bọc lên tỉnh lộ. Trung Đội súng nặng và thằng 2 lo mặt bên này. Mình bọc hông, giữ sườn, và sẽ qua mặt Đại Đội 2 sau khi nó thanh toán xong mục tiêu, sau đó mình sẽ dừng lại đây qua đêm. Lần này đụng với du kích xã có tăng cường một thành phần của chủ lực tỉnh. Chỉ là đám chuột nhắt, nhưng là sân chơi của tụi nó. Phải hết sức cẩn thận. Nhớ dặn con cái coi chừng “ Ma “ , nhất là trên mấy con đê dẫn vào làng. Có ai cần hỏi gì không? Tốt! Tất cả về chuẩn bị.
 
Hai chiếc M113 lừ đừ lao xuống ruộng khô. Lính hàng ngang lúp xúp chạy theo. Đất nứt nẻ. Nhiều mảng cháy khét, xám xịt. Pháo thủ trên hai con cua sắt bắt đầu siết cò. Mọi hỏa lực đều dồn vào những bóng người ẩn hiện phía bên kia con đê dẫn vào ngôi làng đang ngún khói. Tiếng đại liên 50 dòn dã khạt đạn từng hồi, át hẳn tiếng súng cá nhân và cả M60. Hòa trong tấu khúc liên thanh là vài “ dấu nhấn “ của M79 . Tiếng “ xập xình” của quả đạn rời nòng cắm vào mục tiêu nghe không khác gì nhịp chõi trong một bản nhạc không có tiết tấu. Cua sắt tăng tốc độ rồi dừng lại nơi bờ đê. Khinh binh đồng loạt xung phong vào bìa làng. Địch tốc hố lách nhanh qua các bờ dậu. Lính vừa bắn vừa truy kích, nhưng nhịp tiến công chậm dần vì phải bung ra lục soát. Nguyễn Thanh Vân ra dấu chỉ về bên trái rồi cho Trung Đội của hắn lạng nhanh qua một ngôi nhà có căn hầm nổi ngay phía trước sân. Đám em út bên này cũng hăng hái lùng sục khá ồn ào. Nhưng chỉ là làng trống, vườn không. Người dân đã tản cư từ lâu, chỉ có hầm hố chiến đấu thì còn mới nguyên. Đám chuột nhắt đã nương theo mấy hàng dậu chém vè thật ngọt. Nút chặn đã bị bứng nhưng địch có lẽ vẫn còn đâu đó trong các khóm nhà lân cận. Đám “ Địa Phao Câu “ ở đâu? Sao để tụi nó thóat khỏi vòng vây thoải mái quá vậy? Mẹ kiếp! Đâu có thể bỏ cuộc dễ dàng như vậy được! Bỏ đê, bung đội hình. Trung đội mở cánh quạt băng ruộng khô, tạt qua làng bên cạnh. Chỉ vài công đất và mấy con đê là đã qua một khóm xanh cây lá với vài nóc gia khác. Những thôn xóm khoanh tròn như ốc đảo có thể đã trở thành nơi ẩn mình ly’ tưởng của đám du kích. Có thể tụi nó trà trộn trong đám dân xôi đậu quanh đây thôi. Nhưng đã xục xạo mấy khóm nhà rồi mà không thấy gì khả nghi. Không lẽ phải gom đám dân này để thanh lọc và điều tra!?
 
- Chuẩn úy tính sao? Trung Sĩ  Xuân chỉ đám người đang bị lính gom trước  một khu đất. Có cần khai thác không ?
 
 Khai thác! Không phải là nghề của dân bóp cò. Đang hành quân giải tỏa chứ không phải tảo thanh hay bình định. Không thể bắt họ làm con tin. Đụng tới đám dân xôi đậu này là rắc rối chứ không vừa. Tụi du kích không chừng đã cao bay xa chạy lâu rồi. Có khai thác mấy người đàn bà và trẻ con này cũng vô ích thôi. Tốt nhứt là di chuyển về phía tỉnh lộ để tới điểm hẹn với Đại Đội cho ấm thân. Nhưng làng nào mới là mấy cái chấm đen Vương Vũ khoanh trên bản đồ!? Chết mẹ! Hăng máu quá nên đã đi lố rồi chăng? Không thấy cua sắt. Cũng không có bóng dáng của Trung Đội 3 đâu hết. Lên máy hỏi thì quê quá! Thây kệ! Cứ bẻ góc, tạt qua khóm nhà bên này cái đã! Dù sao cũng từng là Kha sinh của Hướng Đạo mà! Nhắm hướng là nghề của chàng.
 
- Chuẩn úy! Vương Vũ muốn gặp. Thằng em nói xong là chuyển ống liên hợp qua ngay.
 
- Tôi đây thẩm quyền.
 
- Đang ở đâu thế?! Cho tôi địa chỉ ngay.
 
- Đang ở gần ba cái mụn cám thẩm quyền chỉ ban nảy.
 
- ĐM! Tôi đang ở ngay chỗ đó rồi. Còn cậu thì chắc là lấn qua phía tụi “ Đi Phát Qùa” từ nãy giờ cho nên không thấy đâu cả. Cho ngay ba cú để định hướng, nhanh lên!
 
Ba phát đạn chỉ thiên vừa dứt là đã nghe tiếng  “ xì nẹt “ và giọng gầm gừ của “ Bố già “ vang lên :
 
- Biết ngay mà! Cả nhà đang ở hướng tám giờ của cậu. Khi đến sợi dây đỏ sẽ có đám em của thằng “ Ti Vi “ đón. Mau lên để còn kịp lót ổ.
 
“ Bố Gìa “ chỉ cằn nhằn cho có lệ rồi thôi. Mọi người vô sự. Nghe nói Đại Đội 2 vớt đẹp mấy con và gom vài khúc củi làm quà tiễn chân Liên Đoàn Trưởng sẽ đi học Chỉ Huy Tham Mưu nay mai. Đây chỉ là màn hâm nóng sau thời gian nghỉ ngơi lấy sức trước khi thử lửa với chính qui. Sau khi phân vị trí cho các Trung Đội, Đại Úy Vương họp thông báo và phân nhiệm về chuyến di hành vào Đức Dục ngày mai. Cuộc họp ngắn, gọn. Đại khái là Đại Đội sẽ dẫn đầu Tiểu Đoàn khai thông con đường vốn đã bị bỏ hoang từ khi Mỹ rút quân, khoảng cách trên dưới 14 cây số, để tới Giao Thủy. Thiết Kỵ sẽ chờ ở đó để chuyển quân vào Đức Dục. Vương Vũ chỉ đích danh Trung Đội 1 đi tiên phong.  Là hành động phạt vạ cái tội đi lạc hôm nay, hay  Bố Gìa  gián tiếp “ trao vinh dự mở đường “ cho chàng Hướng Đạo?! Sao cũng được!
 
- Mấy ông qua chỗ tui lai rai không? Nguyễn Thanh Vân hỏi với khi mấy “ Quan nhí “ rời chỗ Vương Vũ.
 
- Tôi cần ngủ sớm. Ông đưa cay với hắn đi. Lê Văn Hữu vừa quay lưng vừa nói, nhưng bất chợt quay lại, ngạc nhiên. Mà nhậu cái gì mới được!? Ông tìm rượu đâu ra hay vậy?
 
- …Mẹ! Có mồi nhậu là được rồi. Còn bày đặt thắc mắc. “ Ti Vi “ làm bộ nhăn nhó. Bách Nhật với thịt hộp được không? Làm sớm, nghỉ sớm.
 
Cuộc nhậu không suông sẻ như mong muốn vì mới đầu hôm thì đã có tiếng phát thanh của địch đâu đó thật gần, vang lên mồn một, phá tan sự tĩnh lặng của màn tối thôn quê. Giọng the thé, chói tai của một em du kích hay dân quân nào đó nghe chua hơn dấm và làm mọi người mất hứng. Không rõ đây là băng thâu sẵn rồi khuếch đại bằng loa cầm tay, hay chính là giọng người thật đang nói trực tiếp. Lời kêu gọi “ …Các anh lính Cộng Hòa hãy buông súng trở về với hàng ngũ của nhân dân, hợp tác với cách mạng…” cùng với những luận điệu tuyên truyền nghe ngứa tai tới mức muốn cho lính lục soát khoảng tối trước mặt hay gõ vài trái M79 cho chúng nó câm họng.
 
- Không thể được! Kệ mẹ tụi nó. Vương Vũ đến tận tuyến đóng quân để định hướng nơi phát xuất lời phát thanh, đồng thời xem xét vị trí và cách bố phòng qua đêm của Trung Đội. Thảy lính vào là bị phục ngay. Còn bắn chúng nó thì ngộ nhỡ rơi vào nhà dân là mình ở tù như chơi. Nhớ canh gát đàng hoàng. Có thể là dương đông kích tây không chừng.
 
Nhưng rồi đêm trôi qua trong an bình. Có lẽ địch chỉ muốn quấy rối cho lính mất tinh thần hay ít nhứt là mất ngủ mà thôi. Buổi sáng phủ màn sương mỏng, đủ để nhìn trực diện vừng đông đang dần vươn trên khóm lá mà không sợ bị chói mắt. Sau lời dặn dò của Vương Vũ là cuộc di hành bắt đầu. Từ đoạn này trở đi là không còn bạn bè giữ cho ấm sườn. Trung đội chia khoảng cách từng người rồi thận trọng tiến bước. Sợi chỉ đỏ trên bản đồ- dấu hiệu của đường xe lưu thông- trên thực tế chỉ khá hơn đường mòn một chút nhờ vẫn còn vết xe để lại hai lằn bánh. Con đường liên tỉnh bắt đầu từ Quốc Lộ 1, tại ngả ba Nam Phước, chạy  vào tận vùng núi nơi có mỏ than Nông Sơn, chia hai nhánh, một qua đèo Le để vào thung lũng Quế Sơn, còn nhánh kia biến vào vùng núi phía cực bắc Đức Dục, nay đã thành một con đường đất, không hơn, không kém. Mùa khô, đất cứng, dễ di chuyển, nhưng vì cần phải chú tâm vào mìn bẫy và cả bóng dáng khả nghi trong các làng mạc hay ruộng khô hai bên đường, nên tốc độ tiến quân chỉ như rùa bò.
 
- Mấy năm trước mà đi kiểu này thì trực thăng lượn qua lượn lại đầy trời. Còn bây giờ…
 
Trung Sĩ Xuân thở dài khi nhìn em út cứ phải liên tục dừng lại, bố trí, thận trọng lục soát những ngôi nhà bỏ hoang hai bên đường, hay những lùm bụi khả nghi, trước khi gom quân tiếp tục di chuyển. Thời đánh giặc nhà giàu đã không còn. Bây giờ là “ Tự lực cánh sinh “. Mà thôi! Chuyện gì tới sẽ tới. Hơi đâu lo nghĩ cho mệt xác! Vương Vũ cứ nhắc nhỡ và lên máy hỏi han cầm chừng. Có lẽ “ Bố” cũng có cùng một mối lo khi sinh mạng em út cần được tiết kiệm tối đa.
 
 Con đường lại dẫn qua một vùng hiểm trở với một bên là núi đá trơ tróc cây cành vì bom đạn, còn bên kia là đồng khô, trống vắng, tầm nhìn lướt thẳng ra phía sông, nơi đó sừng sững một chiếc cầu gãy, đang nằm phơi khung sắt vặn vẹo và hoang tàn.  Cầu xe lửa Chiêm Sơn! Chiếc cầu nối hai quận Điện Bàn và Duy Xuyên bây giờ đang gập mình soi bóng dưới dòng sông lờ đờ, dáng dấp ủ rủ như đang tưởng tiếc thời vàng son đã qua, khi nối kết những chuyến than Nông Sơn vào con đường xe lửa xuyên Việt, và từ đó ra Đà Nẵng để xuống tàu đi khắp bốn phương. Nơi đường hỏa xa và con lộ liên tỉnh nối vào nhau thành một ngả ba đã không còn một dấu vết nào cho thấy nơi đây đã từng là một địa điểm quan trọng của hai ngành giao thông và thương mãi. Tà vẹt hỏa xa đã được dân và du kích tận tình tháo gỡ để xử dụng vào những công việc cần thiết, đặc biệt nhứt là làm hầm trú ẩn bom đạn. Hầm nổi, hầm chìm, hầm xây cả trong nhà. Tà vẹt và đường ray hoàn toàn biến mất trên địa thế!
 
Lính cứ từng bước mà đi, dò dẫm, thận trọng, cho dù ngang qua khúc đồng mông hiu quạnh hay những xóm làng xơ xác tranh phơi. Cảnh vật buồn thiu. Người cũng không dấu sự lo lắng. Ai trong số những phụ nữ đang bồng con đứng nhìn theo đoàn quân đã là người phát thanh đêm qua, hay chính họ là giao liên du kích ban đêm, nông dân nội trợ ban ngày?! Ánh mắt và nét mặt của họ vô hồn. Không đọc được tình cảm đích thực của một ai, kể cả tia nhìn lấm lét của trẻ thơ đang níu lưng người mẹ. Thậm chí có em sợ sệt chạy vọt vào nhà khi một người lính dừng lại định đưa tay vuốt tóc bé. Phản ứng tự nhiên khi gặp kẻ lạ hay chúng đã được giáo huấn và uốn nắn trong hận thù ngay từ khi có trí khôn? Làm sao biết được! Vùng xôi đậu nên chỉ gặp đàn bà, trẻ thơ và phụ lão! Thanh niên đâu!? Hỏi tức là đã tìm được câu trả lời!
 
Rồi cũng đến làng định cư Phú Lạc, những ngôi nhà một gian,vách đất, dựng vội ngay bên cạnh tỉnh lộ cũng trống hoắc, mặc dù đây đã là nơi tương đối an ninh. Những người dân tản cư bây giờ đã về đâu? Trở lại vùng hoang tàn đổ nát của nơi chôn nhao cắt rún, hay tản mác nơi các quận lận cận, thậm chí về tận Đà Nẵng để tìm nơi an toàn để lánh nạn? Thật là buồn cho hoàn cảnh của người dân trong thời loạn! Nhiệm vụ mở đường đã xong. Cầu Giao Thủy chỉ cách một tầm nhìn. Bạn đã lên máy liên lạc và xác định vị trí. Đại Đội dừng chân tại khu làng tản cư, chuẩn bị ăn trưa, dưỡng sức. Phần còn lại của Tiểu Đoàn qua mặt để gom dài theo con đường cặp sát ngả ba sông và chiếc cầu mới tân trang, nơi đó đã có Thiết kỵ chờ sẵn. Mới đó mà đã quá trưa. Gần 5 tiếng di hành trên đoạn đường chỉ chừng 14 Km đủ làm cho Lính thấm mệt. Đánh đấm tính sau. Bây giờ ăn cái đã. Nhưng thầy trò chưa kịp vơ đũa thì tin buồn đã đến.
 
- Anh Đăng chết rồi!
 
