Tuesday, August 23, 2022

Viết về người Lính Địa Phương Quân

 

Trước nay tôi rất ít khi viết về đời lính. Thứ nhất, vì không tránh được cái tôi (đáng ghét). Thứ hai, vì tôi chỉ là lính con so (10 tháng quân trường, 8 tháng chiến trường), là cấp chỉ huy thấp nhất (Chuẩn úy) ở binh chủng "mạt" nhất (Địa Phương Quân), công trận chưa có gì để hãnh diện. Tôi vẫn nghĩ rằng, muốn viết về lính, tác giả nên là một Quân nhân có binh nghiệp lớn (cao cấp, thâm niên), xuất thân từ những Binh chủng oai hùng (Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Động Quân), vào sinh ra tử (Biệt Kích), bay bướm (Không Quân) hay pha chút lãng mạn (Hải Quân). Tác phẩm nên đề cập những mặt trận lớn (Hạ Lào, Bình long, Xuân lộc, Dakto), những địa điểm danh tiếng (Khe Sanh, Charlie).
Trong gần hai mươi năm ở hải ngoại, tôi đọc nhiều sách viết về người lính Việt Nam, biết thêm những chiến tích hào hùng, sự làm việc cần mẫn tận tụy và sự hi sinh anh dũng của nhiều chiến hữu lớp trước, với lòng ngưỡng phục và biết ơn tác giả. Tuy nhiên, bên cạnh đó, tôi vẫn thấy thiếu thiếu một cái gì nhỏ bé nhưng gần gũi và thân thuộc. Gần đây, đọc bài của Nguyễn Văn Thông trên Làng Văn số 166, tôi nhìn ra sự thiếu vắng ấỵ Đó là chưa có, hay hiếm có, sách vở viết về đời sống nhọc nhằn và sự hi sinh âm thầm của người lính Nghĩa Quân, Địa Phương Quân (mà họ chua chát gọi tắt là Nghĩa Địa).
Riêng tôi, trong mấy tháng ngắn ngủi ngoài chiến địa, tôi có đầy ắp kỷ niệm với họ, đã chứng kiến họ sống và chiến đấu, đã nhìn thấy họ dũng cảm hi sinh như những anh hùng. Nhân ngày 19 tháng 6, tôi xin ghi nhận sơ khởi một vài nét về sắc lính Địa Phương Quân mà tôi đã trực tiếp dự phần, như một cách bù đắp cho họ trong muôn một. Mong rằng bài viết này sẽ là một gợi ý nhỏ bé để có thêm nhiều người khác cùng viết, giúp điểm xuyết cho bức tranh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) được đầy đủ hơn.
Như trên đã nói, kiến thức quân sự của tôi chỉ là những gì thu thập được ở quân trường, và qua thực tế hạn hẹp của một đơn vị nhỏ ở một tỉnh. Tôi ước mong đón nhận những ý kiến xây dựng, những chỉ bảo cần thiết để bổ túc, sửa chữa đoạn bài viết về sắc lính này...
Lần đầu tiên ra nhận đơn vị, đứng trước hàng quân, tôi hơi ngỡ ngàng. Trước mặt tôi là Trung Đội 1, Đại Đội 1, Tiểu Đoàn Bạch Hổ 401, chủ lực Địa Phương Quân thuộc Tiểu khu Kiến hòa, tập hợp ở một góc sân cờ ở trại gia binh, hậu cứ Tiểu đoàn. Trừ những người nghỉ bệnh, bị thương, đi phép, trễ phép, nằm quân lao, còn lại tất cả 16 người lính tuổi từ mười tám tới ngoài năm mươi và hai Hạ sĩ quan. Ai nấy mắt hơi lạc thần vì mệt mỏi, thân thể hầu hết gầy gò, quần áo rách rưới, tóc tai bờm xờm, có người râu dài lưa thưa, có người mặt mày dớn dác như sợ hãi, có người lầm lì dữ tợn.
Tôi đứng trước họ, có cảm tưởng đứng trước những "anh hùng" Lương Sơn Bạc, vừa hơi e dè, vừa hơi ngại ngùng và vừa hơi thất vọng. Họ cũng hơi thất vọng và phân vân. Sự phân vân trước một cấp chỉ huy trực tiếp mới ra trường, không một chút kinh nghiệm lãnh đạo chỉ huy và tác chiến. May mà năm đó tôi đã 22 tuổi tây, "già" hơn vài tuổi so với phần lớn các chuẩn úy mới ra trường. Trừ đầu tóc hớt ngắn và bộ quân phục còn khá mới với dấu alpha ở bâu và dấu hiệu "Cư An Tư Nguy" của Trường Bộ Binh Thủ Đức bên vaị. Mặt mày tôi cũng có vẻ phong sương chút chút nhờ nắng gió quân trường.
Một cách vắn tắt, tôi giới thiệu vài điều về tôi: gốc thầy giáo, tình nguyện nhập ngũ, tuổi tác, vợ con. Tôi yêu cầu họ lần lượt xưng tên, và tôi bắt tay từng ngườị. Tay họ phần lớn chai sạn và khô như củị. Có người nắm chặt tay tôi như sắp sửa đấu vật, có người đưa tay cho tôi nắm. Mắt họ nhìn vào khoảng không hay nhìn xuống đất. Có người cười cười, nụ cười lợt lạt, có người mím chặt môi như bị tra tấn.
Tôi nói với họ vài điều sơ sài về tình hình đất nước, Hiệp Định Đình Chiến Paris đã ký, về ngưng bắn tại chỗ, ngưng bắn da beo, về việc Cộng sản Bắc Việt (CSBV) và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (MTGPMN) vi phạm lệnh ngưng bắn hàng ngày, luôn luôn giành dân lấn đất để mong chiếm ưu thế nông thôn, lấy nông thôn bao vây thành thị...
Gió chiều hiu hắt thổi, tôi thấy những chiến hữu của tôi lim dim chống lại cơn buồn ngủ. Tôi biết họ không quan tâm những điều tôi nóị. Là quân nhân, họ chờ lệnh, tuân lệnh và thi hành lệnh. Đối tượng của họ là Việt Cộng (VC). Đời họ là sự tiếp nối của những cuộc hành quân càn quét, truy kích, đột kích, giải vây, tiếp tế đồn bót, giữ cầu, giữ đường. Họ không cần biết những chuyện cao xa hơn lệnh lạc trực tiếp: tập hợp, tan hàng, cấm trại hay xả trại, nếu xả trại thì được đi bao lâu, một ngày hai ngày, nếu cấm trại thì có thể chui rào trốn ra trong mấy giờ?
Tôi không phải là sĩ quan Chiến Tranh Chính Trị, tôi là sĩ quan tác chiến, tôi không nên bắt họ nghe chuyện chính trị, mà nên cho họ tan hàng, nghỉ ngơi hay vui chơi trong khi chờ lệnh hành quân. Tôi hiểụ Tôi vắn tắt hơn, yêu cầu họ thực lòng hợp tác với tôi trong những ngày sắp tới, hãy coi tôi như anh em, giúp đỡ lẫn nhaụ. Tôi nhắc họ giữ đúng quân kỷ, thi hành lệnh một cách đầy đủ và nghiêm chỉnh. Tôi tiết lộ cho họ biết tôi từng là Sinh Viên Sĩ Quan (SVSQ) Kỷ Luật Đại Đội ở quân trường, tôi từng... hét ra lửa và họ có thể kiểm chứng điều này với mấy ông chuẩn úy học cùng đại đội với tôi ở quân trường và nay cùng về đơn vị với tôị. Vài phút sau khi tan hàng, một ông lính tới bá vai tôi, cười cười:
Tôi thấy ông hiền quá, đúng là thầy giáo, chắc ông không chỉ huy được đâu!
Đó là những giây phút đầu của tôi ở một đơn vị Địa Phương Quân.