Giọng của Hạ Sĩ nhứt Kỉnh như lạc hẳn đi khi chỉ có mấy lời thật ngắn. Người bạn lao công đào binh vừa được phục hồi danh dự đã đạp mìn banh xác hôm qua, ngay ngày đầu tiên chính thức làm lính Mũ Nâu. Người em và cũng là  bạn trong toán văn nghệ của Tiểu Đoàn chỉ kịp dừng lại nói vài câu rồi lật đật tiếp tục di chuyển. Sau đó Trung Sĩ Chế Việt rồi Thiếu úy Tích, Sĩ Quan Trợ Y của Tiểu Đoàn xác nhận và kể thêm chi tiết thì nỗi bàng hoàng biến thành buồn bã. Người bạn gốc SàiGòn là linh hồn của ban văn nghệ bỏ túi. Đa tài mà cũng rất đa tình. Hồ Huy Đăng đã mang tiếng đàn vào thiên cổ. Và ai sẽ là người dạy nhảy đầm cho những gương mặt trẻ, quan cũng như lính sau này?!
 
Lính không có thì giờ để buồn. Nhiệm vụ trước mặt còn đầy cam go. Lại gom quân để cả Tiểu Đoàn từng đợt leo lên cua sắt vượt đoạn đường dài hơn 10 Km để vào Đức Dục.  Đường dằn xóc làm mọi người bám thật chặc vào những gì có thể níu được trên xe. Bụi tung mù mịt. Từ xa, màu chiến y hòa vào khối màu của nắng, khói, bụi, đất, và màu ngụy trang của đám cua sắt tạo thành một bức tranh thật sống động và hào hùng. Gần tới sân bay An Hòa thì Thiết kỵ không theo đường tỉnh lộ mà vượt ngang đồi thấp và ruộng khô để tránh mìn bẫy, mở hết tốc độ và giữ  khoảng cách khá xa cùng hăm hở nhắm hướng núi để tiến vào Quận lỵ Đức Dục. Tịnh Yên, An Hòa, Đức Dục. Chỉ cần nghe tên là “ cảm “ được lòng người, là “ thấy “ được phong cảnh. Đức Dục của một thời phồn vinh và An Hòa của những năm khởi sắc trong thịnh vượng đã không còn. Bây giờ An Hòa là những trụ bê tông xạm màu rêu phong vì nắng gío, lởm chởm vì lửa đạn. Công trình xây cất bị bỏ dở ngay từ khi Đệ Nhứt Cộng Hòa bị cáo chung, và thay vì là nơi cư ngụ của các kỷ sư chuyên gia về khai thác quặng mỏ, khu kỹ nghệ An Hòa đã  là nơi trú phòng ngắn hạn của hầu hết các đơn vị nổi tiếng thuộc Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và đồng minh, từ những toán Lôi Hổ, Biệt kích 81, cho đến  các Tiểu Đoàn Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Động Quân.
 
Đoàn thiết vận xa lạng, lách tối đa để tránh hỏa lực của địch từ trên sườn dốc của dãy Lôi Giáng đang tha hồ chọn mục tiêu mà tung SA-7. Dùng bụi xe làm màn khói, đám cua sắt lủi thật nhanh vào các dãy khu dân cư  ngoài vòng đai quận lỵ. Lính bung người xuống xe, tấp ngay vào những dãy nhà gần đó. Đức Dục lại gồng mình hứng pháo. Địch dò biết có viện quân nên đưa sơn pháo dội thả giàn xuống Chi Khu và phố quận. Lính và dân bây giờ không biết ai đông hơn ai. Lính đang dồn dập chuyển quân. Dân hớt hải rời vùng. Tiếng súng lớn nhỏ từ trên vùng núi đồi trước mặt hòa với tiếng đạn pháo kích liên tục làm tăng thêm mức độ trầm trọng của chiến cuộc.
 
Cùng vào Đức Dục với Tiểu Đoàn 37 BĐQ là Đại Đội Trinh Sát của Trung Đoàn 2, SĐ3 BB. Họ được trực thăng vận cấp tốc vào vùng để cùng với hai Chi Đoàn Thiết Kỵ của Thiết Đoàn 11  tăng cường bảo vệ phía nam Chi Khu trong khi Trung Đoàn 2 tuần tự rút quân, nhường cho BĐQ nhập trận. Vừa đánh vừa rút không phải là chuyện dễ dàng. Nhứt là khi Trung Đoàn 1 của Bắc Việt đã thay thế Trung Đoàn 36 bám theo các Tiểu Đoàn 1/2 và 3/2 từ tận trong khu vực thung lũng Khê Le ra đến dãy Dương Côi và  núi Kỳ Vĩ ở phía tây nam. Nói chung, địch vừa cầm chân bộ binh vừa quấy rối hậu phương và quân tăng viện bằng mọi cách, đặc biệt là sơn pháo 122 và 130 ly. Không thể di chuyển khi còn nắng sáng trời dù đã sắp hoàng hôn, nên Tiểu Đoàn 37 BĐQ ếm quân, chịu pháo, để chờ đến tối lên núi thay bạn tiếp chiến. Lại là những lo lắng, ưu tư cố hữu nên cơm chiều chỉ nuốt vội cho có sức. Chút thời gian chờ đợi được dành cho những suy nghĩ vẩn vơ về những năm yên bình của thời tuổi nhỏ. Thời miên man đứng nhìn không chán mắt bảng quảng cáo than đá Nông Sơn thật lớn tại góc Phan Đình Phùng và Công Ly’. Mới đó mà đã hơn 10 năm! Tấm panô đã biến mất từ hồi nào không biết nhưng hình vẽ của khu kỹ nghệ trên đó vẫn hiện hữu và càng thêm đậm nét trong lòng. An Hòa là đây. Nông Sơn cũng không xa. Nhưng tái chiếm Nông Sơn, hay chỉ dàn quân canh phòng Đức Dục?  Hai nơi chỉ cách nhau trên dưới 10 Km đường chim bay mà sao như xa tắp mù khơi. Đường vào Nông Sơn đang bị ngăn trở. Địch đang giăng bẩy chờ. Bạn còn đang vất vả lui quân. Trong khi chờ đến phiên mình nhập cuộc, xin chân thành nguyện thầm cho những hy sinh, mất mát của vùng đất hiền hòa nay đã rơi vào tay giặc. Hãy chờ đó vì …Ta đã đến đây rồi Nông Sơn ơi!
 
HUY VĂN

Monday, July 20, 2015

LÒNG CAO THƯỢNG CỦA MỘT SĨ QUAN VNCH

Món nợ ân tình (Ngân Bình)

Tôi sang Mỹ cùng với Ba Dượng theo diện H.O - nhờ tờ khai sinh giả tôi có được qua những đồng tiền đút lót mà tôi trở thành con ruột của Ba. Cha mẹ tôi và một đứa em trai còn ở lại Việt Nam. Nhiều người rất ngạc nhiên, không hiểu vì sao mỗi khi nhắc đến gia đình ruột thịt tôi có phần lạnh nhạt trong khi tôi lại rất thương yêu và chăm sóc Ba Dượng. Thật sự, tôi thương Ba Dượng hơn cha ruột của tôi rất nhiều. Tôi không biết điều đó đúng hay sai nhưng tình cảm luôn xuất phát từ trái tim, không thể gượng ép và cũng không thể theo một khuôn mẫu đã định sẵn. Duy nhất một điều tôi có thể hiểu được là cha tôi chưa một ngày bồng ẵm tôi nhưng Ba Dượng đã nuôi nấng tôi từ thuở ấu thơ.

Khi mẹ mang thai tôi được sáu tháng thì cha đã bỏ mẹ con tôi để vào rừng, theo “Quân giải phóng”. Mẹ ở lại, một mình một thân yếu đuối với cuộc sống vất vả nghèo nàn, vừa nuôi mẹ chồng, vừa nuôi con dại. Ngay lúc ấy, Ba Dượng tôi xuất hiện. Ông là một Sĩ quan trong Quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Từ Thành phố ông thuyên chuyển về nơi gia đình tôi đang sinh sống. Tôi không nhớ rõ những gì đã xảy ra, chỉ biết rằng đến khi bốn tuổi tôi mới có được một người mà tôi gọi bằng Ba. Ba là một người hiền lành, chân thật và rất vui tính, cởi mở. Ba chăm sóc bà nội như mẹ ruột, vì thế bà nội cũng rất thương Ba. Ngược lại, mẹ tôi không yêu Ba. Mẹ tiếp nhận Ba - một cuộc hôn nhân không giá thú - chỉ để tìm nơi nương tựa. Ba biết điều đó nhưng vẫn chấp nhận.

Năm bảy mươi lăm cha tôi bất ngờ trở về, còn Ba thì lại khăn gói vào “trại cải tạo”. Mẹ vui mừng vì sự trở về của cha bao nhiêu thì tôi lại đau lòng vì sự tù tội của Ba bấy nhiêu. Tôi không hiểu được tình cảm của mẹ. Tại sao với một người chồng hết lòng thương yêu mẹ mà trái tim bà vẫn dửng dưng? Tại sao chỉ một năm ngắn ngủi sống với cha mà tình yêu bà vẫn bền vững suốt cả chục năm hơn? Tại sao mẹ có thể chấp nhận việc cha đã có vợ khác và người vợ “đồng chí” của cha đã nghiễm nhiên trở thành vợ chính thức, còn mẹ, chỉ là một người vợ danh không chính, ngôn không thuận, để mỗi lần đến thăm, cha phải nhìn trước, ngó sau như một kẻ đang phạm tội ngoại tình. Chưa kể có lần vợ của cha còn đến nhà, mắng chửi mẹ là “dâm phụ” và cũng không cần biết bà nội tôi là ai, bà chống nạnh xỉa xói:

- Cả nhà chúng mày phải tránh xa chồng bà, không thì bà cho chết cả lũ về cái tội cấu kết với cái thằng lính ngụy đang ở tù rục xương.
Cha tôi nắm tay kéo bà vợ đi xềnh xệch trước những cặp mắt tò mò của hàng xóm. Mặt bà nội xanh như chàm, bàn tay cầm cây gậy run lên bần bật vì tức giận. Mẹ ngồi bệt xuống sàn nhà với những giọt nước mắt không ngừng tuôn chảy trên khuôn mặt lơ lơ, láo láo như người mất hồn. Tôi cũng không nhớ rõ cảm giác của mình lúc ấy ra sao nhưng hình như có một nỗi vui nào đó hiện đến rất nhanh khi tôi chợt nghĩ, đây cũng là một điều hay để giúp mẹ tôi sáng mắt ra mà nhận biết ai là người thật sự yêu thương mình. Nhưng không, mẹ tôi vẫn tối tăm quay cuồng trong mớ tình cảm hỗn độn đó dù bà nội khuyên mẹ hãy quên cha tôi đi để lo thăm nuôi Ba đang chịu tù tội, đói khát.

Phần tôi, tôi rất bất mãn trước thái độ của mẹ khi bà không có một chút quan tâm, lo lắng nào dù thật nhỏ cho cuộc sống của Ba trong cảnh khốn cùng. Mỗi lần theo cô Tư đi thăm Ba, tôi phải nói dối đủ điều về lý do tại sao mẹ vắng mặt. Dĩ nhiên, cô Tư cũng không muốn anh mình phải đau khổ - nếu biết được người vợ đầu ấp tay gối đã nhẫn tâm phủi tay, rũ bỏ tình nghĩa vợ chồng bao nhiêu năm - nên cô dặn dò tôi phải nói dối với Ba rằng mẹ đi buôn xa không về kịp, hoặc bà nội bệnh bất ngờ mẹ phải ở nhà chăm sóc.
Có lần, sau khi thăm Ba trở về, tôi hỏi mẹ bằng thái độ khó chịu:
- Ba ở tù bốn năm rồi mà sao mẹ không đi thăm Ba một lần?
Mẹ trả lời một cách thản nhiên:
- Vì mẹ không thể phản bội cha con!

Tôi tức giận:
- Mẹ không thể, nhưng mẹ đã phản bội cha rồi.
Mẹ cho rằng tôi bất hiếu vì không phân biệt ai là cha ruột, ai là cha nuôi. Tôi cười chua xót:
- Con không cần biết ai là cha ruột, ai là cha nuôi. Con chỉ biết Ba là người đã cực khổ nuôi nấng con từ lúc còn bé. Con chỉ biết Ba là người đã bất kể hiểm nguy, giữa đêm khuya bế con đến Bệnh viện cứu cấp khi con đau nặng. Mẹ không nói cho con biết nhưng bà nội vẫn nhắc hoài chuyện ấy.

Mẹ quay đi sau khi ném cho tôi ánh mắt giận dữ. Tôi biết mẹ không thể bỏ cha ruột của tôi, dù ông đối xử với bà tình không trọn mà nghĩa cũng chẳng tròn, nhưng ít ra bà cũng không nên rũ sạch ơn nghĩa cưu mang của Ba hơn chục năm trời.
- Mẹ hãy dẹp tình cảm qua một bên để tỉnh táo suy nghĩ xem cha đối với mẹ như thế nào. Ông đi bao nhiêu năm trời không một tin tức. Chắc trong lòng ông không hề vấn vương, thương nhớ mẹ hay nghĩ đến đứa con chưa kịp chào đời. Bằng chứng là đứa con riêng của cha nhỏ hơn con một tuổi, có nghĩa là xa mẹ chưa đầy một năm cha đã có người đàn bà khác. Rồi khi trở về đây gặp lại mẹ, đáng lẽ cha phải giải thích cho bà vợ của cha hiểu ai là người đến trước, ai là người đến sau, chứ lẽ nào cha đứng đó để chứng kiến bà ta làm hùm làm hổ với mẹ, cứ y như mẹ cướp chồng của bà ta...

Nhìn bà nội ngồi ở góc bàn sụt sùi lau nước mắt, tôi cảm thấy ân hận nên quỳ xuống cạnh bà:
- Nội à! con không muốn nói những lời làm đau lòng nội. Nhưng thật tình con không thể nào chấp nhận thái độ bạc bẽo của mẹ con. Nội thử nghĩ, nếu như ngày xưa không có Ba thì cuộc sống của gia đình mình sẽ ra sao? Nội bệnh hoạn cũng một tay Ba lo thuốc men mà không hề phân biệt rằng, đây là mẹ chồng chứ đâu phải mẹ ruột của vợ tôi. Ba nuối nấng con từ nhỏ đến lớn không rầy la một tiếng dù con có phạm lỗi lầm. Ba thương yêu con như một đứa con ruột thịt...
- Rồi sao nữa? Cái thằng Sĩ quan ngụy đó cũng giỏi thiệt... nó dụ dỗ được mày đứng về phe nó để chống lại cha mẹ.
Cha tôi bước vào nhà, quăng cặp táp lên chiếc phản gỗ, tay đập bàn rầm rầm:
- Anh đã nói với em rồi, con bé này đã bị thằng ngụy đó đầu độc mười mấy năm không thể nào tẩy não được mà.
Tôi lùi lại, đứng sau lưng bà nội. Dù trong lòng cũng có chút nao núng, nhưng khi nghe cha xúc phạm đến Ba, tôi tức giận đến độ không còn biết sợ là gì:
- Thưa cha, cha có biết cái “thằng ngụy” xấu xa đó đã dạy con điều gì không?
-...

Tôi cười chua chát tiếp lời:
- Ông ấy đã dạy con, dù đi đâu xa cũng phải nhớ ngày giỗ của cha mà về nhà đốt nén nhang cho bà nội và mẹ vui lòng. Hồi mẹ được tin cha chết, mẹ khóc lóc, đau khổ nhưng không dám lập bàn thờ, thì chính cái “thằng ngụy” mà cha luôn miệng chửi rủa đó đã mang ảnh ba ra tiệm hình để rọi lớn, rồi đem về trịnh trọng đặt lên đầu tủ với lư hương, với chân đèn để làm bàn thờ cho cha. Nếu đêm nào mẹ lỡ quên vì bận bịu thì cũng chính “thằng ngụy” đó dù đã lên giường cũng vội vàng leo xuống để đốt nhang cho cha. Chưa bao giờ con nghe “thằng ngụy” đó nói một lời thất lễ với cha, nhưng cha thì lúc nào cũng chửi bới người ta, trong khi đáng lẽ cha phải cám ơn người đã thay cha gánh vác việc gia đình. “Thằng ngụy’ đó đã cho con thấy hình ảnh một người chồng, người cha cao thượng, nhưng cha thì sao?... cha hãy suy nghĩ lại để từ nay đừng bao giờ xúc phạm đến Ba của con.

Hình như tình thương đối với Ba đã cho tôi thêm sức mạnh và sự bình tĩnh để dõng dạc nói lên suy nghĩ của mình không chút sợ hãi. Điều đó khiến mẹ tôi lo quắn quíu:
- Con này... ma nhập nó rồi hay sao mà ăn nói bậy bạ, hỗn láo!
Mặt cha tôi như xám lại, ánh mắt ông long lên sòng sọc, đôi môi mím chặt khiến khuôn mặt ông đanh lại, hung hãn không thua gì các diễn viên đang vào vai một nhân vật phản diện độc ác. Cha đưa chân đạp chiếc ghế văng vào bàn. Ông quay lại hét vào mặt mẹ tôi:
- Em dạy dỗ con cái như thế này đây hả? Nó nói chuyện với cha nó như một phường mất dạy. Anh nói rồi... ngày nào nó còn ở trong nhà này anh sẽ không bao giờ đặt chân đến đây nữa.

Tôi nghênh mặt khiêu khích:
- Cha không cần đuổi con cũng sẽ ra khỏi nhà ngay hôm nay. Con xin nói thật... con không muốn gặp mặt người cha vô trách nhiệm, bỏ vợ, bỏ con mấy mươi năm rồi bây giờ trở lại trách vợ mình không dạy dỗ con. Cha có biết trách nhiệm dạy dỗ con thuộc về ai không?
Cái tách trà bay về phía tôi, chạm vào thành ghế bà nội đang ngồi vỡ toang. Tôi không biết nếu cái tách trúng ngay đầu bà nội thì việc gì sẽ xảy ra? Có lẽ tôi lại hứng thêm một cái tội “Tại cái con mất dạy này mới ra cớ sự!”
***
Sau cuộc cãi vã đó tôi thu dọn quần áo ra đi. Bà nội chạy theo níu tay tôi mếu máo dặn dò:
- Con xuống nhà cô Tư ở, đừng đi đâu bậy bạ nghe con.
Tôi cười trong nước mắt:
- Con có tư cách đến nhà cô Tư sao bà nội? Cô Tư đâu phải ruột thịt gì của con!
Mẹ đứng ngang ngạch cửa mai mỉa:
- Biết vậy là khôn đó con. Cứ đến ở thử vài ngày để xem người ta đối xử ra sao cho biết thân.

Không hiểu sao câu nói nào của mẹ cũng châm chích, cay nghiệt. Không lẽ mẹ đã quên hết những ngày cô Tư chạy đôn chạy đáo đem hàng về cho mẹ bán kiếm lời. Chẳng những thế, cô còn nhường cả khách hàng của cô cho mẹ. Ngay từ lúc Ba đến với mẹ, đâu phải cô Tư không biết tôi là con riêng của mẹ, nhưng lúc nào cô cũng đối xử với tôi ngọt ngào, thân thương như đứa cháu ruột. Mẹ không nhớ hay cố tình chối bỏ? Tôi thất vọng não nề vì cách cư xử của mẹ nên cay đắng trả lời:
- Cô Tư đối xử với con ra sao thì cả chục năm nay con đã biết rồi không cần phải thử đâu mẹ. Con nghĩ người mà con cần thử là cha đó, cả mẹ bây giờ nữa... Mẹ à! mẹ thay đổi quá nhiều... đến độ con không còn nhận ra mẹ là người con vẫn hằng yêu quý. Trời cao, đất rộng không tha thứ cho mẹ cái tội bạc đãi Ba đâu.
Tôi quay lưng đi mà không chút luyến lưu, nuối tiếc. Tội nghiệp bà nội. Bà vừa khóc vừa gọi tên tôi rồi lúc thúc chạy theo, dúi vào tay tôi một nắm tiền:
- Cầm tiền theo mà tiêu xài đi con. Ở đâu nhớ cho nội biết để nội an tâm. Có đi thăm Ba thì lấy tiền này mua một chút đồ ăn đem theo, nói nội gửi cho Ba và xin lỗi Ba dùm... nội già yếu rồi không thăm Ba con được.
Tôi ôm chặt lấy bà nội, nước mắt chan hòa.
***
Sau sáu năm học tập Ba được thả về. Hộ khẩu của Ba là căn nhà ngày xưa gia đình tôi đã chung sống, nhưng nay mẹ không đồng ý cho Ba vào nhà. Bà nội khóc hết nước mắt cũng không lay chuyển được quyết định của mẹ - đúng hơn là mẹ đã làm theo lệnh của cha tôi. Ông Năm hàng xóm thương Ba sa cơ thất thế, giận mẹ tôi là “Phường vong ân bội nghĩa” - cụm từ này đã thay vào tên mẹ tôi mỗi khi ông nhắc đến - ông cho Ba cất cái chái nhỏ phía sân sau của ông, sát cạnh nhà mẹ trong thời gian chưa ổn định vì hàng ngày Ba phải ra Công an phường trình diện.
Ba hoàn toàn không nói một lời trách móc mẹ. Tất cả nỗi đau Ba giấu kín trong lòng. Có lần bà nội sang thăm Ba, bà ân cần nắm tay Ba nói trong nước mắt:
- Má xin lỗi con. Má không biết phải làm sao cho đúng!
Ba cười hiền từ:
- Cũng là số phận của con thôi. Má đừng buồn!

Phải hơn nửa năm sau cô Tư mới đút lót được Công an để chuyển hộ khẩu của Ba về nhà cô. Và tôi đã có những ngày tháng vui vẻ sống bên cạnh Ba và cô Tư. Một mái gia đình đâu phải thật sự là của tôi nhưng sao tình cảm tôi nhận về quá thiết tha, sâu đậm. Cha “bắn tiếng” hăm dọa sẽ từ bỏ, không nhận tôi là con nữa. Ba khuyên tôi nên trở về xin lỗi cha mẹ, tôi nhăn mặt trách Ba:
- Con đang ở thiên đàng sao Ba lại nỡ lòng đẩy con xuống hỏa ngục. Ba hết thương con rồi phải không? Ai muốn từ con thì cứ từ... con không sợ. Con chỉ sợ Ba từ con thôi.

Đôi mắt long lanh, đỏ hoe của Ba cho tôi biết rằng Ba đang rất hạnh phúc khi biết rằng, trong lòng tôi, Ba mới thật sự là người cha tôi yêu kính.
Ngày bà nội mất Ba không đến nhưng trong căn phòng hẹp của Ba, Ba đã lập một bàn thờ nhỏ và lặng lẽ quấn vành khăn tang. Nếu mẹ đã làm tôi thất vọng vì sự bạc tình, bạc nghĩa đối với Ba thì tình cảm của Ba và bà nội làm tôi cảm động rơi nước mắt. Ba nói “Ba mồ côi từ bé, bà nội lại đối xử với Ba rất tốt, nên Ba thương bà nội như chính mẹ của mình”.
***
Những năm gần đây Ba mang một chứng bệnh nan y. Có lẽ, Ba sợ khi mất đi tôi sẽ bơ vơ vì không có ai là người thân thích ruột rà nơi đất khách quê người nên cứ nhắc nhở tôi trở về Việt Nam thăm “gia đình” nhưng chưa bao giờ tôi nghĩ đến điều đó. Sự oán giận và ray rứt trong lòng tôi vẫn chưa nguôi ngoai dù thỉnh thoảng tôi vẫn gửi tiền về cho mẹ theo lời khuyên nhủ, nhắc nhở của Ba. Tôi muốn được ở cạnh Ba cho đến ngày cuối cùng để đền bù món nợ ân tình quá lớn mà mẹ tôi đã nợ của Ba.

Ngân

Friday, July 17, 2015

Đại Nhạc Hội Cám Ơn Anh kỳ 9 / Số tiền tổng kết sơ khởi lên đến $904,000

 
Phỏng Vấn Hội H.O. và nhạc sĩ Trúc Hồ sau Đại Nhạc Hội Cám Ơn Anh kỳ 9
(VienDongDaily.Com - 16/07/2015)
Số tiền tổng kết sơ khởi lên đến $904,000
Bài THANH PHONG
Ban Điều Hành Hội H.O. Cứu Trợ TPB& QP/VNCH đang tất bật làm việc sau ĐNH Cám Ơn Anh kỳ 9. Thanh Phong/Viễn Đông)  
  LITTLE SAIGON - Đại Nhạc Hội Cám Ơn Anh – Người Thương Binh VNCH Kỳ 9 do Hội Tương Trợ TPB /VNCH Bắc Cali, Đài Truyền Hình SBTN - Trung Tâm Asia - Hội H.O. Cứu Trợ TPB & Quả Phụ VNCH cùng các hội đoàn Bắc Cali, ca nhạc sĩ hải ngoại và các cơ quan truyền thông báo chí phối hợp tổ chức tại sân vận động Trường Trung Học Yerba Buena, 1855 Lucretia Ave, San Jose, CA 95122 đã thành công tốt đẹp. Tính sơ khởi đã nhận được trên $800,000, và theo lời nhạc sĩ Trúc Hồ, trong một hai tháng nữa có thể lên hơn $1 triệu Mỹ kim.
Trước thành quả này, Viễn Đông đã đến phỏng vấn Ban Điều Hành Hội H.O. và nhạc sĩ Trúc Hồ, Tổng Giám Đốc Đài Truyền Hình SBTN vào buổi trưa Thứ Từ 15.7.2015.
Tại tư gia cựu Trung Tá KQ Nguyễn Thị Hạnh Nhơn cũng là địa điểm làm việc của Hội H.O. Cứu Trợ TPB & QP/VNCH từ nhiều năm nay, chúng tôi thấy một không khí làm việc thật bận rộn, hầu như đầy đủ các vị trong Ban Điều Hành, mỗi người một cây viết, một sấp hồ sơ đang đối chiếu, kiểm soát. Riêng bà Hội Trưởng Hạnh Nhơn không rời được máy điện thoại vì liên tục có người từ khắp nơi gọi đến nên chúng tôi được ông Nguyễn Văn Ức (Phó Hội Trưởng Ngoại Vụ) trả lời những câu hỏi của Viễn Đông:
Viễn Đông: Xin niên trưởng vui lòng cho biết kết quả tài chánh Đại Nhạc Hội Cám Ơn Anh kỳ 9 vừa qua ?
Ô. Nguyễn Văn Ức: Kết quả rất khả quan. Ngay từ đầu chúng tôi đã thấy phấn khởi và lạc quan khi được cô Diệu Thảo, gọi cố Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam là chú mang đến trao cho Đại Nhạc Hội tấm chi phiếu $224,000, và ông Lê Quốc Tuấn đại diện tổ chức VOICE từ Canada cũng đem đến trao cho Đại Nhạc Hội $100,000 tiền Canada, tính ra khỏang $72,000 Mỹ Kim nữa nên ngay từ lúc đầu, mình đã có khoảng $300,000 rồi. Còn trong thời gian Đại Nhạc Hội diễn ra, đồng hương Bắc Cali đóng góp tại chỗ cũng như thính giả đài SBTN gọi qua điện thoại, lần nào cũng được khoảng $400,000 nữa. Tính sơ khởi đến bây giờ số tiền được khoảng $904,000.


           Nhạc sĩ Trúc Hồ, TGĐ đài SBTN đang trả lời phỏng vấn của Viễn Đông. (Thanh Phong/Viễn Đông)