Sự thất vọng của tôi qua mau khi tôi sống với họ qua một vài ngày ngoài chiến trường. Sự già dặn của họ về kinh nghiệm chiến đấu, sự gan dạ của họ khi đối diện với địch quân và nhất là sự chịu đựng của họ trước nghịch cảnh khiến tôi cảm thấy nhỏ bé và non dại trước họ hơn bao giờ hết. Mặc cảm này cũng phôi pha nhanh trong tôi, một phần nhờ sự độ lượng và tinh thần đồng đội của họ.
Họ sung sướng chỉ cho tôi cách chạy qua một cái cầu khỉ cong queo, không tay vịn, gập ghềnh có khi dài mười mấy thước và ghê gớm hơn hết là nhớp nháp bùn sình, trơn như thoa mỡ. Họ nhắc cho tôi khi nào phải bắt đầu nấu nước sôi ngâm bọc gạo sấy để nó kịp nở trước khi ăn.
Thấy tôi lóng cóng nhóm lửa theo kiểu hướng đạo sinh, họ mỉm cười sẻ cho tôi một ít nước sôị Thấy tôi ăn cơm với muối vừng, họ mời tôi những thức tươi nóng mà họ tìm được đâu đó trong lúc di chuyển. Họ chỉ cho tôi những dấu vết tình nghi của mìn bẫy, trái nổ Việt Cộng (VC) cài khắp nơi trong vườn tược, chỗ lên mương xuống mương, bếp núc, cầu đường. Tôi đã học kỹ điều này trong quân trường, nhưng thực tế ngoài chiến trường còn phong phú và phức tạp gấp trăm lần.
Họ bày cho tôi cách căng võng sao cho khỏi sương mưa, tránh bớt đường đạn bắn sẻ, tránh tầm lựu đạn. Họ dạy cho tôi khi ngủ súng ống, dây mang đạn để đâu; khi ngủ lúc nào thì phải bỏ võng nhảy xuống hố cá nhân sũng nước, khi nào thì cứ tỉnh bơ dù nghe tiếng "đề pa" của súng cối Việt Cộng. Họ bày cho tôi cách giữ súng cho khỏi hóc, khỏi ướt khi qua sông, qua suốị. Họ truyền kinh nghiệm tháo súng chùi súng cấp thời ngoài chiến trường, để khi cần, có thể ráp lại được trong vòng 15 giây.
Họ hướng dẫn cho tôi cả cách... đi đại tiện sao cho an toàn, tránh gây hôi thối chỗ đóng quân mà không phải đi xa ra ngoài vọng gác, vừa nguy hiểm vừa làm lộ vị trí đóng quân. Họ biết đủ thứ, hơn tôi đủ thứ và sung sướng dạy bảo tôi về mọi thứ! Tôi chỉ hơn họ có mỗi cái bằng trung đội trưởng, cái bản đồ kèm phóng đồ hành quân và cái máy truyền tin để nhận lệnh từ thượng cấp.
Họ thường ngập ngừng hỏi tôi với sự nể nang:
- Còn bao xa nữa Chuẩn úy?
- Liệu tối nay mình ngủ đâu Chuẩn úy?
- Chừng bao lâu thì mình bắt tay được cánh quân bạn?
- Liệu đụng lớn không?
Tất nhiên đó là những câu hỏi thuộc bí mật quân sự, tôi chỉ có thể trả lời lơ mơ rằng: "gần tới rồi," "còn xa," "chưa biết," "có thể lắm!" v.v. Các chiến hữu của tôi chỉ chấp nhận tôi hoàn toàn sau hai tháng hành quân, khi thấy tôi định điểm đứng chính xác, điều chỉnh tác xạ cho pháo binh một cách hữu hiệu, không sợ sệt khi nghe Việt Cộng hô xung phong cả ba mặt, và còn cười đùa được khi dàn hàng ngang trên tuyến xung phong. Họ chấp nhận vị trí đóng quân do tôi định, đào hầm hố đúng chỗ tôi bảo và khi trung đội đi tiền đồn, cách xa đơn vị lớn có khi hàng cây số, họ tỏ ra yên tâm.
Tôi đã thực sự vào đời lính, hãnh diện trở thành một Địa Phương Quân khi các chiến hữu của tôi không còn gọi tôi là "chim uyên" (ngụy thoại của Chuẩn úy), mà đổi thành "thẩm quyền", một danh từ riêng có tính cách nể nang hơn...
Địa Phương Quân, Lực Lượng Chủ Lực Tỉnh.
Tôi không ở một đơn vị tham mưu nên không biết gì về cách tổ chức Địa Phương Quân trên toàn quốc. Theo cách sắp xếp tiểu khu Kiến Hòa, nơi tôi phục vụ, mà suy đoán, thì mỗi tiểu khu có một số tiểu đoàn Địa Phương Quân (một số lưu động, một số đóng đồn). Ngoài ra có một Đại đội Trinh sát, tất cả do phòng 3 (Hành quân) của Tiểu Khu điều động. Đơn vị của tôi là Tiểu Đoàn Bạch Hổ 401, lực lượng chủ lực trong số 11 tiểu đoàn Địa Phương Quân thuộc tỉnh Kiến hòa, dưới quyền chỉ huy của Đại tá Kim, Tiểu Khu Trưởng, gốc Sư Đoàn 7.
Tất cả những gì tôi viết trong bài này, căn cứ vào cơ cấu tổ chức của đơn vị nơi tùng sự từ ngày ra trường đến ngày Tổng Thống Dương Văn Minh ra lệnh đầu hàng. Vì Địa Phương Quân trực thuộc các tiểu khu (tỉnh), nên tùy tình hình, phương tiện và nhân sự địa phương, cách tổ chức có thể được các tiểu khu linh động thay đổi nên khác nhau ít nhiềụ. Tiểu đoàn trưởng đầu tiên tôi làm việc với là Trung tá Sáng (sau khi tôi về đơn vị được vài tuần thì ông tử trận, được vinh thăng đại tá). Các tiểu đoàn trưởng kế tiếp cao nhất ở cấp thiếu tá, còn là đại úỵ. Chỉ trong tám tháng, đơn vị tôi thay tiểu đoàn trưởng tới bốn lần, một chết, một bị thương.
Mỗi tiểu đoàn có năm đại đội gồm bốn đại đội tác chiến và một đại đội chỉ huỵ. Mỗi đại đội có bốn trung đội, gồm một trung đội đại liên và ba trung đội vũ khí nhẹ. Quân số mỗi đại đội, trên cấp số là 108 người, nhưng trên thực tế có mặt ngoài chiến trường chỉ vào khoảng 50 ngườị. Số còn lại lớp nghỉ bệnh, lớp đi phép, lớp bị thương, lớp tử trận chưa kịp bổ sung (tôi không thấy có dấu hiệu lính ma, lính kiểng ở đơn vị tôi). Quân số hành quân của tiểu đoàn tôi trung bình khoảng 300, lúc thấp nhất dưới 200; nhưng so với một tiểu đoàn Việt Cộng thì đông gấp đôi.
Tôi không biết các tiểu đoàn Việt Cộng ở vùng I, vùng II đông cỡ nào, khi họ tới Vĩnh Bình, Kiến Hòa, thực lực của họ chỉ còn bấy nhiêu, vì rất khó bổ sung quân số hao hụt. Cho nên khi muốn bao vây tấn công tiểu đoàn tôi, như trận phục kích xe ở Trúc Giang, Trung Tá Sáng tử trận, Việt Cộng phải tập trung ít nhất hai trung đoàn.
Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn, ngoài tiểu đoàn trưởng, tiểu đoàn phó còn có các sĩ quan Ban 1 (Quân Số), Ban 2 (An Ninh), Ban 3 (Hành Quân), Ban 4 (Tiếp Liệu), Ban 5 (Chiến Tranh Chính Trị), Pháo Binh và Quân Ỵ. Trừ Ban 1, Ban 4 và Ban 5, các Ban khác đều đi theo đơn vị khi hành quân. Đó là cách tổ chức của đơn vị tôi, các tiểu đoàn khác có thể không được hùng hậu như vậy.
Tôi không thấy đơn vị tôi có ban Truyền Tin riêng, nhưng máy PRC-25 được trang bị đầy đủ, do chính các binh sĩ trong tiểu đoàn đảm trách. Tiểu đoàn trưởng có hai hiệu thính viên đi theo, một máy liên lạc với Tiểu Khu, Chi Khu và đơn vị bạn. Một máy liên lạc 5 đại đội và tiểu đoàn phó (đi theo đại đội trực nhật). Mỗi đại đội trưởng cũng có hai hiệu thính viên, một liên lạc với tiểu đoàn trưởng, tiểu đoàn phó cùng các đại đội bạn, và một liên lạc với các trung độị. Mỗi trung đội trưởng chỉ có một hiệu thính viên để liên lạc với đại độị. Đại đội phó không có máy riêng, mà dùng máy của trung đội trực nhật.
Trong Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn có sĩ quan Trợ Y, thuộc cấp số đơn vị, có đơn vị gia cư trong hậu cứ. Mỗi đại đội có một hạ sĩ quan làm y tá đại đội. Sĩ quan Pháo Binh không thuộc cấp số đơn vị, chỉ khi nào tiểu đoàn đi hành quân, sĩ quan Pháo Binh mới có mặt. Hành quân xong, ông ta trở về căn cứ Pháo Binh. Sĩ quan Pháo Binh có hiệu thính viên riêng để liên lạc trực tiếp với Pháo Binh yểm trợ. Trong trường hợp cần Không yểm, tiểu đoàn phải liên lạc qua tiểu khu, và tiểu khu liên lạc với căn cứ Không Quân Cần Thơ.
Mỗi tiểu khu có một số tiểu đoàn lưu động, một số có hậu cứ, số còn lại sau những ngày hành quân, kéo ra đóng dài theo các trục lộ, vừa dưỡng quân vừa giữ an ninh khu vực. Các tiểu đoàn cố định khác chịu trách nhiệm hẳn một vùng, coi đồn, giữ cầu đường hay đóng chốt trên các trục chuyển quân của Việt Cộng. Tôi sẽ đề cập nhiệm vụ đóng chốt ở phần sau, phần này trình bày về các đơn vị lưu động.
Gọi là "lưu động" vì các tiểu đoàn này không chịu trách nhiệm một quận hạt nào, mà cần đâu đánh đó, bao tất cả các quận trong tỉnh, kể cả Trúc Giang, Bình Đại, Ba Tri, Giồng Trôm, Mỏ Cày, Hàm Long, Thạnh Phú, Hương Mỹ... Mỗi cuộc hành quân của đơn vị ngắn là ba ngày, lâu nhất có khi hàng sáu tuần. Giữa hai cuộc hành quân, đơn vị được về hậu cứ nghỉ ngơi vài ngàỵ. Ở hậu cứ có trại gia binh, quân nhân có vợ con mỗi người được một đơn vị gia cư tường gạch, nền đất, lợp tôn. Quân nhân độc thân sống chung với nhau trong một khu. Trong hậu cứ có quán bi da, quán nhậu, tiệm tạp hóa.
Đơn vị nào có trại gia binh, binh lính được dưỡng quân ở hậu cứ, "vù" về thăm nhà nửa buổi, một ngày; hay chơi với vợ con trong trại, tụ họp nhậu nhẹt, tán dóc, chơi bi da giải trí, tu bổ, sửa chữa vũ khí trong khi chờ lệnh hành quân. Thương cho những tiểu đoàn lưu động không hậu cứ. Sau mỗi cuộc hành quân, họ đóng vất vưởng dọc theo các trục lộ giao thông, vừa dưỡng quân vừa giữ đường sá.
Mỗi lần lính kéo ra là một đạo binh thân nhân từ đâu phục sẵn, kéo tới đông nghịt, phần lớn là các bà vợ trẻ đèo theo con mọn. Họ đi bằng xe đò, xe lam, xe lôi và nhất là xe "ôm". Họ mang theo gạo sấy, cá khô và muối ớt, muối sả cho chồng. Đôi khi họ nhận lại và mang về một ít gạo trắng, thuốc men và cả thức ăn tươi, nếu đơn vị của chồng họ vừa hành quân qua vùng hậu cần của Việt Cộng.
Vào những ngày đầu tháng, đạo binh vợ lính càng xuất hiện đông đảo cùng lúc với xe tiếp tế và phát lương. Không biết các bà nhận "tin tình báo" từ đâu mà nhiều khi tiểu đoàn vừa kéo ra đường, đã thấy các bà chực sẵn hàng nửa ngày! Các bà phải tới để bảo vệ đồng lương lính còm cõi, mang về nuôi con. Nếu không, chỉ trong vài buổi, các ông có thể nướng sạch. Chỉ cần với một bộ bài cũ rách sờn nát, họp sòng vội vã và lén lút ở một góc sân kín đáo nào đó, tránh sự giám thị của sĩ quan, thế là tiêu tán hết. Dù bám sát như vậy, không một buổi phát lương nào vắng nước mắt của các bà. Hoặc họ tới trễ một chút, hết sạch. Hoặc họ đến sớm, đến trước cả xe phát lương, kết quả vẫn không có gì, khi các anh chồng mặt nghệt ra, gãi đầu gãi tai phân bua: phải trả những đầu nợ ấp lẫm do tiền rượu, nợ cờ bạc...
Thăm nuôi chồng tại các vị trí đóng quân cũng là cách bảo vệ mái ấm gia đình. Nhiều ông lính rất tài về chuyện kiếm bồ lẻ. Đóng yên chỗ chừng nửa ngày là họ đã bắt bồ xong. Và sau vài ba ngày nhổ trại lên đường, đã có người giọt vắn giọt dài quyến luyến tiễn đưạ. Các bà vợ trẻ vì thế càng phải tới chỗ dừng quân để vừa giữ chồng, vừa nhóm chút hương lửa trong đời sống vợ chồng.
Cấp chỉ huy bao giờ cũng để cho các ông lính có vợ con tới thăm sự thoải mái tối đa: một góc nhà, góc vườn kín đáo; được gác đầu hay gác cuối, có khi miễn gác; không bị rầy rà khi phạm những lỗi nhỏ, v.v. Nhìn các cậu có vợ tới thăm nuôi trông rất buồn cườị. Mặt họ ửng đỏ, miệng cười chúm chím, đi đứng ăn nói lóng cóng như chú rể mớị. Cấp chỉ huy mỗi khi chạm mặt họ, mỉm cười chia sẻ những nụ cười hiếm hoi trong đời lính và họ rất sung sướng.
Trong đạo binh vợ lính ở đơn vị tôi, có hai bà rất lạ kỳ. Một bà còn trẻ, hễ chui vào mùng với chồng chừng vài phút là rú lên cười ngằn ngặt không nín nổị. Trong không khí thanh vắng ở đồng quê, tiếng cười của bà ta vọng đi rất xa, khiến cả đại đội phải khúc khích cười theo không tài nào nhịn được.
Khi bà vợ trẻ biểu diễn tiếng cười lần thứ hai lúc nửa đêm, người lính gác phải lên tiếng tằng hắng nhiều lần, anh chồng mới thò tay bịt miệng vợ, tiếng cười trở thành tiếng âm ư, bứt rứt. Gần sáng, lại nghe cười! Sáng hôm sau anh chồng thế nào cũng bị trêu chọc cho tới khi anh ta đổ cộc mới thôi, và bà vợ mặt mày đỏ lơ đỏ lưỡng, ngồi chết một góc sân không dám nhìn aị. May mà cả đơn vị chỉ có một bà như vậy và cũng không hại gì, chỉ lưu lại kỷ niệm vui vui mỗi khi nhớ tới.