Viễn Đông: Khi nào thì có kết quả chính thức, thưa niên trưởng?
Ô. Nguyễn Văn Ức: Chúng tôi phải làm công việc kiểm soát lại xem những người hứa cho, chúng tôi đã nhận được chưa, vì thông thường mỗi kỳ ĐNH có khoảng 20 đến 30 ngàn Mỹ Kim không thâu được, lý do là có nhiều người gọi qua điện thoại V247 hứa cho bằng Credit Card nhưng sau đó không liên lạc được vì có thể số điện thoại không rõ hay họ đã đổi số, nên sau khi đài SBTN kết thúc việc nhận tiền qua điện thoại và gửi cho chúng tôi cũng như tổng kết các khoản, khoảng một, hai tháng nữa chúng tôi sẽ mở cuộc họp báo để công khai tài chính. Số tiền chúng tôi vừa nêu chỉ là sơ khởi thôi, chưa chính thức.
Viễn Đông: Qua ĐNH kỳ 9 tại San Jose, xin niên trưởng cho biết tinh thần của đồng hương mình đối với các anh em TPB & QP/VNCH như thế nào?
Ô. Nguyễn Văn Ức: Tinh thần của đồng hương mình vẫn không suy suyển so với các ĐNH trước đây. Đặc biệt ở miền Bắc Cali có ngôi chợ Ocean Market. Trong lần tổ chức ĐNH Cám Ơn Anh kỳ 7 tại San Jose họ cho $50,000; kỳ ĐNH thứ 9 này tổ chức trên đó họ cho $70,000 Mỹ kim. Một số gia đình mang đến tặng những tấm check $5,000 – $10,000 đô, thật là những tấm lòng vàng đồi với các anh chị em TPB/QP/VNCH. Chúng tôi hy vọng kỳ này số tiền sẽ khả quan hơn để có thể giúp anh em TPB & QP/VNCH một cách rộng rãi hơn.
Viễn Đông: Qua Đại Nhạc Hội lần thứ 9, xin niên trưởng thay mặt Hội có một lời tâm tình với đồng hương.
Ô. Nguyễn Văn Ức: Như anh đã thấy, vị Hội trưởng của chúng tôi sau chuyến đi dự ĐNH kỳ 9 về tuy rất mệt nhưng chị đã cùng ngồi đây làm việc không ngừng nghỉ. Thay mặt tất cả thành viên trong Ban Điều Hành Hội H.O. Cứu Trợ TPB &QP/VNCH và thay mặt các TPB & QP/VNCH, chúng tôi chân thành cảm tạ Ban Tổ Chức ĐNH kỳ 9 và quý đồng hương, đặc biệt đồng hương tại Bắc California đã nhiệt tình đóng góp, tham dự và bày tỏ lòng biết ơn các chiến sĩ QL/VNCH đã hy sinh một phần thân thể cho Tổ Quốc, các quả phụ đã mất đi người trụ cột gia đình để phải thay chồng lo nuôi dạy con cái, nhất là đang phải sống lầm than, khổ cực dưới chế độ cộng sản. Chúng tôi cũng không quên cám ơn Bác Sĩ chủ nhiệm và Ban Giám Đốc, anh chị em trong tòa soạn báo Viễn Đông đã loan tin này đến đồng hương khắp nơi.
Sau đó, chúng tôi đến đài truyền hình SBTN phỏng vấn nhạc sĩ Trúc Hồ.
Viễn Đông: Xin nhạc sĩ cho biết, so với ĐNH kỳ 8 kết quả ĐNH kỳ 9 có khả quan hơn không?
NS. Trúc Hồ: Khả quan hơn kỳ 8, vì trước đó bên Houston có cô Nguyễn Khoa Diệu Thảo thuộc dòng họ Tướng Nguyễn Khoa Nam đã tổ chức gây quỹ, có mời anh Nam Lộc và một số nghệ sĩ trình diễn, và thâu được $224,000 dollars (chúng tôi hỏi nhạc sĩ Trúc Hồ, cô Nguyễn Khoa Diệu Thảo có họ hàng với cô Nguyễn Khoa Diệu Quyên phu nhân nhạc sĩ không? NS Trúc Hồ cười nói, Thảo là đứa em trong gia đình). Ngoài ra, các bạn trẻ thuộc Hội Canada Voice Youth cũng gây quỹ được $134,000 tiền Canada, nhưng $34,000 họ trao cho Hội Hoa Tình Thương cũng để giúp TPB/VNCH thôi, còn $100,000 họ mang đến trao cho Đại Hội. Hội này đã đứng ra giúp cho các thuyền nhân VN cuối cùng còn kẹt bên Phi Luật Tân được đi định cư.
Viễn Đông: Là một thành viên quan trọng trong ban tổ chức, xin Nhạc Sĩ cho biết, trong Đại Nhạc Hội Kỳ 9 lần này có điểm gì đặc biệt hơn các ĐNH 8 lần trước?
NS. Trúc Hồ: Điểm đặc biệt nhất mà tôi ghi nhận là tinh thần dấn thân của các bạn trẻ, chúng ta phải nhắc đi nhắc lại nhiều lần cái tinh thần này để cám ơn họ. Ngoài ra, Trúc Hồ rất ngạc nhiên về tinh thần làm việc của Ban Tổ Chức Đại Nhạc Hội kỳ 9, cũng vẫn ông Đại Tá Nguyễn Hồng Tuyền làm Trưởng Ban Tổ Chức, ông Lê Văn Chính điều hợp cùng với các thiện nguyện viên mà lần này họ làm việc không chê vào đâu được. Từ việc tiếp tân, lo vấn đề y tế, trả lời điện thoại, đưa đón nghệ sĩ, phục vụ ăn uống đến an ninh trật tự đều hoàn hảo, không thể có một lời chê trách vào đâu được.
Viễn Đông: Với thành quả mà các bạn trẻ ở hai nơi vừa làm. Nhạc sĩ và Ban Tổ Chức ĐNH kỳ 10 có nghĩ sẽ nhân rộng ra cái thành quả này không?
NS. Trúc Hồ: Đây là việc làm rất thành công, rất có ý nghĩa nên chúng tôi và Hội H.O của cô Hạnh Nhơn cũng như Trung Tâm Asia và anh Nam Lộc sẽ thảo luận vấn đề này. Nếu mỗi địa phương có đông người Việt cư ngụ như Úc châu, Hòa Lan, Đức, Pháp hay những tiểu bang lớn của Hoa Kỳ được các bạn trẻ đứng ra tổ chức gây quỹ, và mỗi nơi được $100,000 thì 10 nơi chúng ta đã có $1 triệu; trước khi Đại Nhạc Hội khai mạc đã có số tiền lớn như vậy thì đẹp biết bao.
Nghệ sĩ Nam Lộc cũng đã hứa, bất cứ nơi nào tổ chức cần có mặt anh, anh sẽ đến giúp. Tôi tin rằng nếu các bạn trẻ có niềm tin và được người lớn hường dẫn họ sẽ làm được.
Viễn Đông: Đài SBTN đóng một vai trò quan trọng trong việc kêu gọi sự giúp đỡ của đồng hương. Tuy nhiên, một số người không gọi được vào đài để đóng góp. Nhạc sĩ nghĩ sao?
NS. Trúc Hồ: Việc gọi đóng góp qua điện thoại có gặp trở ngại thật là vì số người gọi quá đông, nên có nhiều người không đủ kiên nhẫn chờ đành cúp máy. Tuy nhiên, theo kinh nghiệm của chúng tôi. Sau Đại Nhạc Hội, đài SBTN vẫn còn chiếu đi chiếu lại và vẫn kêu gọi đồng hương đóng góp, cho nên một hai tháng sau số tiền tăng thêm rất nhiều, vì bây giờ đồng hương không phải chờ đường dây lâu như hôm Đại Nhạc Hội đang diễn ra, và có địa chỉ, số điện thoại hiện trên màn hình SBTN nên rất dễ cho việc gọi đến giúp đỡ, và Trúc Hồ hy vọng năm nay khi Hội H.O. tổng kết có thể số tiến sẽ trên $1 triệu.
Viễn Đông: Năm nay không thấy Đại Nhạc Hội tổ chức bán đấu giá một món gì đó để gây thêm quỹ?
NS. Trúc Hồ: Kinh nghiệm lần trước, khi đấu giá người ta gọi vào, tự người ta gọi vào trả giá, sau đó người ta lặn luôn thành ra năm nay không đấu giá nữa.
Viễn Đông: Xin Nhạc Sĩ Trúc Hồ gửi một lời tâm tình đến đồng hương và độc giả Viễn Đông chúng tôi.
NS. Trúc Hồ: Qua nhật báo Viễn Đông, Trúc Hồ xin một lần nữa gửi lời chân thành cảm tạ Ban Tổ Chức Đại Nhạc Hội Kỳ 9 tại San Jose, cám ơn tất cả các anh chị em thiện nguyện viên thuộc nhiều tổ chức hội đoàn và Hướng Đạo Sinh, cựu nữ sinh Trưng Vương, Gia Long v.v. tại Bắc Cali, cám ơn các anh chị em nghệ sĩ đã đóng góp công sức của mình cho Đại Nhạc Hội thành công tốt đẹp; đặc biệt chúng tôi, Đài SBTN và Hội H.O chân thành cám ơn quý đồng hương khắp nơi, nếu không có quý đồng hương, không có thính giả, SBTN không thể thực hiện được như vậy, và chúng tôi cũng không quên cám ơn Ban Giám Đốc nhật báo Viễn Đông.
Viễn Đông: Cám ơn nhạc sĩ Trúc Hồ đã dành cho chúng tôi cuộc phỏng vấn này.
http://www.viendongdaily.com/phong-van-hoi-ho-va-nhac-si-truc-ho-sau-dai-nhac-hoi-cam-on-iX07LSE5.html

Wednesday, July 8, 2015

Tình Người trong Cuộc Chiến / Trương Văn Út (Mũ đỏ Útbạchlan)

 Trương Văn Út (Mũ đỏ Útbạchlan)
Sau cuộc hành quân Lam Sơn 719 Hạ Lào, Trinh Sát 2 Nhẩy Dù tương đối còn nguyên vẹn, trong khi Trinh Sát 3 Nhẩy Dù (TS3ND) gần như bị xóa sổ ở vùng đồi 31 tại Hạ Lào cùng với Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn3 Nhẩy Dù (LĐ3ND)…! Sau đó  Lữ Đoàn 3 Nhẩy Dù được tái thành lập nhanh chóng và được lệnh hành quân thực tập với một Lữ Đoàn Không Kỵ Hoa Kỳ tại Phước Vĩnh thuộc tỉnh Phước Long. Vì TS3ND đang trong tiến trình tái thành lập và huấn luyện, thụ huấn Viễn Thám, Rừng Núi Sình Lầy, nên Trinh Sát 2 Nhẩy Dù (TS2ND) được điều động tăng phái hành quân cho LĐ3ND. TS2ND vốn là lực lượng 81Biệt Cách Dù (LL81BCD)  nên rất nhuần nhuyển khi hành quân phối hợp với Không Kỵ Hoa Kỳ (US First 1st Cavalry Division), các toán Viễn Thám hoặc Trung Đội Trinh Sát  thường được thả xuống những mục tiêu xa các căn cứ hỏa lực chừng vài ba chục cây số chỉ nhờ sự bảo vệ của không yểm…
 
Tháng 5 năm 1971:
 
Trong buổi họp hành quân đầu tiên với Đại Tá Trương Vĩnh Phước,( tân Lữ Đoàn  Trưởng LĐ3ND, thay thế cho Đại Tá Nguyễn Văn Thọ bị Việt Cộng bắt ở ngọn đồi 31 Hạ Lào), cùng với các vị Tiểu Đoàn Trưởng thống thuộc LĐ3ND…Giai đoạn đầu cuộc hành quân, các Tiểu Đoàn Nhẩy Dù được trực thăng vận nhẩy vào những  mục tiêu tương đối an toàn để thiết lập căn cứ pháo binh trong khu vực trách nhiệm,  trong khi Trinh Sát thả các toán viễn thám vào Chiến Khu D  của Việt Cộng…Trong giai đoạn này, tôi được toàn quyền xử dụng một trung đội trực thăng gồm một C&C chỉ huy, 12 slick chở quân, và 2 trực thăng võ trang Cobra hộ tống yểm trợ (cấp số phi cơ trong quân lực Mỹ khác với danh từ Phi Đội, Phi Đoàn của Không Quân Việt Nam Cộng Hoà), cùng với 5 Sĩ Quan cố vấn Mỹ. Ba toán viễn thám lần lượt được thả vào ba mục tiêu do Bộ Chĩ Huy Lữ Đoàn (BCHLĐ)  ấn định. Thời gian xâm nhập là 7 ngày và lộ trình phải hành quân qua năm mục tiêu…2 ngày trôi qua với những báo cáo hoàn toàn vô sự, nhưng vào lúc 11 giờ đêm thứ ba nhận được công điện khẩn của Toán Viễn Thám 2 (TVT2) nội dung như sau:
- Chúng tôi đang ở ven đô, chưa bị lộ, an toàn.
 
Tôi hiểu ngay là họ đã khám phá một căn cứ rất lớn của Cộng Quân, tôi vội vã check lại vị trí và khu vực rồi báo ngay cho phòng hành quân Lữ Đoàn, sau đó trả lời cho toán Viễn Thám:
- Nằm yên đừng nhúc nhích báo cáo cách khoảng mỗi giờ.
 
Suốt đêm hôm đó tôi không ngủ, Ban 3 Lữ Đoàn (B3LĐ) cũng không ngủ, tôi biết sẽ phải làm gì để chuẩn bị cho sáng sớm ngày mai… Đến 4 giờ sáng tôi triệu tập 4 Trung Đội Trưởng Trinh Sát và Hạ Sĩ Quan Thường Vụ ra lệnh:
- 4 ngày lương khô, 3 cấp số đạn dược...lên trực thăng lúc 7 giờ sáng…!
…và tôi cũng yêu cầu Lữ Đoàn đổ quân một lần và phải tăng cường thêm trực thăng slick để bốc 170 quân xông vào chiến địa. Lời yêu cầu này được thoả mãn ngay, vì cả Lữ Đoàn Không Kỵ với huy hiệu “đầu con ngựa “ đang có mặt tại phi trường Phước Vĩnh, tất cả binh sĩ rất háo hức, hăng say “ready” chờ xung trận …!!! Phi cơ quan sát OV10 cho biết, mục tiêu là cả một khu rừng tre dày đặc nên không thể xác định vị trí của toán VT2, vì toán này không thể dùng panal vàng và kính phản chiếu để làm hiệu. Bãi đáp (LZ) được chọn là một đầm lầy đường kính khoảng 100 mét, cách mục tiêu 500 mét, cách biên giới Miên- Việt 2 cây số. Vừa đặt chân xuống bãi đáp nước ngập ngang hông tôi nói với Trung Úy cố vấn Berry:
-  Go ahead, make your day!!!
 
Toán VT2 bung trái khói, OV10 hướng dẫn 4 trực thăng Cobra hoả lực chiến đấu nhào xuống như những con mãng xà  vương “Hổ Ngựa Không Kỵ” gầm rú bắn phá phóng hằng loạt rocket, lửa đạn bùng vỡ long trời, lỡ đất…trong khi chúng tôi “bôn tập” ra xa khoảng 500 mét trong vòng 5 phút, và dưới sự hướng dẫn của VT2, chúng tôi xung phong xông  vào mục tiêu, trong khi bốn chiếc Cobra vẫn còn hung nộ nã từng tràng đạn auto phóng lựu M79 và rocket, tiếng nổ kinh hồn xé nát không gian, lửa bùng cháy đỏ rực một góc rừng…!!! Chúng tôi bung ra lục soát và khám phá ra nơi đây là một bệnh xá cấp trung đoàn của Việt Cộng và có lẽ địch “đánh hơi” biết trước được quân “lính Dù” Việt - Mỹ hành quân truy lùng càn quét, nên chúng đã vội vả di dời, bỏ chiến khu độ chừng một hai ngày qua, nơi đây những bếp lò hãy còn hơi nóng, dụng cụ y tế cứu cấp vẫn còn trong các ngăn tủ làm bằng tre nứa, vườn trống nhà không vắng bóng người…! Tôi cho lệnh binh sĩ bung ra lục soát với chu vi mở rộng và đường kính từ 500 mét đến hơn một cây số...tình hình yên tĩnh, địch đã tháo chạy ra xa, không một tiếng súng chỉ còn nghe tiếng cánh quạt trực thăng xé gió phành phạch tung hoành trên bầu trời suốt ngày hôm đó…!!! Chúng tôi đóng quân qua đêm trong những dãy nhà lợp rơm dưới rừng tre dày đặc… Sáng sớm ngày hôm sau, trong tay đang cầm chiếc ca dã chiến lưng lững cà phê sữa nóng từ Ration C (phần lương khô cá nhân của quân đội Mỹ) tôi nhận được báo cáo của Trung Đội 1 cách tôi khoảng 500 mét  tới 700 mét là:
- Đích thân, tụi em vừa chụp được ba con nhạn la đà...!!!
 
Tôi liền nói với Trung Úy Thinh Đại Đội Phó của tôi và cố vấn Trung Uý Berry là tôi chỉ đi quan sát tình hình và về ngay, không cho họ biết tin là Trung Đội 1 vừa bắt được tù binh!
 
   Trong căn chòi với cuốc xẻng ngỗn ngang trên sàn, bên dưới là một căn hầm trú ẩn  chứa vài ba người ngồi co ro, họ là ba cô gái trên dưới hai mươi, tay bị trói ngoặc ra sau lưng với những đôi mắt đầy vẻ lo âu sợ hãi…! Tôi hỏi Thiếu Úy Sang:
- Anh đã lấy khẩu cung sơ khởi chưa?
- Dạ có.
- Có cho họ ăn uống gì chưa?
- Dạ cơm sấy và thịt ba lát...
 
Tôi ra lệnh cởi trói cho “3 con nhạn” nhưng ba nòng súng M16 của binh sĩ đạn đã lên nòng để phòng bất trắc…Liếc sơ qua ba trang giấy viết nguệch ngoạc “khẩu cung”,  tôi để ý ngay đến tên: Nguyễn Thị Yến, sinh quán ở Chợ Gạo, Mỹ Tho, học sinh trường bán công Thiên Hộ Dương, vào bưng cuối năm 1969 và hiện là y tá cho bệnh xá này cùng hai nữ “đồng chí” đang run sợ muốn vãi đái đáng tội nghiệp kia tên là: Trần Thị Ánh và Ngô Thị Hạnh…cả 3 bị phát hiện và bị bắt trong lúc trốn chui ẩn nấp dưới hầm vì phải tuân lệnh thủ trưởng với nhiệm vụ giao liên là: “…nằm lại, bám thật sâu, thật sát, nắm bắt tình hình quân địch để báo cáo ngay sau khi quân “Ngụy “ rút đi…”…! Tôi nói:
- Ba cô ngồi xuống đất đi, “bình thân” thôi đừng có quỳ gối nữa…! Tôi hỏi cáí gì trả lời cái đó.
 