Một bà vợ lính khác lớn tuổi hơn, khi ngủ say thì ngáy khủng khiếp. Tiếng ngáy của bà vừa to, vừa dài hơi, vừa giống hệt như tiếng chó tru. Ở vùng đóng quân, tiếng ngáy của bà khiến chó trong xóm sợ hãi tru theo và dân làng một phen bở víạ. Ở trại gia binh, tiếng bà ngáy vọng ra xa hàng chục dãy nhà và hàng xóm phải lâu lắm mới làm quen nổi và chịu đựng. Đêm đầu tiên ngủ trong trại gia binh, nghe bà ta ngáy, tôi tưởng là tiếng chó dại tru, suốt đêm trằn trọc không cách nào ngủ được, khó chịu quá phải bò dậy xách súng đi lùng. Một người lính tuần phòng nội doanh trông thấy dáng điệu của tôi, anh ta hiểu ngay, gọi tôi lại chỉ trỏ giải thích. Tôi ôm súng trở lại chỗ ngủ, và lạ lùng thay, vài phút sau tôi đã ngủ ngon lành! Cho tới bây giờ, chúng tôi, những người từng sống trong hậu cứ Tiểu Đoàn Bạch Hổ 401, kể cả Nguyên Hương, chưa ai quên tiếng ngáy độc nhất vô nhị của người đàn bà đó.
Dưỡng quân ở hậu cứ bao giờ cũng yên ổn hơn, dù doanh trại lúc nào cũng ồn ào như họp chợ từ khi đơn vị hành quân về tới cho đến khi chiếc quân xa cuối cùng rời trại, mang họ vào một chuyến đi khác. Sống trong trại chỉ khổ nhất khi đơn vị có người chết trận, và thân nhân người chết sống trong trạị. May mà những tiếng than khóc, vật vả ấy không kéo dài lâụ. Thân nhân người quá cố được xe đón ra Chung sự vụ ở tiểu khu, nơi quàn xác và hoàn tất việc chôn cất các chiến sĩ trận vong.
Tuy nhiên, những phút giây ngắn ngủi ấy đã để lại trong tôi những cảm xúc khó quên, như cái chết của anh Lâm, Trung Sĩ Ị
Lâm gốc Biệt Kích Thám Báo, sau về Tổng Tham Mưu, cuối cùng không hiểu sao lại về Địa Phương Quân, làm trung đội phó cho tôị. Anh Lâm nhỏ người, nhỏ tiếng, ít cười, lúc nào cũng buồn buồn. Lâm có vợ, vợ chồng anh có một con nhỏ và đang chờ đứa thứ hai, đang bầu bảy tám tháng gì đó. Anh đánh giặc rất giỏi, nhiều kinh nghiệm hành quân và bố trí phòng thủ.
Mỗi chiều dừng quân, tôi bàn bạc với anh về cách sắp xếp hầm hố nếu ý anh khác tôi, anh giải thích cặn kẽ, thấy hợp lý, bao giờ tôi cũng nghe anh. Hố của anh bao giờ cũng ở vào chỗ nguy hiểm nhất và gần một vọng gác. Ban đêm anh tự đảm nhiệm phần đốc canh, bảo vì mắc tật khó ngủ. Lâm chỉ lay tôi dậy khi cảm thấy có chuyện gì bất tường, còn thì cứ để tôi ngủ thẳng giấc, anh làm việc với các tiểu đội trưởng, thay phiên nhau kiểm soát lính gác. Khi trung đội tới phiên trực, dẫn đầu một cánh quân tiến về phía địch, anh Lâm bao giờ cũng đi trước. Anh dẫn lính đi rất đúng hướng và nhanh vừa phải, phía sau không bị đứt quãng hay dồn ứ lại.
Mỗi khi chạm địch, tôi vừa lên tới nơi, anh đã bố trí xong đội hình tác chiến. Anh Lâm dũng cảm nhất ở những trận chống đột kích ban đêm. Cách bố trí của Lâm và lệnh "hầm chắc hố sâu" của tôi khiến trung đội đủ sức chịu đựng những cuộc quần thảo với Việt Cộng hầu như suốt đêm. Lâm giữ chặt liên lạc với các hố. Giữa hai đợt xung phong của địch, anh bò nhanh một vòng để kiểm soát tình hình, san sẻ đạn dược và ủy lạo thương binh trong khi tôi bận báo cáo lên thượng cấp và trực tiếp liên lạc với sĩ quan pháo binh qua máy truyền tin. Anh Lâm là một chiến sĩ xuất sắc. Nếu được thưởng huy chương, tôi sẽ rất sung sướng đề cử anh thay đơn vị mà nhận...
Một lần, trước khi đơn vị hành quân, Lâm nói cho tôi biết là anh bị ho ra máu và muốn ở lại để vào Quân Y viện khám bệnh. Theo nội lệ của đơn vị, phép tắc do đại đội trưởng quyết định, tôi không dám tự chuyên. Cấp trên của tôi lúc đó là một ông trung úy rất thô lỗ và không thân với tôị. Lâm cho biết đã hỏi ông ta nhưng không được, anh quyết định trốn lại trại nhưng phải báo cho tôi biết để lo liệu cho anh em.
Tôi tin là anh đang đau ốm, và tôi cũng có thể khỏa lấp, che chở cho anh để đại đội trưởng không biết anh ở lại trạị. Nhưng nhìn vào phóng đồ hành quân, biết đơn vị sẽ đi vào một vùng đất cực kỳ nguy hiểm, tôi phân vân ra mặt, do dự không biết xử trí ra saọ. Anh Lâm kiên nhẫn chờ đợi, cuối cùng tôi cho anh biết tình hình, khuyên anh "cố gắng" và hứa sẽ cho anh theo xe tiếp tế để trở lại trại sau khi đơn vị hoàn thành công tác và kéo ra tới đường cái.
Anh Lâm chào tay, quay lưng đi và vài phút sau khi ra tới địa điểm tập hợp, tôi đã thấy anh đang có mặt với đầy đủ trang bị và đang kiểm soát đạn dược của từng binh sĩ. Chuyến hành quân đó, tôi đi cùng chiếc GMC cuối cùng.
Trông coi cho binh sĩ lên xe đầy đủ, tôi bấm Lâm:
Anh về nghỉ đi, chờ xe tiếp tế rồi theo vô, mọi chuyện để tôi lo!
Lâm cười nhanh:
Chuẩn úy đừng lo, tôi thấy đỡ rồị. Tôi sẽ theo xe tiếp tế mà về!
Hai ngày sau Lâm tử trận. Giữa cuộc hành quân, lúc đơn vị dừng quân ngồi nghỉ, anh trúng một tràng đạn bắn sẻ, hai viên chui vào cổ và buồng phổị. Lâm nằm ngửa, mắt mở hé chỉ thấy lòng trắng, miệng ngáp từng chập như cá lóc bị đập đầụ. Tôi thương cảm vuốt mắt anh, mắt tôi ráo hoảnh nhưng lòng như ứa máụ. Nửa phút sau, anh qua đờị. Hai người lính khiêng xác Lâm, bảo nhau chưa có xác nào nhẹ đến thế! Hôm sau, anh đã "theo xe tiếp tế mà về," đúng như lời đã bảo.
Đợt hành quân đó không thành công, địch kịp thời chuyển quân sang vùng khác, tiểu đoàn được lệnh về trại để bổ sung khí giới rồi lên đường hành quân ở một hướng khác. Xác anh Lâm về chung sự vụ và chúng tôi về hậu cứ. Tôi bắt gặp chị Lâm bụng cao vượt mặt, tay cầm nắm rau thơm, cười hớn hở:
Em mới xin được nắm rau tần dày lá! Canh chua mà thiếu rau tần, anh Lâm không thích!
Lòng tôi thắt lại, chết điếng. Ông thượng sĩ thường vụ đại đội chưa kịp báo tin cho chị. Trông thấy vẻ mặt bất thường của tôi, chị Lâm tái mặt, lấp bấp:
Anh Lâm... bị thương?
Tôi nhẹ giọng:
Anh Lâm chết rồi! Chị dắt cháu lên Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn. Tôi lo xe cho chị ra chung sự vụ.
Chị Lâm ngồi phệt xuống đất, không khóc, không nấc được tiếng nàọ. Tôi không nhìn thấy chị nữa. Trời đất như phủ một màn sương. Một người vợ lính nào đó nâng chị dậy, dìu đị. Tôi lửng thửng vào nhà, nhìn Nguyên Hương chua xót. Một ngày nào đó, biết đâu ông Thượng sĩ Thường vụ lại chẳng phải nói với Hương một câu tương tự: "Anh Nghĩa..."
Nguyễn Hữu Nghĩa
Share Người Lính Già TQLC

Friday, August 19, 2022

Huy Chương Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa

 
1 Huy Chương Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa

2 Tham chiếuNhững điều viết trong đoạn video này đều tham khảo trong cuốn Huấn Thị Điều hành Căn Bản về Cấp Hiệu, Quân Phục, Quân Kỳ, Lệnh Kỳ, và Phù Hiệu của QLVNCH (bản dịch tiếng Anh: A Color Manual of ARVN uniform, medals, flags, and insignia được tái bản tại Hong Kong do ông Louis Cheng dịch ra Anh Ngữ).Một cuốn khác là Huy Chương Ân Thưởng trong QLVNCH (in bằng Anh và Việt Ngữ, Saigon 1969.)Xin xem thêm trong cuốn: The Decorations and Medals of The Republic of Vietnam and Her Allies do John Sylvester Jr. v Frank C. Foster Jr. soạn, MOA Press, South Carolina ấn hành năm 1995.

3 Cách đeo Huy Chương trên Thường Phục
Ngay cả trước 1975, chỉ có một số rất ít sĩ quan cao cấp phục vụ ở Thủ đô Sài Gòn mới may các bộ đại lễ phục và dạ phục kiểu Tuxedo.Đại lễ phục của sĩ quan thời Đệ Nhất Cộng Hòa là áo (coat) màu trắng kín cổ, quần màu sẫm đen có đường vạch đỏ chạy dài theo nếp quần.Sau này, đại lễ phục là áo 4 túi và quần màu trắng, cùng kiểu với bộ tiểu lễ mùa hè (vải worsted màu khaki vàng) và mùa đông (vải gabardine màu cứt ngựa)

4 Nếu được mời dự tiệc với quân nhân Hoa Kỳ hay Mỹ gốc Việt mà không có lễ phục như họ, thì nên mặc Âu phục (suits hay tuxedos) Quân phục tác chiến và quân phục làm việc không thích hợp tại những dạ tiệc

5 Cách đeo Huy chươngCó thể đeo một trong ba loại: Huy chương thòng (full size), huy chương thu nhỏ (mini), hay huy chương cuống (ribbons).Có thể đeo trên ve áo trái của áo coat hay trên ngực trái.Thứ tự đẳng cấp của các loại huy chương phải đúng theo quy định của Quân đội.Huy chương dân sự hay huy chương ngoại quốc, dù cao cấp đến đâu, cũng phải đeo ở vị trí thấp hơn huy chương Quân Đội VNCH.

6 Các kiểu Huy chươngHuy chương thòngHuy chương miniHuy chương cuống

7 Thứ tự Huy chương từ cao đến thấp (trên xuống dưới, trái qua phải)

8 Thứ tự Huy chương từ cao đến thấp (trên xuống dưới, trái qua phải)

9 Vị trí đeo huy chương Huy chương cá nhân đeo phía trên túi áo trái
Huy chương đơn vị đeo trên túi áo phảiHuy chương dân sự hay ngoại quốc (dù quý báu đến đâu) phải đeo ở vị trí thấp hơn huy chương QLVNCH

10 Một thí dụ về thứ tự các huy chương
Từ trên xuống, trái qua phải (giá trị cao đến thấp:Anh Dũng Bội Tinh với nhành dương liễu, ADBT ngôi sao vàng, ADBT ngôi sao bạc, ba ADBT ngôi sao đồng, Chiến Thương BT,Tham Mưu BT, Dân Vụ BT hạng 1, Quân Phong BT hạng 5, Chiến Trường Ngoại Biên BT, Chiến Dịch BT, Quân Vụ BT hạng 5.

11 Huy chương Tuyên công Đơn vị
Là loại huy chương tập thể, dành cho đơn vị. Nó luôn có khung vàng quanh chiếc ribbon. Quân nhân phục vụ tại đơn vị được quyền đeo trên túi áo bên phải. Khi rời đơn vị đó là không còn quyền đeo nó nữa. Trong trường hợp quân nhân phục vụ đơn vị lúc đơn vị được ân thưởng, có thể xin giấy phép đeo vĩnh viễn vì đương sự có góp phần trong công lao của đơn vị.Nếu đơn vị được hai lần tuyên công, quân nhân trong đơn vị được đeo dây Biểu chương màu Anh Dũng Bội Tinh (vàng) ở vai trái.Nếu đơn vị được bốn lần tuyên công, quân nhân trong đơn vị được đeo dây Biểu chương màu Quân Công Bội Tinh (xanh lục) ở vai trái.Nếu đơn vị được sáu lần tuyên công, quân nhân trong đơn vị được đeo dây Biểu chương màu Bảo Quốc Huân Chương(đỏ) ở vai trái.Nếu đơn vị được trên tám lần tuyên công, quân nhân trong đơn vị được đeo dây Biểu chương Tam hợp (ba màu vàng, luc, đỏ) ở vai trái.Ghi chú: Quân nhân chỉ đeo dây Biểu chương nào cao nhất có được mà thôi.

12 Quân nhân được ân thưởng nhiều lần cùng 1 loại huy chương, trong trường hợp các huy chương ghi bên dưới, thì chỉ mang huy chương cao nhất. Ví dụ: có Bảo Quốc Huân Chương đệ nhất, thì không mang các đệ nhị, đệ tam, đệ tứ hay đệ ngũ. Điều này cũng áp dụng cho các loại dây Biểu Chương.,

13 Cách đeo dây Biểu Chương
Dây lớn, bện bằng ba sợi nhỏ nằm luồn dưới nách áoHai dây đơn, nằm vắt qua cánh tay trênBa vòng kết như hoa thị nằm phía sauPhần có sợi dây ngắn, có mũi tên đồng nằm phía trước.

14 Huy chương VN nhưng không dành cho quân nhân VNCH
Presidential Unit CitationThiết lập ngày 7 tháng 10, 1954Dành ân thưởng cho Phái Bộ Cố Vấn Quân Sự Hoa Kỳ và các đơn vị Hải Quân Hoa Kỳ tham gia chiến dịch nhân đạo.Không thưởng cho quân nhân hay đơn vị QLVNCHHuy chươngVietnam Service MedalCủa Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ, ân thưởng cho quân nhân Hoa Kỳ từng tham gia trong chiến tranh Việt Nam. Nó tương đương với Chiến Dịch Bội Tinh của VNCH. Không thưởng cho quân nhân VNCH

15 Dân Vụ Bội Tinh dành cho Đơn vị
Civic Action Honor Unit CitationDành ân thưởng cho các đơn vị Quân Lực Đồng Minh và Việt Nam Cộng Hòa có nhiều công trong các hoạt động dân vận.Huy chương này tương đương với Tuyên Công Đơn Vị, và cũng được đeo phía trên túi áo bên phải.US Army Presidential Unit CitationUS Army Meritorious Unit CitationMột vài đơn vị Quân Đội VNCH được ân thưởng US Army Presidential Unit Citation hoặc US Army Meritorious Unit Citation. Những huy chương tập thể này đeo bên trên túi áo bên phải và ở vị trí kém hơn Tuyên Công Đơn Vị VNCH (nếu có)