Tôi quan sát Nguyễn Thị Yến có một gương mặt trái soan, trông hiền lành có duyên, tóc bới đuôi gà, nếu buông xõa sẽ chấm ngang vai, nước da trắng của gái miệt vườn nhưng hơi xanh xao vì sống ẩn nấp lâu ngày, dài tháng dưới tán lá cây rừng trong mật khu bị thiếu ánh mặt trời soi rọi …Yến tuổi Mậu Tí sinh năm 1947, học đến hết năm đệ tam bậc trung học thì nghĩ học, ở nhà phụ giúp mẹ trông coi mãnh vườn dừa hơn một mẫu ở ven kinh Chợ Gạo… Theo “nàng” kể: năm 10 tuổi, cha nàng theo kháng chiến Việt Minh rồi bị mật vụ của Cụ Ngô Đình Diệm bắt giam, tra tấn hơn ba năm, sau được phóng thích và qua đời sau vài tháng vì bị bệnh lao phổi…Gia đình Yến sống trong vùng xôi đậu, ban ngày với dân vệ xã ấp giữ an ninh, ban đêm cán bộ Việt Minh về làng hoạt động, những đồng chí của cha nàng vẫn thường xuyên liên lạc với mẹ nàng…Họ tuyên truyền gieo vào đầu óc ngây thơ của nàng những oán hận là phải trả thù cùng với những lời hứa hẹn tương lai tốt đẹp khi cách mạng thành công…! Năm 1967, Yến   vừa tròn 20 tuổi, nàng bắt đầu hoạt động cho Việt Cộng với nhiệm vụ liên lạc với các tổ nội thành ở chợ hàng bông Mỹ Tho. Sau hai năm với nhiều công tác suông sẽ, nàng được kết nạp vào Đảng Cộng Sản - Chi Bộ Chợ Gạo. Trong  trận “Tổng Công Kích Tết Mậu Thân 1968”,  một trong các tổ “quỉ” nội thành Mỹ Tho bị Đơn Vị 101 và An Ninh Quân Đội Việt Nam Cộng Hoà tóm gọn! Nàng được lệnh “vào bưng”...Tôi hỏi:
 - Hôm nay cô bị bắt và đang ngồi đối diện với tôi, cô có biết số phận của cô sẽ ra sao hay không?
- Thưa anh, con người ta sinh ra đời, ai…ai cũng cầu Sinh, chớ chẳng có  mấy ai đâu cầu Tử, chết  hay sống đều có định số như an bày cả rồi, có cải số phận được không …bây giờ cũng vô ích thôi! Huống hồ gì… cho rằng: “đức năng thắng số, hay tận nhân lực tri thiên mạng” gì gì… đi nữa… thì đối với các anh phía VNCH thì em có tội, nay em đã bị các anh bắt thì tùy các anh định đoạt thân phận của em như cá nằm trên thớt…?!
 
Tôi lắng nghe Yến nói trong âm điệu như bình thản an phận xen lẫn có chút bùi ngùi, là tâm tư và cũng là “trí thức” chăng “nó” có chút chiều sâu tơ vương lãng đảng vô hình tư tưởng nghiệp lực,  nhân duyên trớ trêu dính mắc vào người…! Tôi bỗng thẩn thờ  xao động trong giây phút, không ngờ một cô gái còn trẻ tuổi cả gan đi theo Việt Cộng kháng chiến chống chế độ Quốc Gia Việt Nam Cộng Hoà, mà lại tin vào duy tâm thay vì duy vật…! Tôi hỏi thêm thì cô trả lời: học đến đệ tam ban C (Hán văn). Tôi móc bao thuốc Quân Tiếp Vụ mồi một điếu, hỏi tiếp:
- Cô có thể cho tôi biết rõ thêm vì sao cô vô đây, vì thù hận hay hoàn cảnh đưa đẩy… hay vì một lý tưởng nào đó…?
- Thưa anh, thù hận thì có…vì ba em “bị giết”, hoàn cảnh thì cũng có… vì sau Tết Mậu Thân tông tích em bị lộ nên phải nghe lời các chú, các bác… đành phải gạt lệ ra đi để lại Mẹ già đơn chiếc, quạnh hiu một mình nơi quê nhà…! Còn nói về lý tưởng thì em lờ mờ chẳng hiểu biết gì…em có đọc được vài quyển sách nói về tiến trình hình thành tôn giáo của con người, từ khởi thủy là Duy Thần rồi Duy Tâm, Duy Ngã, Duy Linh. bây giờ biết thêm Duy Vật..Nhưng đối với em Duy gì gì đi nữa… em cũng không tin và không quan trọng…  em chỉ biết sống, thì mạng sống con người là quan trọng hơn tất cả mọi sự việc trên cõi đời nầy…!
 
Tôi chú tâm nghe rõ từng “chữ” cô Yến nói như trải lòng và cãm thấy thú vị với cô “Việt Cộng” nầy và tự nhủ: trước mặt mình là một nữ tù binh, lại có thể đối đáp bình thản, mạch lạc tư tưởng như vậy, nhất là khi cô nói đến câu “ …sống, thì mạng sống con người là quan trọng  hơn tất cả mọi sự việc trên cõi đời nầy…”!!! Tôi tự hỏi lời cô “VC” nói hao hao, mang máng, chuyên chở ý tưởng của Duy Nhân Biện Chứng mà tôi đã từng đọc qua một số trong 28 tác phẩm “Duy Dân Cương Thảo Toàn Pho” tác giả Lý Đông A  nhà cách mạng lập thuyết Nhân Chủ khi tôi còn ở ngưỡng cửa đại học …? Tôi chậm rải hỏi tiếp:
- Bây giờ cô đã bị chúng tôi bắt giữ, cô có còn hy vọng gì với mạng sống của riêng cô hay không? Yến ngước nhìn tôi với ánh mắt buồn u uẩn rồi nhìn buông cõi xa xa như nói thầm với chính nàng:
- Như em đã thưa...chết sống đều có số mạng! Có người muốn chết mà chết không được, còn người muốn sống thì định mệnh lại cướp họ đi…! Hy vọng của em đang nằm trong tay các anh, hy vọng ngày mai hay tương lai nào ai đoán biết trước được…?!
 
Người hiệu thính viên bước vào và ra dấu cho tôi ra ngoài vì có điện đàm với Thiếu Tá Tùng (Khoá 19 Đà Lạt) Trưởng Ban 3 Lữ Đoàn: Lệnh ngày mai di chuyển đến mục tiêu bên kia sông Bé và tiến sát đến biên giới Miên- Việt,  vào giờ G sẽ có trực thăng võ trang Cobra Hoa Kỳ “dọn bãi” trước khi chúng tôi vượt sông. Tôi trở vào “hiện trường” cố tình “phán” lớn tiếng căn dặn vớiThiếu Úy Sang:
- Đêm nay cho ba cô ăn uống đầy đủ, bỏ vào túi vải của họ mỗi ngưòi một phần lương thực Ration C, rồi đem ra xa...bắn bỏ!!!
 
Truyền chỉ thị thi hành cho thuộc hạ xong, tôi vội vả trở gót đi nhanh  để khỏi phải  nhìn thấy những đôi mắt ngỡ ngàng kinh hoàng của ba cô cán bộ “vẹm” tuổi đời đương độ xuân thì…!!!  Tôi không biết trong số ba “tử tội” đáng thương hại sắp bị dẫn đi “bắn bỏ” đó, có ai thông minh chợt hiểu vì sao lệnh xử tử mà còn lại được cẩn thận “ban” cho mỗi người một phần lương khô cá nhân đem theo, không lẽ để mang về bên kia thế giới cõi ma mà “thọ hưởng” ẩm thực …?!!! Bất giác tôi mỉm cười thú vị và tưởng tượng cảnh ba “tử tội” sẽ sợ té đái khi tràng súng nổ xé màng tai để tống tiễn đưa ba “nàng”  về cõi sống…!!! Trên đường đi trở lại chổ đóng quân tôi suy nghĩ: Chúng ta từ cõi hư vô nào thai sinh đến cuộc đời nầy, cách sông, cách núi, qua biển, qua triền đồi thẳm vực…luân cư, định cư…là người da đen, da đỏ, da trắng, da vàng…khác chủng loại chăng? Nhưng tựu chung đã là Người thì “nhân sinh kế tại ư xuân”,  Nhân Tính hầu hết đều giống nhau là tham sống và sợ chết…và đã là Người chưa đủ, mà phải học và hành, trau giồi nhân phẩm để được làm Người (viết Hoa), chứ không chỉ là loài thụ tạo vô tri, vô giác bất mộ nhân tố …vậy thì phải sống theo Nhân Đạo là con đướng lớn thẳng mà Đạo Lý “cái” nhất định con người phải noi theo để đạt đến đích điểm dự cầu là sống tự do, hạnh phúc trong hoà bình với những chặng tiến hoá tất yếu của loài người…mà từ thuở lọt lòng lớn lên biết nghe, biết học, biết viết… từ trong gia đình chí cho tới học đường ai ai cũng được Ông Bà, Cha Mẹ, Thầy Cô, Anh Chị, Cô Bác láng giềng dạy dỗ như hun đúc với  “Khuôn Vàng, Thước Ngọc”  lấy Nhân Ái là tâm từ bi, thương yêu mà đối đãi, cư xử với nhau, giữ giềng mối Nhân Luân như: Đạo Vơ Chồng, ơn nghĩa Ông Bà, Cha Mẹ, Thầy Cô, tình nghĩa Huynh Đệ ràng giữ hài hoà với nhau…Tôi không thể ra lệnh giết những cô gái yếu đuối thế cô, trong tay không có một tấc sắt làm vũ khí để tự vệ, cho dù họ ở bên kia chuyến tuyến, tuy có đối nghịch và đối phương đằng đằng sát khí hận thù chúng tôi, do tuyên truyền nhồi sọ “ý thức hệ” chính trị giảo hoạt, chứ thực tế ngay chính tôi đây là một quân nhân cầm súng chiến đấu, vào sinh ra tử, đời sống dính liền với trận mạc lặn lội, xông pha từ những khu chiến thuật núi rừng bạc ngàn, đèo heo hút gió cho đến có những chiều mây mù giăng giăng khắp n ẻo sơn khê, áo trận ướt đẫm lành lạnh, không biết là hơi sương rừng hay mồ hôi làm se lạnh nỗi chạnh lòng đời lính lắm gian khổ, nhiều hiểm nguy…! Tôi phải phát triển tối đa tài năng chỉ huy, chiến đấu tính trội vượt hơn quân địch ngàn lần để chiến thắng và bảo vệ, giữ cho binh sĩ tổn thất ít nhất …tôi vẫn ít có khi nào phải lâm vào trường hợp căm thù địch quân để “thề phanh thây, uống máu quân thù…” như Bắc Quân VC đã học tập thành quán tính ác độc đối xử vô cảm, tàn sát đồng bào cùng chủng tộc “Họ Hồng Bằng” (chim Hồng lớn, chim Bằng, chim Bồ Nông bắt cá,  biểu tượng khắc vẻ trên mặt Trống Đồng)…? Trong nỗi niềm thông cảm và thương cảm hoàn cảnh của ba cô y tá Việt Cộng bị bắt trong Chiến Khu D, tôi đã quyết định theo lương tâm của con Người lương thiện mà thả họ trở về với đời sống  tự do và hy vọng họ sẽ trở lại làng quê, chốn cũ để đoàn tụ với thân nhân trong mái gia đình bình yên và hạnh phúc…! Bất giác tôi cảm thấy có nỗi buồn mang mang như buổi chiều cuối năm còn dẫn quân di hành dọc theo con đường hương lộ và trời dần tối mờ mờ chỉ còn le lói chút ráng chiều chưa nỡ tan phai.

Có những chiều mưa buồn giăng giăng khắp lối
Có những chiều giá lạnh tím cả hoàng hôn
Tôi di qua thôn xa heo hút lưng đèo
Rừng cây hoang vắng tiêu điều
Và lòng như thấy cô liêu…!
Mấy năm trời cuộc đời quân nhân đây đó
Mấy năm trời xuôi ngược cuối nẻo đường xa
Tôi đây mang tâm tư anh lính xa nhà
Mà lòng vẫn thấy xót xa
Vì non nước còn đau buồn…!
 
30 Tháng 4 Năm 1975 Cuộc “Bàn Giao” Miền Nam:
 
 
Chính Phủ Việt Nam Cộng Hoà đầu hàng Bắc Quân Việt Cộng. “kẻ xấu đã thắng” cuộc (phát ngôn của Thượng Nghị Sĩ Quốc Hội Liên Bang Mỹ Senetor John Mc Cain) lên ngôi, Người (viết Hoa) bại trận, xuống làm thân trâu ngựa với bao nỗi chua xót đau buồn…!  Cóc nhái, ếch ễnh ương, loài sâu bọ, lũ súc vật “tất tần tật” nhẩy bàn độc, chấp đôi cánh lên “giời” hiển lộ vạn sự ác độc, gian trá, tàn bạo và ti tiện của đám vốn gốc bần nông vô học kinh niên và di căn dòng giống mò cua, bắt ốc, leo trèo hái quả của thời chưa tiến hoá…chúng tự ti mặc cảm “quê một cục” nên cố căng hết “giây cót” vênh váo thị uy quyền lực bèn hằn học, hung hăng trả thù và chiếm đoạt tất cả của cải, tài sản luôn cả thân “xác” xinh đẹp phụ nữ “Nguỵ Quân, Nguỵ Quyền” miền Nam là thiên đường mà cả đời nằm mơ chúng cũng không bao giờ dám nghĩ tới, huống chi là thẳng tay chém giết, “vô tư” cướp bóc dễ dàng và hả hê loài thú dữ thay khoác lên thân thô bỉ còn dính bám đầy đất phèn bằng lớp lông vàng ròng óng ánh mới, chúng loi nhoi  tràn vào chợ còn nguyên dạng cáo đồng, nanh vuốt còn ngay ngáy mùi tanh của máu tươi nạn nhân Quân, Dân, Cán, Chính miền Nam thua trận…! Thân phận tôi nay như “bèo giạt hoa trôi” tựa đám lục bình bềnh bồng lững lờ trên dòng sông Tiền Giang mang theo nhiều kỷ niệm của thời học trò với áo chemise trắng, quần xanh ngày ngày đến trường nô đùa và học hành với Thầy, Cô và phấn bảng…! Nay gặp buổi “thế thời phải thế” tôi đang ngồi “yên hùng” trên xe xích lô, chân nhấn bàn đạp, chạy qua các đường ngõ ngách phố phường nội thành Mỹ Tho, chân mõi nhừ run rẩy, mồ hôi nhễ nhại nhỏ giọt chảy lăn dài xuống má pha lẫn với nươc mắt vì nhớ đến những lần về phép thăm gia đình, quanh quẩn bên Mẹ hiền như những ngày còn thơ dại không muốn rời xa…! Nơi đây là Công Viên Lạc Hồng, Công Viên Dân Chủ, kia là sân banh, ngôi trường Nguyễn Đình Chiểu, Bến Phà Rạch Miểu, Cầu Quây, Chợ Cũ, Chợ Vòng Nhỏ...nay nơi nơi rực màu cờ đỏ, màu máu tươi đã nhuộm đen và phủ chụp đời tôi trên yên chiếc xe xích lô này, tôi còng lưng đạp miệt mài chở khách để độ nhật qua ngày….! Có những chiều hôm trời mưa mù mịt không còn thấy ánh đèn vàng vọt bóng điện đường, nhà nhà đã đóng cửa im lìm, tôi ngồi lọt thỏm trong lòng chiếc xích lô, bụng đói lã vì cả ngày ế khách, tai nghe tiếng mưa gió rít từng cơn qua tấm bạt che không đủ kín làm ướt lạnh thêm nỗi cơ hàn…! Tôi cảm cảnh đời khốn khổ vây kín, làm thân cá chậu chim lồng phải luôn cảnh giác hiểm nguy rình rập, nơm nớp lo sợ bị nghi, bị bắt và bị giết trả thù “quân  Dù nguỵ ác ôn có nợ máu với nhân dân” …rồi mệt lã ngủ thiếp đi, trong cơn mơ chợt tỉnh giấc còn cảm giác luyến tiếc chiếc xe Jeep có huy hiệu Nhẩy Dù và chiếc “cần câu” antena của đơn vị dành cho tôi xử dụng công vụ …và lung linh ảnh hiện đôi mắt đen buồn xa vắng của người em gái nhỏ bên vuông cửa nhìn theo bóng quân qua làng:

Gởi theo ánh mắt mơ màng
Chiều mưa đồng tháp nhớ hàng quân qua!
Ôi thật:
Đẹp làm sao trong giây phút phân kỳ
Trong ánh mắt đã say mầu quên lãng…!