Monday, August 15, 2022

NHÀ BIÊN KHẢO PHẠM KIM VINH - FB Khiết Nguyễn



Cách nay khoảng 2, 3 năm, có vài bạn trẻ nhắn tin cho tôi, thắc mắc về mấy đoạn trong một vài cuốn sách của ông Phạm Kim Vinh. Tôi đọc xong rồi vì bận rộn quá nên quên hồi âm cho các bạn đó. Đến tuần trước, lại có một bạn khác nhắn tin cho tôi, tỏ ý rất buồn bực về mấy câu mà ông Phạm Kim Vinh đã viết. Lần này thì tôi không dám quên trả lời vì bạn trẻ này nhận xét rất đúng. Hơn nữa, bạn đó bày tỏ sự buồn bực không phải vì cảm tính cá nhân mà vì ông Phạm Kim Vinh đã viết hoặc chuyển dịch những điều mà một người biết suy nghĩ chín chắn sẽ không làm như ông. Vậy nên tôi viết lên đây một bài ngắn này.
Ông Phạm Kim Vinh thuộc hàng cha, chú của chúng tôi vì ông thua thân phụ của chúng tôi chỉ 9 tuổi. Trong quân đội, ông hơn cả thượng cấp của chúng tôi vì ông xuất thân Khoá 3 Đống Đa tại Liên Trường Võ Khoa Thủ Đức, cùng với danh tướng Nguyễn Khoa Nam. Như vậy, ông đáng cho cá nhân chúng tôi nể trọng. Về sự nghiệp biên khảo của ông, ông là một trong những người viết nhiều nhất về Việt Nam và về Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà kể từ khi chúng ta mất nước cho đến khi ông mãn phần. Nói chung, cá nhân chúng tôi không chê ông Phạm Kim Vinh một điểm nào qua các tác phẩm của ông. Tuy vậy, chúng tôi không đồng ý với một số điểm mà ông đã viết. Chúng tôi xin lần lượt trình bày như sau.
Trước hết, chúng ta nói về Trận Ấp Bắc I. Trận này, phía Việt Cộng nói rằng chúng thắng lớn. Thật ra, chúng được tiếng qua trận này là dám kéo về đánh chúng ta, nhưng rồi chúng cũng phải bỏ chạy. Phía quân ta thì tuy không thua nhưng bị thiệt hại nặng. Người thuật lại trận này khá trung thực là Chuẩn Tướng Lý Tòng Bá. Ông là một trong ba đơn vị trưởng tham gia trận này.
Ông Phạm Kim Vinh khi thuật lại trận này đã bỏ sót một điều rất quan trọng. Theo ông, chúng ta "thua" là vì có ba ông đơn vị trưởng tham chiến thì không ông nào chịu tuân lệnh ông nào nên không có một sự đồng nhất về tiến quân. Có ông còn tự nhận là "Người của Cụ Diệm" nên bắt hai ông kia phải tuân lệnh mình. Kế đến, ông Phạm Kim Vinh nhận xét rằng tại chúng ta bổ nhiệm một trung tá vào chức tư lệnh sư đoàn trong khi lẽ ra đó phải là một cấp tướng. Chúng ta lần lượt xem lại sự việc này.
Nếu xem lại trận đánh này, chúng ta sẽ thấy ngay, rằng quân ta bị thiệt hại nặng là do sai lầm của Trung Tá John Paul Vann, Cố Vấn Trưởng Sư Đoàn 7 Bộ Binh.
Theo tin tình báo mới nhất của Sư Đoàn 7 Bộ Binh, cộng quân tập trung tại Ấp Bắc. Trong khi đó, Vann lại tin rằng chúng đặt bộ chỉ huy của chúng tại Tân Thới với ba đại đội bao quanh. Vậy nên Vann quyết định rằng trực thăng của Hoa Kỳ sẽ đổ Trung Đoàn 11 Bộ Binh do Thiếu Tá Nguyễn Duy Bách chỉ huy xuống gần Ấp Bắc và rồi từ đó đánh vào. Trung Tá Bùi Đình Đam, tân Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh không đồng ý. Thế nhưng phi đoàn trực thăng Hoa Kỳ chỉ tuân lệnh Vann chứ không tuân lệnh Trung Tá Đạm. Thế là quân ta được đổ xuống khu vực phía tây-nam Ấp Bắc là nơi cộng quân phòng thủ mạnh nhất. Kết quả, chúng ta bị thương vong nặng ở nơi này.
Ông Phạm Kim Vinh thì lại chú trọng đến cấp bậc của Trung Tá Bùi Đình Đạm. Ông nhân đó, nhận xét rằng giới lãnh đạo Việt Nam Cộng Hoà đã sai lầm khi bổ nhiệm các quân nhân có cấp bậc quá thấp vào các chức vụ quá to lớn. Ông nêu thí dụ rằng trong Quân Đội Hoa Kỳ, cấp chuẩn tướng (brigadier) chỉ được làm tư lệnh lữ đoàn trong khi phía Việt Nam Cộng Hoà thì chỉ mang cấp trung tá là đã được giữ chức tư lệnh sư đoàn. Ông kết luận rằng chúng ta thất bại sau này một phần cũng là vì bảng cấp số không được thực hiện đúng đắn, tức là cho các sĩ quan cấp tá không đủ khả năng và kinh nghiệm giữ các chức vụ chỉ huy cấp binh đoàn.
Tôi rất lấy làm ngạc nhiên khi một nhà biên khảo chuyên nghiệp như ông Phạm Kim Vinh đưa ra một nhận xét như vậy.
Trước hết, chúng ta cần nhìn vào thực tế, rằng vào thời gian đó chúng ta không có đủ sĩ quan cấp tướng đáng tin cậy để bổ nhiệm vào các chức vụ trọng yếu.
Thứ hai, các đơn vị của Quân Đội Việt Nam Cộng Hoà - lúc đó - và Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà - sau này - có cấp số khác hẳn với Quân Đội Hoa Kỳ. Một sư đoàn bộ binh của Hoa Kỳ rất hùng hậu chứ không như một sư đoàn bộ binh của chúng ta. Như thế, Hoa Kỳ bổ nhiệm một thiếu tướng vào chức vụ tư lệnh sư đoàn không có nghĩa là phía Việt Nam cũng phải làm theo như vậy trong mọi trường hợp.
Sau hết, đại đa số các đơn vị của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà về sau đều có cấp chỉ huy, tư lệnh với cấp bậc đúng theo bảng cấp số, có khi còn cao hơn. Chúng ta có tư lệnh các sư đoàn Nhảy Dù và Thuỷ Quân Lục Chiến mang cấp bậc trung tướng. Chúng ta có các tư lệnh sư đoàn bộ binh mang cấp bậc thiếu tướng. Như vậy, ông Phạm Kim Vinh căn cứ vào đâu để kết luận rằng vì chúng ta bổ nhiệm các sĩ quan vào các chức vụ trọng yếu không đúng với bảng cấp số nên thất bại?
Kế đến, về chương trình Ấp Chiến Lược, ông Phạm Kim Vinh cho rằng nó đã thất bại. Theo ông, sự thất bại của Ấp Chiến Lược là do đồng bào của chúng ta không có tinh thần quốc gia như Mã Lai Á và Phi Luật Tân trước đó.
Cá nhân chúng tôi đã xem lại nhiều báo cáo của CIA, của các cơ quan cố vấn Hoa Kỳ. Không một cá nhân, không một cơ cấu nào của họ nhận xét rằng chương trình Ấp Chiến Lược của Việt Nam Cộng Hoà là một thất bại. Họ có xác nhận rằng tại nhiều nơi, việc thực thi không được suôn sẻ là vì có những đồng bào muốn sống rải rác, không muốn dời vào các vùng tập trung.
Ông Phạm Kim Vinh thì nhận xét rằng chương trình Ấp Chiến Lược thất bại nhưng lại không nói rõ nó đã thất bại như thế nào.
Tuy nhiên, điều quan trọng nhất mà tôi nhận thấy không thể đồng ý với ông Phạm Kim Vinh là phần dịch thuật của ông.
Trong một đoạn dịch từ một tác phẩm của một nhà báo ngoại quốc về cuộc triệt thoái Cao Nguyên, tháng Ba, 1975, có nói về việc Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu gọi ra thì không liên lạc được với ai, ngoại trừ Chuẩn Tướng Phạm Duy Tất. Ông Phạm Kim Vinh viết rằng "Được nói chuyện với tổng thống, tên Tất thích quá."
Cá nhân chúng tôi đã từng chứng kiến các sĩ quan trẻ bắt tay Tổng Thống, trả lời các câu hỏi của Tổng Thống. Chúng tôi chưa hề thấy một vị nào "tỏ vẻ thích quá vì được nói chuyện với tổng thống." Không rõ nguyên tác viết như thế nào mà ông Phạm Kim Vinh viết lại như trên,, nhất là hai chữ TÊN TẤT.
Cũng trong đoạn đó, nhà báo ngoại quốc nói trên bay xuống miền Tây gặp Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam. Ông Phạm Kim Vinh kể lại rằng Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam đã tươi cười nói với nhà báo đó rằng "Ông xuống đây để hỏi tôi vê những điều mà bọn khốn trên đó không muốn nói với ông, phải không?" Chúng tôi không rõ sự thật như thế nào, Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam đã hỏi như thế nào mà ông Phạm Kim Vinh lại viết như thế. Là bạn cùng khoá với Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, chắc chắn ông phải biết rằng vị danh tướng đó không bao giờ dùng ngôn từ như thế để chỉ các thượng cấp của mình ở Sài Gòn.
Sau hết là dịch phẩm Vĩnh Biệt Sài Gòn mà ông Phạm Kim Vinh chuyển ngữ từ một tác phẩm không rõ tựa đề của Jean Larteguy. Trong cuốn này, dịch giả Phạm Kim Vinh đã viết rằng tên tướng nằm vùng đê hèn Nguyễn Hữu Hạnh là "một viên tướng dũng cảm hồi hưu". Ông Phạm Kim Vinh còn viết - hay dịch - rằng vào ngày 27 tháng Tư 1975 thì Sư Đoàn 8 Bộ Binh và Sư Đoàn 5 Bộ Binh đã hoàn toàn tan vợ. Để bảo vệ Sài Gòn, chỉ còn một sư đoàn, vài đơn vị Nhay Dù và vài đơn vị dân quân tự vệ Hố Nai. Trên thực tế, chúng ta đã biết rằng trưa ngày 30 tháng Tư, Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh tại Lai Khê vẫn còn nguyên vẹn.
Qua những dịch phẩm của Phạm Kim Vinh, cá nhân chúng tôi xin nói thẳng ra đây như sau. Dịch giả hoặc đã diễn dịch theo ý mình, hoặc mượn tác phẩm của người khác để chửi rủa theo ý mình. Mà không thì, cho dù nguyên tác có viết đúng như thế đi chăng nữa, một người có chút lương tri sẽ không bao giờ chuyển dịch những bài, những cuốn sách được viết một cách bất lương như thế để kiếm ăn.
Sau hết, chúng tôi xin nói tóm tắt về ngôn từ mà ông Phạm Kim Vinh sử dụng. Trong tất cả các tác phẩm cũng như dịch phẩm của mình, ông đều gọi Tổng Thống Việt Nam Cộng Hoà là TÊN THIỆU, hoặc Y TA, hoặc HẮN TA. Một nhà biên khảo chuyên nghiệp mà dùng nhân xưng đại danh từ một cách đầy thành kiến và bất kính như thế thì không thể nào có những nhận xét và tường thuật một cách trung thực được về một số nhân vật nào đó, hoặc một số sự việc nào đó.
Cũng như tất cả những người Việt Nam cầm bút khác, ông Phạm Kim Vinh không thể là một tác giả hoàn hảo. Vì thế, chúng ta không dám trông mong rằng ông tường thuật và nhận xét một cách TUYỆT ĐỐI TRUNG THỰC. Thay vào đó, chúng ta phải chấp nhận sự TƯƠNG ĐỐI TRUNG THỰC mà thôi. Chính vì thế mà cá nhân chúng tôi tuy rằng không đồng ý với nhiều điểm mà ông Phạm Kim Vinh đã viết, vẫn nể trọng ông. Bởi vì, ông đã viết nhiều, và viết đúng hơn là sai. Nếu chúng ta biết hài lòng với sự tương đối thì ông Phạm Kim Vinh xứng đáng có một vị trí cao hơn rất nhiều tác giả khác viết về chiến tranh Việt Nam.
Đính kèm là phóng ảnh hai trang trong một dịch phẩm của ông Phạm Kim Vinh, Vĩnh Biệt Sài Gòn. Các bạn đọc và tuỳ nghi nhận xét.

 

CHƯƠNG VIII NGÀY 29 THÁNG 5 Vĩnh Biệt Sàigòn - Jean Lartéguy + Phạm Kim Vinh

 Chuyện không xong rồi. Tại chợ Bến Thành, một tên ăn cắp bị bắt tại trận và bị bắn chết. Xác hắn còn để đó. Một tên khác cưỡi xe gắn máy cướp giật chiếc máy chụp hình cũng bị bắn chết nằm sóng sượt.

Tuần tiểu. Khám xét nhà cửa mỗi đêm. Bắt bớ. Mất tích.

Những buổi học tập dài bất tận cho người trẻ cũng như cho người già. Không phải chỉ có nghe không mà còn phải trả bài nữa. Đến 10 giờ 30 đêm, tại khách sạn, những cô gái có mặt trong phòng các ký giả được lệnh phải đi ra ngoài. Từ đó không có tin gì về họ nữa. Có thể họ bị đưa tới một trại nào đó để học về đạo đức.

Sau cùng, người ta đã lập được một toán đầu tiên gồm những ký giả, danh sách niêm yết trên bảng đen trước cửa Bộ Ngoại giao là nơi đã kiểm kê chúng tôi. Khởi hành lúc 11 giờ, giờ Đông Dương. Tôi không có tên trong danh sách.

Ra đi gấp rút. Các anh bộ đội cực kỳ nóng nẩy đã xua đuổi những đứa trẻ, những người hành khất và đã chặn đường. Lý do: Người ta đã tìm thấy vũ khí ở... nhà những người Mỹ.

Người ta đuổi những nhà báo. Đồ nghề của họ đã bị mất giá và có thể bị tịch thâu nữa.

Nhưng đó mới chỉ là một vụ khởi hành hụt. Đến tối thì các bạn của tôi trở về, tức giận. Dường như sân bay Vạn Tượng là nơi máy bay đáp xuống không dùng được vì đang có mùa gió Nồm.

Ngày mai lại khởi hành lúc rạng đông. Khám xét hành lý rất kỹ nhưng các cuộn phim đều đi thoát được.

Tôi đi chuyến xe thứ hai. Tối hôm trước, tức là ngày 25-5, lúc 10 giờ 30 tại văn phòng của ông già Lợi (cách xưng hô thân mật của chúng tôi với ông quản đốc khách sạn) tôi bị đưa ra một thứ tiểu pháp đình. Ba người mặc đồng phục đeo súng ngắn cũng đứng dậy và đọc cho tôi nghe bản án:

“Ủy ban An ninh Saigon Gia Định ra lệnh cho tên Lartéguy ngày mai phải đáp chuyến bay đầu tiên khởi hành từ Tân Sơn Nhất. Lý do: Có thái độ thù nghịch với tân chế độ”. Trước đây, Thiệu đã liệt tên tôi vào sổ đen và tôi phải trở lại dưới một cái tên giả. Thế là có tiền lệ rồi.

Tôi bắt tay ba ông quan tòa của tôi trước cái nhìn lo lắng của viên thông ngôn vì hắn không hiểu gì về thái độ của tôi. Lẽ ra tôi phải giải thích cho hắn hiểu rằng tại Pháp, khi những người của sở xe đòn thi hành xong nhiệm vụ chu đáo thì sẽ được một người của tang gia khen thưởng. Phải chăng Saigon là bà con của tôi?

Ngày hôm sau, ông già Lợi cho tôi hay rằng khách sạn Continental vừa mới được giao cho “Nhân dân cai quản” ( và rằng một giám đốc mới đã từ Bắc Việt tới. Cả hai chúng tôi đều buồn. Tôi muốn ôm lấy ông ta nhưng tôi không dám làm thế. Ông Lợi là một người khả kính mà.

Hôm sau tại sân bay, người ta tìm cách chiếm lấy những cuộn phim mà Raoul Coutard và tôi đã mang theo. Chút nữa thì chúng tôi bị cướp mất. Những cuộn phim ấy hiện ở Ba-Lê.

Người ta đuổi tôi ra khỏi thành phố mang tên Hồ Chí Minh, nơi đó, trẻ em học hát và học cách tố cáo cha mẹ chúng. Tôi chẳng biết nói sao.

Cái thành phố Saigon kia vẫn còn.

Tôi tới Saigon lần đầu tiên vào năm 1950. Tôi đã yêu dấu Saigon và đã ghét thành phố ấy trong hai mươi lăm năm. Đó là một cô gái làng chơi tàn tệ, tham lam, ưa khoái cảm, ưa đồ gia vị và ưa những hương thơm ngát, nghe theo người này và ngả theo người kia, nhưng không bán mình cho ai. Một thành phố tự do và bây giờ không còn tự do nữa.

Màn đêm đã buông xuống trên thành phố ấy, và trên quãng đời hai mươi lăm năm làm ký giả và viết văn của tôi.

Tôi đã bay trên thành phố ấy lần chót trong chuyến bay Aeroflot của cộng sản để tới Vạn Tượng. Raoul Coutard đụng vào khuỷu tay tôi. Hắn nói: “Coi kìa”. Cũng như tôi, hắn buồn muốn chết. Mối tình của hắn với Saigon lại còn thâm niên hơn nữa. Ba chục năm.

Saigon ơi. Vĩnh biệt.

• Jean Lartéguy

28/09/1976

CHƯƠNG VII THỨ NĂM NGÀY 1 THÁNG 5 Vĩnh Biệt Sàigòn - Jean Lartéguy + Phạm Kim Vinh

Người thiếu nữ ngồi ngoan ngoãn gần một tòa nhà của nhà thương Grall. Kế bên cô ta là một chiếc va-li mới bằng chất plastic và một giỏ đan bằng mây của người Thượng. Cô gái mặc áo dài màu đen của người phụ nữ Thượng nhưng tóc cô ta màu hung và nước da trắng: Đó là một cô gái Thượng lai Pháp.