Nhưng rồi mưa hắt hiu lạnh, chợt tỉnh giấc, bẽ bàng tiếc nuối biết đấy chỉ là mơ thôi …!

Rồi Có Một Ngày Kỳ Diệu Đã Đến:
 
Tôi thả một người khách ở bến xe, đạp tà tà trở về Chợ Hàng Bông để “lên tài”, qua khỏi ngã năm cây xăng tới cư xá công chức bên sau nhà thờ Tin Lành, thấy một phụ nữ còn rất trẻ vẩy tay ra dấu gọi, tôi đưa tay kéo thắng tấp xe vào lề. Người phụ nữ  nhìn thoáng tôi rồi bước lên xe và nói:
- Chú chở tôi tới Bệnh Viện Mỹ Tho.
 
Tôi gượng lấy thế, lại cong lưng nhấn bàn đạp xe lao tới, đoạn đường từ đây tới Bệnh Viện Mỹ Tho chỉ non một cây số, đến nơi “bà” xuống xe lúi húi móc túi xách tay trả cho tôi hai đồng. Khi đưa tiền cho tôi, “bà” lại nhìn mặt tôi như quan sát  và lần này tôi thấy vẻ mặt của “bà” hơi khác thường, cử chỉ lúng túng như có một điều gì bất chợt khiến bà tần ngần…?Trong tâm tôi cũng có một “cái” gì đó dao động như viên sỏi thả vào mặt hồ ký ức mông lung xa xưa và chưa hẳn phai mờ…Tôi bỗng dạn dĩ cố nhìn kỷ gương mặt và ánh mắt của “bà”, khuôn “trăng” nầy, ánh mắt nầy, âm điệu lời nói tuy ngắn ngủi khi nãy… như có gì quen thuộc mà tôi đã từng gặp “gỡ” ở đâu…? Nhưng thôi đi, mình phu xích lô mà! “Bà” ta lấy lại “vẻ” bình thường rồi nói:
- Chiều nay, tôi có vài việc cần phải đi một vài chỗ. Khoảng 5 giờ chiều chú đến đón tôi được không? Chú cứ chờ ở đây khoảng vào giờ đó, tính bao nhiêu tôi sẽ trả.
- Dạ tôi sẽ đến trước 5 giờ và chờ “bà”.
Tôi dao động vì tôi đã nhìn và nhận ra gương mặt trái soan cùng đôi mắt đen láy thông minh cùng giọng nói của “bà” Nguyễn Thị Yến quê quán Chợ Gạo Mỹ Tho, cô đã bị đơn vị tôi bắt và thả ra trong Chiến Khu D từ 5 năm trước kia. Tiếp tục công việc, tôi đạp xe trở lại bệnh viện trước giờ hẹn để đón “bà” khách “xộp”. Yến từ hành lang bước ra vội vã lên xe xích lô của tôi và đột ngột thay đổi cách xưng hô:
- Anh đưa em xuống Chợ Cũ để thăm một bệnh nhân, chờ em rồi đưa em về nhà.
 
Ngồi trên xe, Yến cứ quay đầu lại nhìn tôi nhiều lần, có lần nhìn chằm chặp vào gương mặt rám nắng, râu ria lõm chõm gầy hóp của tôi….Tôi hoang mang có chút lo âu vì bản thân đang sống trong tình trạng kẻ bị tầm nã, trốn trại tù! Không biết Yến đang làm gì, nhưng chắc chắn phải là phải cán bộ có chức sắc của chế độ mới, nếu không thì làm sao ở cư xá công chức sang trọng nhất của thành phố này? Trên đường trở về nhà, Yến bất chợt quay nhìn lại và hỏi tôi:
- Trước năm 75 anh có đi lính Nhẩy Dù không?
- Dạ có, nhưng tôi giải ngũ trước khi giải phóng, vì bị thương gãy chân…! Tôi bịa chuyện nói dối tránh né.
- Năm 1971 anh có đi hành quân ở Sông Bé tỉnh Phước Long hay không?
 
Tôi trả lời ngay là không. Tôi đoán biết Yến đã nhận ra tôi nhưng chưa chắc nên mới hỏi thăm dò những câu hỏi huỵch tẹt ra như thế. Trước kia tôi thẩm vấn cô, ngày nay cô thẩm vấn tôi, ngẫm sự đời “tạo hoá” hay định mệnh thật là trớ trêu…? Về đến nhà, Yến xuống xe, móc ví nhét vào tay tôi tờ giấy bạc “cụ Hồ” 50 đồng và căn dặn:
- Tám giờ ngày mai, em chờ ở đây, anh đến đón em đi làm.

 Nếu biết Hữu Duyên sao không Tao Ngộ,
Nếu biết Nghiệp Chướng sao không Hữu Phùng?

Nhưng:

Nếu biết cuộc đời là hữu phùng, hữu biệt
Thì tôi xin như mây trắng mãi ngàn phương…
Nếu biết cuộc đời là sầu đa lạc thiểu
Sao chân cầu còn lưu luyến nước trường giang?
Ai đã qua sông còn ngoảnh vời cố quận,
Thiên lãng xa, ải nhạn hướng đâu tìm?
(MĐTTA)

Câu Chuyện Của Nguyễn Thị Yến:
Sau những tràng đạn nổ vang, em hồn phi phách tán, năm mười phút sau mà cứ tưởng mình đã chết, khi tỉnh hồn, em với Hạnh, Ánh lội qua sông Bé và tìm gặp được đơn vị cũ rồi cứ chạy miết qua bên Miên, cho đến ngày được lệnh chuẩn bị cho chiến trường An Lộc, em được cân nhắc lên chức vụ Y Tá Trưởng của Công Trường 5 vì bởi thế cô, cánh hoa trong tay lang sói, em bị ép uổng, phải trải qua tay bao nhiêu thằng thủ trưởng khốn nạn, chúng thèm khát và lạm dụng thân “xác” em như đồ vật để thoả mãn bệnh thái dâm dục tiêm nhiễm nhiều thú tính man rợ hạ liệt  nhơ nhớp thấp hèn…! Đôi khi em muốn tự tử, lại nghĩ tới Mẹ già hiu quạnh luôn ngóng chờ tin con, rồi lại không dám chết, em như cái xác sống phó mặc cho cảnh đời đưa đẩy và em nghĩ tới anh, thầm hỏi tại sao lúc đó anh không hỏi đơn vị của em ở đâu, có bao nhiêu người, đang di chuyển và trú đóng ở nơi nào… mà chỉ “tra vấn” em những câu rặt Tình Người  rồi bày kế “xử tử” bọn em bằng những loạt đạn bắn chỉ thiên…? Bao nhiêu năm phải chung sống với bọn chúng, em chỉ thấy toàn là giả dối, dốt nát, ngu đần…Em thật sự ngán ngẫm, muốn thoát ly nhưng cảnh ngộ như những gọng kìm khép chặt vào chân đành thúc thủ chịu trận cho qua ngày tháng…! Ừ thôi,  thì cứ tự an ủi có lẽ nghiệp chướng vay từ kiếp nào theo đuổi báo oán, trong kiếp nầy phải trả mà thôi…?!  Sau “giải phóng” 30 tháng 4 năm 1975, em xin về quê quán Chợ Gạo để quán xuyến mãnh vườn của Cha Mẹ để lại. Nhưng chúng nó giữ lại và cho em làm Phó Giám Đốc bệnh viện Mỹ Tho dưới quyền cai quản của con mẹ mập i tờ rít từ ngoài Bắc cử vào. Đến năm 1976 em kết hôn với anh Tân là cựu Giáo Sư dạy văn chương ở trường trung học Nguyễn Đình Chiểu, nhờ vào chức vụ Phó Giám Đốc của em, “chính quyền” cấp cho em một căn hộ trong cư xá vốn là nhà của một công chức chế độ trước bỏ nước ra đi trước tháng tư 1975, hiện nay em đã có hai con với chồng.  Nhiều lần tâm sự, em bàn kế với Tân là mình phải tìm đường đi ra khỏi nước vì không thể sống với bọn man di mọi rợ này được…! Tân khuyên em nên kiên nhẫn chờ sự bảo lãnh của người em ruột của Tân đang định cư ở New Orlean, Louissiana…
 
Tôi ngồi yên lặng trong căn phòng khách xinh xắn nhà của Yến và lắng nghe nàng nói như giải bày tâm sự, chiếc xích lô của tôi được khóa cẩn thận bên ngoài, chồng và hai con của Yến đang xem truyền hình trên lầu. Yến vẫn nghĩ rằng tôi là một Sĩ Quan Nhẩy Dù đã đưọc giải ngũ trước “trận hồng thuỷ” và tôi cũng không hề hé môi để lộ tông tích của mình đang mang tội vượt  ngục và dám tham gia kháng chiến với “Sư Đoàn Tiền Giang”. Bỗng Yến chợt hỏi:
- Hay là em để kiếm một việc làm cho anh trong bệnh viện của em?
- Không! Cám ơn cô, tôi “có đường đi” và cũng chưa  biết đi đâu…? Nhưng tôi phải đi, cho dù phải trả giá bằng mạng sống của chính  mình, chắc cô cũng biết…? Nay vì ân tình nghĩa lụy, cô đã giúp cho tôi có thêm nghị lực để mạnh dạn bước tới với cảnh ngộ khó khăn như thuyền trôi mắc trên khúc sông cạn…và mãi tới hôm nay tôi vẫn còn nhớ như in là cô đã trả lời câu hỏi của tôi: “ mạng sống của con người là quan trọng..”. Rồi từ sau đó tôi rời bỏ quê hương mà trong lòng vẫn không quên hình ảnh cô Yến ở Chợ Gạo  và là Duyên- Nghiệp tao phùng kỳ diệu từ buổi gặp gỡ nhau trong chiến khu D.

Năm 2014 Tại Mỹ:
   Một cú điện thoại lạ với zip code 508 từ vùng Boston, Massachusetts:
- Dạ tôi là Tân… xin được nói chuyện với anh Út Bạch Lan ạ!
- Dạ tôi Út Bạch Lan nghe đây.
- Dạ thưa anh…em là Tân, chồng của cô Yến Chợ Gạo đây ạnh ạ…! Em có quen với một vài người bạn, họ nói biết anh, em xin số điện thoại và gọi cho anh… Vợ chồng em có đọc bài “Trinh Sát 2 Nhẩy Dù” của anh, trong nội dung bài viết có “nói” là bắt được ba cô y tá “vẹm” ở Chiến Khu C, nhưng vợ em tên Yến lại bảo em phải cố liên lạc ngay   để nói với anh là Chiến Khu D chứ không phải C. Tụi em qua Mỹ được sáu năm rồi, mọi việc cũng ổn định, Yến cứ nhắc đến anh hoài, anh nói chuyện với Yến nha, để em chuyển phone cho vợ em. Trong tâm của tôi có nhiều xúc động vui mừng như được gặp lại người thân bấy lâu xa cách tưởng chừng như biền biệt tăm hơi…!
- A lô,… Tôi Út Bạch Lan nghe đây.
- Hi,…Ông anh đạp xích lô à! Em tưởng anh là Lính Cộng Hoà tình nghĩa “huynh đệ chi binh” thương dân nghèo, ruộng hoang cỏ cháy, thấy nỗi xót xa của kiếp đoạ đày …Ai có ngờ ông anh bèn vượt biển giông đi …đi luôn…không thương người em gái nhỏ Chợ Gạo còn ở lại chờ trông…thì ra ông anh cũng ác ôn như mấy thằng cán ngố thời lai đồ điếu thành công dị hợm…!!! Anh còn nhớ anh đã nói gì với em trước khi anh biệt tích không? Anh nói là anh có đường đi, em biết ngay là anh đi đâu rồi, nhưng anh dấu tụi em,  điều đáng trách là anh không dẫn tụi em theo, rồi bây giờ sang Mỹ còn viết bài về ba cô y tá ở Chiến Khu C nữa… Tình cờ em đọc được bài viết đó mới biết anh là Đại Đội Trưởng Trinh Sát 2 Nhẩy Dù “ác ôn có nợ máu với nhân dân”  chớ không phải là ông phu xích lô râu tóc xồm xoàm đưa đón em đi làm và ngồi nghe em kể chuyện chiến khu… Lúc anh “biến” mất, em cứ tưởng anh bị tai nạn, cứ chờ anh đến chở đi làm, chờ hoài không thấy anh tới, em phải đi bộ...và nhớ hoài đến gương mặt của tên ĐĐT/TS2NDù “ác ôn” đã thẩm vấn em rất ư hoà bình...!
 
Tôi vội ngắt lời và đùa vui:
- Cô Yến nè,...Cô nói như vậy không sợ anh Tân chồng cô giận sao?
- Hổng có đâu! Tân rất yêu thương, thông cảm, chia xẻ, tôn trọng và chìu chuộng em mọi thứ, anh không câu nệ, nhỏ mọn với quá khứ của em từ tâm hồn lẫn vật chất. Với Tân là tình nghĩa vợ chồng, với anh là ân oán của thù và bạn, anh là thù của em, em cũng là thù của anh, nhưng tại sao em vẫn luôn nghĩ tới anh…? Vì anh là người bạn hay nói xa hơn anh là nhất điểm tinh thần là “động lực” để em tự cứu vớt đời mình ra khỏi lớp bùn thối tha nhơ nhớp của loài cộng sản gây nên trên khắp quê hương mình!

Có gì đâu mà em xấu hổ…?
Đất nước đè em nặng trĩu hơn nhiều!

   Sau 30 tháng 4 năm 1975, em về thành, bắt đầu làm việc trong bối cảnh thanh bình không có tiếng bom đạn, không có hình ảnh của những thương binh máu me bê bết thân người, không nghe những tiếng kêu la rên xiết đớn đau dưới hầm trú ẩn, nhưng lại chứng kiến những trò lưu manh trơ trẻn, tranh giành, chụp giật của cải, tài sản của Quân Cán Chính “Ngụy” kể cả dân lành vô tội…của những tên thượng cấp của em, và  cũng chính chúng đã từng dùng quyền lực để o ép, cưỡng bức thân “xác” của em nhiều lần trước đây….Em nhờm tởm bọn thủ trưởng, lãnh đạo… thân thể mang đầy vi khuẩn sốt rét ngã nước kinh niên  cùng với tâm hồn thương tật, bệnh thái, căn tính đầy thù hận, hiểm ác không lường…! Trước khi ra đi với Tân và hai đứa con theo diện bảo lãnh thân nhân,  em phải ký giấy tờ chủ quyền giao hết đất đai nhà cửa của Ba Má em cho tên xã trưởng, cái tên mà trước đây hằng đêm đến nhà để thuyết phục em theo hoạt động cho nó. Em không chần chừ, không tiếc rẻ, không thắc mắc…em ký ngay “thí cô hồn” cho nó,  vì em đã dứt khoát khai tử với thiên đàng “xuống hố cả nút” của bọn nó…! Em mong ước sẽ có ngày gặp lại anh ở một nơi nào đó trên phần đất Tự Do – Dân Chủ  để nghe anh “tra vấn” những câu chuyện thấm đượm Tình Người giữa hai kẻ thù Quốc Gia - Cộng Sản không cùng chiến tuyến.
 
Yến nói liên tu bất tận, tưởng chừng như cháy máy điện thoại… Tôi ngắt lời nhiều lần! Nhưng Yến nài nĩ: “Anh cho em nói hết, nói cho đã…Vì sau “giải phóng” em làm việc với chúng nó, em chỉ có biết chữi chúng nó mà không hề có cơ hội tâm sự, lòng mình biết tỏ cùng ai…?!
 
- Anh biết không, khi qua đến New Orlean do người em chồng bảo lãnh, lại có  thêm bọn đầu trâu mặt ngựa là nhóm Việt Tân gì đó ở Biloxi cứ quấy rầy em hoài, chúng khuyên em phải làm cái này, không làm cái kia, chúng nói sẽ cung cấp tiền bạc sinh sống và nuôi con em ăn học…Em khẳng định từ chối và cuối cùng em với Tân quyết định dời lên Boston, tá túc với một người bạn và bắt đầu làm lại cuộc đời, cắt đứt, dứt bỏ chôn vùi quá khứ vào quên lãng, nhưng khốn nỗi “người ơi, khi muốn quên là khi lòng mình nhớ thêm”  và trách anh sao hồi đó không giải giao em cho An Ninh Quân Đội điều tra xong, ra toà kêu án chừng 5 – 10 năm tù ở Côn Sơn hay Phú Quốc gì …gì…cũng được, rồi sau cùng em cũng được thả  sống tự do, đàng nầy  vì Tình Người và tấm lòng nhân hậu, anh thả em ra, lại phải trở về sống trong kiềm toả của bầy quỷ dữ trầm luân…! Cũng may là em gặp được Tân, anh là một giáo sư văn chương độ lượng không cố chấp, đôi khi còn mạnh dạn “phá chấp”  để giúp em thêm tin tưởng  bước qua những cửa ải  oan khiên trên đoạn đường đời.

Quả thật cuộc đời của Yến là một:

 Thiên Địa phong trần
 Hồng nhan đa truân…
(Chinh Phụ Ngâm - Đoàn Thị Điểm)

 Yến không giống như Kiều đã trầm mình dưới sông để trút hay rửa sạch nợ trần, Yến bị ba đào hãm nịch phong trần đã qua phong trần…mà vẫn còn nghị lực để phấn đấu với nghịch cảnh, Yến đã có sự chọn lựa cuối cùng cho đời nàng. Nàng đã hiên ngang dũng cãm hơn phận đàn bà để bước qua lằn ranh Quốc - Cộng không một chút tơ vương những hệ lụy quá khứ…Khá khen thay! Nhưng ở đây nơi bình yên, cô trách tôi đã cư xử như “người ngu tốt bụng” và thêm “tội” sao ra đi mà không dẫn vợ chồng cô theo cùng, để có thể xây dựng cuộc sống ấm no, yên bình và hạnh phúc trong vòng tay của Nữ Thần Tự Do là biểu tượng của “giặc Mỹ xâm lược” mà bọn “vẹm” vẫn thường hay sủa thối.  Tạo hóa trớ trêu thay lại có những công hầu khanh tướng, trí thức khoa bảng vượt biên giới Quốc Gia đi tìm Cộng Sản và để rồi vỡ “mộng ban đầu” chuốc lấy nhiều tai hoạ về sau! Yến nói tiếp:
- Thời gian đầu mới đặt chân đến Mỹ, em cảm thấy bơ vơ, lạc lỏng… vì đám cán bộ tuyên vận VC bố trí “đặc tình” công tác ở hải ngoại cứ thường hay tìm đến móc nối để em tiếp tục làm việc với chúng nó…Nhưng em từ chối quyết liệt, dần dà rồi chúng cũng chán nên không tới quấy rầy nữa?!. Bây giờ chúng em ở ngoại ô thành phố Boston, yên bình thú vị lắm…! So với cái thiên đàng “xắp hàng cả ngày” của chúng nó, thì phải tới vài ba kiếp người nữa mới có thể dò dẫm theo được đến bước chân Người! Chồng em, đi làm về là lên online truy lùng những bản tin hữu ích và văn chương thi phú  Việt ngữ khắp cùng …và tình cờ đọc được những bài viết của anh, Tân nói với em: “ Tác Giả là một quân nhân tuy xông pha trận mạc, nhưng tâm tính tràn đầy nhân bản”… và nói:” em nên đọc rất hay “! Em đọc tới đoạn Chiến Khu C, chợt giật nẩy mình rồi rất đổi vui mừng hét lên: “quả trái đất tròn “!!!  Chính là anh nầy đây!!! Em nhờ Tân phải bằng mọi cách truy tìm manh mối để liên lạc với anh nên mới có ngày vui hôm nay. Tâm sự như tri kỷ với anh, em lại nhớ đến những đêm trong chiến khu, ngồi buồn nhìn những tên thủ trưởng cao cấp uống rượu Hà Nàm thuốc Bắc cường dương ngâm với bào thai con nít rồi động dâm bèn bắt nữ cán bộ phục vụ sinh lý hả hê thoả mãn thú tánh…! Sau 1975 về thành thì mắt láo liên tìm nhà, tìm đất đai, tìm vợ và con gái Sĩ Quan “Ngụy “ để chiếm đoạt…Em phát tởm và khinh bỉ chúng đến tận cùng…! Không phải chỉ riêng em, mà hằng vạn... vạn nữ cán bộ như em bị sung vào “kháng chiến” đều là nạn nhân và có tâm trạng tương tự như thế cả…! Tân bắt em đọc bài “Cuộc Chiến Tranh Nam Bắc của Hoa Kỳ 1865- 1866”  để so sánh với cuộc chiến Bắc - Nam của Việt Nam em lại càng thấy lợm giọng cho chính mình...”bên thắng cuộc” Cộng Sản Bắc Việt …!
 
   Mùa đông cuối năm 2014, những cơn bảo tuyết đổ ập xuống vùng đông bắc Mỹ, vợ chồng Tân đón tôi ở phi trường Boston với chiếc xe Nissan cũ kỹ. Tân cùng tuổi với Yến, gương mặt khắc khổ, cương nghị, vốn là giáo sư văn chương trung học, giọng nói từ tốn chắc nịch, ít cười nói trong khi Yến tung tăng như con chim vành khuyên hót líu lo bay nhảy trên những cành đào đang mùa hoa nở…!  Từ phi trường về nhà khoảng 45 phút,  Tân chú tâm lái xe vì thời tiết lạnh dưới độ đông đá, giây phút gặp nhau trong thinh lặng như để hồi tưởng lại những ngày tháng tôi cong lưng  đạp xe  xích lô đưa Yến đi làm ở bệnh viện Mỹ Tho. Tôi nhìn Yến với nét  thanh tân thời con gái đã đi qua, bây giờ nàng là một phụ nữ đứng tuổi, nhưng ánh mắt  hiền lành, tinh anh vẫn còn sáng niềm tin trên khuôn mặt trái soan như ngày nào và giọng cười, tiếng nói vẫn lém lỉnh, luyến láy như  ngày xưa ấy chưa hề “hoá thạch” theo thời gian làm già cỗi tâm hồn?  Yến ngồi ở băng ghế sau, thỉnh  thoảng chồm lên phía trước và:
- Anh biết không,...Sau khi anh đi một thời gian, cuối năm 1980 chúng nó điều em đi học để lấy bằng Phó Tiến Sĩ Y Khoa…?!!! Trời ơi, đất hỡi…! Học lực của em chưa xong bậc trung học phổ thông, trình độ y tá trong “khu” rừng chưa qua khỏi chiếc” lá mít”…Vậy mà “lãnh đạo” đề cử cho em đi Hà Nội “chuyên tu” học lấy bằng cấp, học vị Phó Tiến Sĩ Y Khoa chỉ trong vòng 6 tháng, thì duy nhất  trên hành tinh nầy chỉ có nền giáo dục của “chủ nghĩa xã hơi” là “dzĩ đại” ngu xuẩn, xem mạng người như súc vật…! Xong khoá học “chuyên tu” em trở về lại chức vụ cũ với mãnh bằng  Phó Tiến Sĩ Y Khoa như chuyện khôi hài mà có thực tại đất nước Việt Nam dưới thời đại đồ đểu, bọn bần nông vô học đương quyền thống trị …!!!. Em chán nản vì nạn quan chức tham ô hống hách lộng quyền…!  Muốn thực hành một ca mổ, bệnh nhân phải trả trước cho bác sĩ 500 ngàn đồng, mỗi y tá 200 ngàn, tiền chi phí của bệnh viện mỗi ngày 500 ngàn, đó là chưa kể “tiền đường” đưa tại chỗ để được nhập viện… Có một ngày, em đi chợ Hàng Bông, nơi mà trước đây anh đậu chiếc xích lô chờ khách, em chợt nghe hai người đàn bà đứng kế bên nói sách mé, miệt thị: “ xí... dốt như chuyên tu, ngu như tại chức mà cứ làm bộ như là đỉnh cao trí tệ”!. Về nhà em hỏi chồng, Tân cười hì..hì…:” thì họ “phán” đúng quá trời rồi, em còn hỏi cái gì nữa “?!!! Sau đó em xin ra khỏi đảng và nghĩ việc để chờ em trai của Tân bảo lãnh “Quy- Mã”.
 
Căn nhà đơn sơ chỉ có hai phòng ngủ nhỏ hẹp. Hai đứa con trai của Tân- Yến  vừa đi làm vừa đi học xa nhà, nên các cháu share phòng ở với một gia đình khác cách đó khoảng 100 miles. Yến giục tôi:
- Anh đi tắm rửa rồi ăn cơm với tụi em.
 
Trên bàn cơm, tôi chỉ thấy một đĩa đuông dừa xào, một tô canh rau nhút, và hai khứa cá trê biển kho tộ, hai cái chén, hai đôi đũa. Tôi ngạc nhiên hỏi:
- Sao dọn chỉ có 2 cái chén ăn cơm? Yến vội trả lời:
- Phần này là của tụi em, còn của anh là cái khác …!
 
Tân đứng dậy, mở closet lấy ra một gói giấy rồi từ tốn mở ra, bên trong là một hộp giấy cứng để trước mặt tôi…là một phần lương khô cá nhân của Quân Đội Mỹ “chính nó” Ration C…!!! Tôi quá ư là ngạc nhiên và xúc động bội phần, tâm thần như  bị hụt hẩng… và cả ba chúng tôi không ai mở miệng nói được một lời nào, nghẹn ngào trong nỗi niềm chợt buồn vui lẫn lộn như muốn khóc “nói chi cũng bằng thừa”…! Trên bàn ăn Yến hai tay chống cằm cứ nhìn tôi thương cảm và không màng chi ăn uống...! Tôi bỗng “dở hơi” lúng túng vụng về như gả khờ khạo vì trên “đưòng chiến chinh” lì lợm ít khi “bị” rơi vào trạng huống “thương nữ tái hiệp anh hùng bèn sầu bi tích lệ” …!
 
- Vợ chồng em ăn cơm đi...”tôi” cũng ăn. Yến nhanh nhẩu:
- Ăn sao được mà ăn… vì tụi em mừng quá khi gặp lại anh còn tưởng chừng như một giấc mơ! Anh biết không, khi em nghe anh ra lệnh đem tụi em ra xa bắn bỏ, em nghĩ số mạng  mình đã kết thúc, với hai tay bị trói chặt, mắt bị bịt che kín, thân mình bị đè sấp xuống đám lau sậy…Bỗng ba bốn tràng đạn nổ muốn xé  rách màng nhĩ, hồn phi, phách tán bay bổng lên mây, rồi lại nghe văng vẳng tiếng của ai đó nói:” cởi trói cho cô này thôi “! Rồi tiếng chân của “tử thần” xa dần…chỉ còn lại tiếng khóc thổn thức của ba đứa em mà thôi…! Chị Hanh được cởi trói vì khỏe mạnh và lớn con hơn hai đứa em, rồi chị ấy lần lượt cởi trói cho em và Ánh…hoàn hồn và mừng rỡ vì biết mình còn sống, chúng em vội vàng lội qua sông Bé tìm về được đơn vị của mình trong khi ba hộp lương khô Racion C vẫn còn trong bịt nylon dắt theo bên mình. Từ sau đó, “tư duy” của em dần… dần thay đổi rồi  tự hỏi người “Lính Ngụy” có thật đánh thuê cho Mỹ và có ác ôn hiếp dâm phụ nữ, bắn giết dân hiền lành, lương thiện như những gì mà em đã bị “chúng nó” tuyên truyền nhồi nhét vào đầu óc từ bấy lâu nay không …?.
 
 Tôi chợt nhớ tới những binh sĩ dưới quyền đã thi hành “lệnh bắn bỏ” 3 cô y tá cán bộ VC trong Chiến Khu D, bèn hỏi Yến:
- Cô có biết những người Lính thi hành lệnh bắn bỏ các cô bây giờ ra sao không?
- Dạ không.
- Họ đã chết trận hết cả rồi!
 
Đôi mắt Yến khép nhẹ, tâm hồn như chùng xuống, tôi thấy lóng lánh ánh mắt hình như có giọt lệ ngàn phương đọng ở khoé mắt, Yến cố che giấu nỗi xúc động, nén bi thương  bằng cách cầm đũa lùa vội một vài miếng cơm ăn thẩn thờ, đôi mắt cố nhìn xuống bàn để tránh không bật ra tiếng khóc…! Tôi đánh trống lãng, xoay qua hỏi Tân về chuyện làm ăn sinh sống. Từ ngày về thành phố ngoại ô Boston này, nhờ người bạn giúp đở, Tân đi làm thợ tiện, Yến làm y tá bán thời gian cho một văn phòng bác sĩ người Việt, cuộc sống ổn định mặc dù còn nhiều vất vả… Trong suốt thời gian này rất nhiều tên đặc tình (tình báo dân vận) Việt Cộng  liên lạc, đề nghị sẽ cung cấp tiền bạc, phương tiện để cho Yến tái hoạt động lại cho chúng, nhưng Yến dứt khoát từ chối không hợp tác với bọn quỉ đỏ này nữa.
 
Tôi hỏi Tân:
 - Chú là cựu giáo sư văn chương lâu năm của Trường Trung Học Nguyễn Đình Chiểu. Vậy chú nghĩ thế nào về buổi tao ngộ ngày hôm nay giữa tôi và vợ chú là hai người khác chuyến tuyến, tôi Quốc Gia và Yến Cộng Sản?
- Thưa anh,...Sau 1975 giữa hai “phe” Quốc Gia và Cộng Sản đã có một lằn ranh rõ rệt do “bên thắng cuộc” cao ngạo vạch ra, chúng qui định tất cả nhân sự Quân, Cán, Chính miền Nam là Nguỵ Quyền và toàn thể dân miền Nam là Nguỵ Dân. Cũng như anh, em đã chịu đựng trải qua nhiều đắng cay với chế độ mới, là một nhà giáo. mà chỉ biết cúi đầu nghe những lời thuyết giảng của bọn cán ngố, dốt đặc cán mai, “rao giảng” tà thuyết Marxism, Leninism như con vẹt cho đám học trò thơ dại, tuổi đời ăn chưa no lo chưa tới …là nỗi đau tra tấn tinh thần vô cùng…! Em cũng phải kham nhẫn để được còn có việc làm và tiêu chuẩn mua được nhu yếu phẩm để nuôi thân hèn mọn … và tiếp tế phụ giúp cho cha mẹ! Thời gian sau em gặp Yến, hai đứa yêu nhau rồi lấy nhau thành chồng vợ, Yến chân thật tâm sự với em những nỗi tủi nhục, gian truân của cả quảng đời lỡ bước lầm đường đi theo bầy quỉ đỏ vô thường giết hại dân lành, đốt phá quê hương…Nhưng cũng là do ở cảnh ngộ oan khiên, chẳng đặng đừng như cơn lốc cuốn Yến vào mà thôi, chứ bản chất Yến là thiếu nữ rất hiền hoà, lương thiện và mộc mạc quanh năm, suốt  tháng ngày sống bình dị với vườn cây lành, trái ngọt và tiếng hát vọng cổ, câu hò dọc theo nhánh sông Tiền, sông Hậu…

Hò…hơ…đèn Sàigòn ngọn xanh ngọn đỏ
Đèn Mỹ Tho ngọn tỏ ngọn lu
Anh dzìa học lấy chữ Tu
Chín trăng em đợi.. ơ …hò…
Chín trăng em đợi, mười thu em chờ…
 
Và:
Hò …lơ…quê em có hàng cau sai trái
Giồng trầu xanh lá nắng chiếu ngoài hiên
Nước Tiền Giang đưa anh tới nơi nầy…ơ…hò…
Để  em nhìn thấy, đêm ngày nhớ thư…ơ…ng…!
(HMU)

Trong đêm trời oi bức, khó dỗ giấc ngũ, Yến tâm sự là có ý muốn thoát ly ra khỏi bối cảnh rác rưởi dơ bẩn của chế độ mà Yến đang được ưu đãi. Yến không muốn thù hận những kẻ đã manh tâm hãm hại nàng, mặc dù Yến rất chán ghét và khinh bỉ bởi sự ngu dốt nguyên thuỷ đã hoá vôi mà thời gian chỉ làm đùn lên thêm nhiều lớp đầy đặc khô cứng …và thù hận chỉ làm thêm phiền não nữa mà thôi, chi bằng tìm phương kế để vượt thoát ra khỏi “nhà tù lớn” nầy mới là thực tế. Tôi lại nhắc Tân:
- Chú ăn tiếp đi...kẻo thức ăn nguội lạnh hết! Tôi thấy Yến thỉnh thoảng lại chăm chú nhìn tôi như quan sát để xem cảm xúc tình cảm của tôi chăng? Yến buông đôi đũa và nói tiếp lời chồng:
- Anh biết không…? Khi anh báo tin lên thăm tụi em, em nói Tân đi tìm một món quà đặc biệt  có ý nghĩa để tặng anh, Tân tìm tới Army Surplus Store hỏi order mua và chờ vài ngày sau mới có được hộp Ration C này, vì trước đó hai vợ chồng em cứ bàn mãi không biết anh thích món gì, cuối cùng em chợt nghĩ ra ý tưởng ngộ nghỉnh này và em gọi “nó” là: “còn một chút gì để nhớ thương”! Tôi đặt chén đũa xuống bàn và đứng lên:
- Tôi xin phép vào phòng một chút sẽ trở ra ngay, cô chú cứ tiếp tục ăn cơm! Rồi đi vội vào phòng mở túi xách lấy ra hai món quà cho Tân và Yến mà trước khi đi vợ tôi đã gói bọc cẩn thận. Trở ra bàn ăn, tôi nói và phân chia quà tặng:
- Anh và Chị có chút quà mọn để thân tặng đôi vợ chồng em.
 
Tân mở chiếc hộp là một cặp viết Parker với lời cám ơn, Yến tháo gỡ từng sợi dây đỏ cột ngoài Box ồi từ từ mở nắp, quà đặc biệt tôi tặng cho Yến là một Chiếc Xe Xích Lô thủ công.  Yến có vẻ bồi hồi, ánh mắt rưng rưng rồi không thể dằn cơn xúc động dâng tràn, Yến bật lên tiếng khóc vội xô ghế đứng dậy, chạy nhanh vào bếp cố bụm miệng để kìm hãm bớt tiếng nức nở sụt sùi…! Tôi với Tân ngồi yên hoá đá như hai pho tượng, tâm tư cũng có nhiều nỗi bi luỵ và  cảm thông với tâm tình “một trời kỷ niệm” chẳng hề phai mờ trong tâm hồn vốn mang nặng ân tình cũng là cõi lòng riêng tư mà Yến đã trải qua …!

Có Trời Mà Cũng Có Ta?:
Tôi lưu lại hai đêm, ba ngày ở nhà vợ chồng Yến- Tân, cả hai vẫn đi làm như thường ngày, nhưng Yến làm partime nên có thì giờ ở nhà nhiều hơn. Tôi bước ra sau hiên nhà hút thuốc, Yến ra đứng cạnh bên và thân tình như huynh muội, nàng ôm lấy cánh tay và ngước nhìn mái tóc trắng bạc của tôi rồi nói nhỏ:
- Anh xem kìa,… tóc anh có khác gì những mãnh tuyết còn đang đọng ngoài kia…! Còn em tựa như cành cây khô trụi lá sau mùa đông tàn tạ vì cảnh ngộ và tuổi đời …! Anh đã không cần chiêu hồi em? Nhưng qua những ngày tháng biết anh trong cảnh đời trong héo ngoài tươi, kham nhẫn khổ cực đạp xích lô đưa đón em đi làm, em cảm nhận có một cái gì đó nơi anh mà em chưa hiểu thấu…? Em xét lại bản thân, suy nghĩ và so sánh sự khác biệt giữa người Quốc Gia và Cộng Sản…rồi “ngộ” ra  và đi đến tự thay đổi toàn diện là ly khai với  bọn “nằm mộng giữa ban ngày”, và sau cùng xem như ơn trên không bỏ rơi người lành nên em và Tân cùng con cái được định cư và sống cuộc đời hạnh phúc trên đất nước Mỹ nầy như ân huệ trời ban cho những kẻ có Tâm kỳ vọng và sống hướng thượng tới sự tốt đẹp hiền hoà…! Đêm hôm qua em không ngủ được, cứ nhìn chầm chặp chiếc xe xính lô để trên đầu giường và nghĩ đến thân phận nổi trôi theo vận nước của anh và chạnh lòng rồi tự hỏi: có biết bao những  chiến sĩ trong quân đội miền Nam cũng đã có cùng sự chịu đựng oan nghiệt và giữ được nghị lực phấn đấu như anh …? Em rất trân trọng và hâm mộ các Anh và biết rằng sở dĩ Quê Hương Việt Nam còn được tồn tại mãi cho tới ngày hôm nay là vì Dân Tộc Việt là một Nòi Tình có bản chất Nhân Ái làm gốc, sống triệt để Hướng Thượng, Kiên Cường Kham Nhẫn, và Quật Khởi… luôn đấu tranh để được sinh tồn, tiếp nối và tiến hoá …!!!
 
Tôi rất vui biểu đồng tình và đưa tay vỗ về nhẹ bờ vai gầy guộc của Yến, rồi ngước  nhìn xa xa vào khoảng trời mông lung có những đám mây như cô đọng lững lờ, một vài vạt nắng vàng yếu ớt không đủ xua tan tiết trời giá lạnh mùa đông…Nhưng trong tâm tư của tôi đang nhen nhóm bếp lửa ấm lan toả thâm tình an nhiên và hạnh phúc…! Bất chợt tôi có ý nghĩ ngộ nghỉnh: từ vật là khẩu phần Racion C và chiếc xe xích lô làm Duyên mà Tôi và Yến đã vượt qua chiến tuyến thù hận Quốc Gia và Cộng Sản, kinh qua bao cảnh ngộ oan nghiệt của dòng đời, chúng tôi như “cùng một lứa bên trời lận đận” giữ được lòng nhân lương thiện làm gốc Đạo làm Người…để rồi gặp lại nhau đây là một Nghiệp tốt? Cám ơn Thượng Đế chăng? Vượt ngoài tầm hiểu biết hạn hẹp của trí óc phàm phu và cũng đã vội tố cáo sự dốt nát và căn tính giảo hoạt khi lắm lời lẻo mép, dụng ngôn từ bất tận lý rao giảng thế giới vô cùng…! Thượng Đế ôi,…Ngài đã là món hàng độc, đẹp, muôn màu sắc lung linh ảnh hiện trong trí óc mù mờ của nhân loại mà tự ngàn xưa cho đến ngàn sau có lẽ vẫn còn hữu dụng cho bọn con buôn tôn giáo, lý giảng huê dạng để tranh nhau thu đoạt lợi lộc của cải thế gian…?!!!

Chúng ta từ đâu đến cuộc đời nầy?
Như loài trùng hoang thiếu cánh
Bưới móc kiếm ăn trong niềm vinh nỗi nhục…
Bước đi cô liêu như khách dạ hành cô độc
Tìm được gì, năm tháng rớt quanh đây?
Buổi chiều nhìn nắng vàng qua cửa
Phút thanh xuân thoáng đã tà huy
Tiếng chim kêu từ cuối vườn ai đó
Thoảng hư không như báo triệu điềm gì?
(M ĐTTA)

Thời hà Phương:

Nhược đãi Ưng lai Sư Tử thướng
Tứ phương thiên hạ thái bình phong.

Hay:

Long xà an sở ngộ
Chu ngũ phục viên tuyền.
 
(Sấm Ký - Nguyễn Bỉnh Khiêm)

Vâng, …không có một sự việc gì xảy ra trên  cuộc đời nầy mà không có nguyên nhân? Duyên khởi - Nghiệp báo cũng là gieo Nhân và gặt Quả. Chúng tôi những ngưòi lính trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà thực sự cầm súng tự vệ, chiến đấu để giữ an bình cho toàn thể dân chúng và phần lãnh thổ, biển đảo miền Nam Việt Nam chiếu theo Hiệp Định Geneva 1954. Suốt 21 năm trong cuộc chiến Quốc - Cộng, chúng tôi  chưa hề  bắn một phát đạn nào qua vĩ tuyến 17 (cầu Bến Hải) để giết hại đồng bào miền Bắc thân yêu. Trong nền tảng giáo dục “Tiên học Lễ - Hậu học Văn” từ thuở tiểu học cho tới đại học, chúng tôi chưa từng phải học kiểu tuyên truyền nhồi sọ để huân tập ác tính, háo sát như: “ Có 10 tên giặc Mỹ xâm lược vào làng, chú bộ đội ta bắn chết 9 tên, vậy còn lại mấy tên “? Từ trong Ý niệm nhân ác, nghiệp quả xấu đã trổ sinh…Vậy thử hỏi “cái” tương lai từ “thành quả” cướp của, giết người suốt từ trước 1954 mãi cho đến ngày nay, thu đoạt biết bao nhiêu tích sản cũng là bấy nhiêu máu xương người đồng chủng, thì nước đại dương có rửa sạch tội lỗi mà hý loạn cương thường chăng? Những ai gieo gió, ắt sẽ gặt bão, lịch sử thế giới đã chứng minh như thế. Chúng tôi và Yến là những người nhân hậu cho dù quá khứ là kẻ thù, tìm nhau từ những con sông sâu, bờ lau sậy cạn dòng chí cho tới ruộng vườn, núi non, rừng rú hiểm trở để mà bắn giết nhau vì địa lý chính trị giới hạn vùng sinh sống, cư trú và ý thức hệ Quốc - Cộng…Nhưng chỉ là thế chẳng đặng đừng, thực chất chúng tôi là Người với nhiều yếu tố nhân phẩm làm khuôn mẩu tốt đẹp đúng nghĩa làm Người…do vậy “Trời” cao không phụ hiền nhân,đã đãi ngộ cho chúng tôi được sống an bình, hạnh phúc nơi trú xứ thích hợp Mỹ Quốc có nhiều điều kiện tốt, để còn đóng góp trí lực báo ân nơi đã cưu mang mình và hướng về đồng bào trong nước mưu sự buổi Bình Minh trên Quê Hương thanh bình.

Bình Minh tới Bình Minh sẽ tới
Tôi mong lắm tiếng gì như tiếng ầm vang của biển
Đồng Bào tôi cũng mong như thế
Và hình như tiếng ấy đã bắt đầu…?
 
Hoa Tự Do (Bút Sinh Hoa):
30 tháng 4 năm 2015 năm nay nữa đã là 40 năm chẳn kể từ ngày nước Mỹ mở rộng vòng tay nhân ái, đón và cưu mang tập thể Người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản. Cộng Đồng Người Việt thành hình và Cuộc Chiến Quốc - Cộng vẫn còn đang tiếp diễn cho dù đã không còn tiếng súng nổ vang rền…!!! Nhưng từ buổi đầu bở ngỡ còn đang lo sinh k ế gia đình, báo chí Việt Ngữ đã xuất bản, “Nền” Văn Chương Người Việt Tự Do Hải Ngoại và Lịch Sử Ngàn Người Viết đã thành hình với những tên tuổi Nhà Văn thành danh mới lạ, họ chưa từng viết Văn trước 1975 và không có tham dự những Sinh Hoạt Văn Học rất sáo ngữ, rất rỗng do những “tay” viết quen ngồi chễm chệ trên chiếu lớn “văng học” mà bả óc thì rất nhỏ, chúng  thường quen thói mặc áo thụng vái lạy nhau rất phường tuồng, sở trường loại “văn” không tư tưởng nhạt phèo… “Lớp” Nhà Văn mới nhập cuộc “chơi” thật, viết thật, văn tài thật và chuyện thật, người thật… vì chính họ là nạn nhân và cũng là chứng nhân…Họ đã viết bằng tất cả tim óc, máu và nước mắt, tâm hồn… và đốt Lửa đấu tranh giữ vững “bên” nầy trận tuyến không khoan nhượng với kẻ thù Cộng Sản bên kia chuyến tuyến…Bút thép đã nở Hoa, Hoa Tự Do vô giá, chiến đấu kiên cường máu phun đẫm mới đơm bông.
 
Mũ Đỏ Út Bạch Lan