Cô ta bao nhiêu tuổi? Mười tám? Hai mươi? Làn sóng tỵ nạn ghê gớm đã cuốn cô ta nhưng còn gần được nguyên vẹn tới cái nhà thương dùng làm nơi tạm trú này trên đó có một lá cờ Pháp.

Chúng tôi phải lại gần mới nhìn thấy những giọt nước mắt trên má cô ta. Cô không nói, không gây tiếng động trong khi đám người tị nạn Việt Nam ồn ào như đàn ong vỡ tổ chung quanh những gói đồ ngổn ngang. Những trẻ nít ngủ gục giữa đám người ấy. Người ta vừa nói cho họ biết rằng họ phải trở về nhà. Saigon không bốc cháy, và rằng Saigon mới đổi chủ thôi.

Ngày hôm qua, những người chủ là Pháp, Nhật rồi lại đến người Pháp, rồi người Mỹ. Cứ mỗi lần thì người dân Saigon lại thích nghi, lại bắt chước, lại chế riễu và khai thác.

Ngày hôm nay, chủ nhân là những anh bộ đội miền Bắc đội nón lá, mặc quân phục rộng thùng thình màu xanh lợt, tất cả được nắn từ cùng một cái khuôn, tất cả đều còn nhỏ tuổi, một nụ cười kiểu dì phước nhân ái gắn trên mặt họ.

Chính cái mặt nạ tươi cười đó làm cho dân Saigon sợ hãi.

Tôi hỏi xem cô gái là ai và từ đâu tới. Cô ta trả lời tôi bằng một câu hỏi khác:

- Chalons-sur-Marne ở đâu? Tôi muốn đi tới đó.

Thiếu nữ ấy là kết quả của mối tình giữa một người Pháp và một phụ nữ Rađê. Người cha đã trở về Pháp, về sau, ông ta đã thừa nhận đứa con. Cô gái đã mất hết trong một cuộc chạy giặc. Chỉ còn lại có người cha mà cô ta chưa thấy bao giờ và cũng không có được cả một tấm hình của người cha nữa. Cô ta đã được đi học và làm việc tại phòng thí nghiệm của một nhà thương Mỹ vùng cao nguyên.

Người ta di tản cô ta cùng với một số nhân viên của nhà thương và hứa sẽ đưa cô ta đi Mỹ. Từ nước Mỹ, cô ta sẽ tìm được cách tới nước Pháp và tìm được Chalons sur Marnes.

Nhưng người Mỹ đã ra đi một cách hỗn loạn và bỏ rơi cô ta. Kéo lê chiếc va li và đeo chiếc giỏ chứa đầy những quà để tặng người cha Pháp, cô ta đã chạy tới nhà thương Grall vì nghe nơi đó là nơi trú ẩn của tất cả các Pháp kiều. Cô gái này tưởng mình là người Pháp nhưng giấy tờ đã làm cho cô ta có quốc tịch Việt. Chỉ có một phép lạ, nghĩa là có một viên lãnh sự đặt tình nhân loại trước sự tôn thờ các qui tắc hành chánh thì cô gái này mới đi được, nhưng làm sao có phép lạ ấy tại Saigon. Cô ta sẽ chẳng bao giờ đi được nữa.

Trong số những người có mặt tại đây, có những người Việt đã có thẻ thông hành của nước Pháp và có những người đã phải từ bỏ Pháp tịch thời Diệm để khỏi bị rắc rối. Tất cả những người mơ ngủ ấy đã bất ngờ rớt từ mái nhà xuống và khi tỉnh dậy thấy mình ở trên một hành tinh khác, chứa những con người quái dị: Những người Hỏa tinh của Hà Nội.

Họ không hiểu gì hết. Họ tuyệt vọng bám lấy những gì họ biết từ ngày trước, lá cờ vẫn bay trên mảnh đất này của nước Pháp.

Một lát sau, tôi phỏng vấn y sĩ trưởng của nhà thương là Đại tá Fourre trước ống kính truyền hình.

Dằn giọng, ông ta nói đến ảo tưởng của một số người. Tuy nhân viên của nhà thương là người Pháp nhưng lại không được hưởng trị ngoại pháp quyền. Nhà thương ấy là lãnh thổ của Việt Nam và nhà cầm quyền mới nếu không chiếm được nhà thương thì cũng có thể gởi những đám tuần tiểu đến đó.

Lúc đó, tôi không biết rằng những tên trùm cảnh sát của Thiệu và những tên tay sai võ trang cùng mình đang bao vây: Tên Đại tá Phạm Kim Vinh và tên Thiếu tá Mai, những tên sát nhân đã giết Paul Leandri. Trong bọn đó còn có tên đã bấm cò súng, tên vệ sĩ đã hiểu sai mệnh lệnh của tên Qui. Các Y sĩ Pháp là những con tin của những kẻ đó. Các Y sĩ này bị làm con tin trong năm ngày vì các cảnh sát viên không chịu dời nhà thương.

Tên Tướng Bình, cầm đầu ngành cảnh sát thì đã tháo chạy, bỏ mặc người dưới và không cho người biết sự chạy trốn của hắn. Đến lúc ấy thì các viên cảnh sát này, cũng như hàng ngàn người khác, cũng như những người Đại Hàn bị viên đại sứ bỏ rơi (tên đại sứ này cũng lại là một cấp tướng nữa), họ đã chạy tới nhà thương Grall.

Nhưng vì nhà thương đang thiếu máu để sang cho người bệnh nên người ta đã buộc những người kia phải hiến máu mới được chạy vào trú ẩn trong nhà thương. Cái bẫy của máu!

Trong một phòng ở bên trung tâm giải phẩu, tôi đã trông thấy một đứa trẻ chết. Nó mới ba tuổi. Một mảnh đạn trong đầu. Người ta đã dùng một chiếc khăn lau mặt phủ lên cái xác nhỏ bé đó. Thế đủ rồi.

Những người khác chìa ra những chân tay cụt. Có những người chân bị xích xe thiết giáp rập nát chân, những người khác mất luôn cánh tay, những người khác thì bị thiêu và da của họ chỉ còn là một cái gì trương lên và nứt nẻ.

Cũng tại nhà thương Grall có hai xác chết nằm bên nhau. Đó là hai viên Tướng Việt Nam tự tử bằng thuốc Nivaquine: Tướng Phú, Tư lệnh vùng cao nguyên, một chiến sĩ tốt tại Điện Biên Phủ. Và Nguyễn Khoa Nam, Tư lệnh Quân khu IV vùng đồng bằng. Tướng Nam vẫn còn là một chiến binh mặc dầu có Thiệu và binh lính của Nam vẫn còn giữ vững lãnh thổ khi Saigon đã đầu hàng.

Người ta kể lại rằng Tướng Phú hấp hối khi được đưa tới nhà thương (nhà ông ta ở trước mặt nhà thương) và người ta đưa ông ta vào nằm trong lều dưỡng khí. Thế rồi vì thiếu dưỡng khí nên người ta tháo ống của chiếc mặt nạ ra.

Tự tử bằng Nivaquine thì hết thuốc chữa và dầu cho có rửa ruột hoặc làm một điều gì khác thì cũng không thể cứu được con bệnh. Phú không được đưa vào lều dưỡng, khí. Vì làm như thế vô ích.

Theo tôi thì có mười hai vụ tự sát của đại tá và tướng, chưa kể những vụ tự sát của các trung úy, đại úy. Như trường hợp các sĩ quan Nhảy Dù đã họp nhau tại nhà của một người trong bọn rồi nắm tay nhau đứng thành vòng tròn để cho một sĩ quan trên tuổi nhất làm nổ tung một chùm lựu đạn. Như viên Thiếu tá trẻ tuổi nhất đã tới trước mặt Tổng thống Hương để tự sát, trước mặt Hương là người kế vị Thiệu.

Chuyện ấy đã xẩy ra vài giờ trước khi tôi tới phỏng vấn Hương.

Tại trại tiền đình có bóng mát trước Dinh Tổng thống, các anh bộ đội đã dựng trại, nấu cơm như khi họ còn ở trong rừng. Họ ngồi xổm trước ngọn lửa nhúm bằng cành cây nhỏ đốt giữa hai cục đá.

Không còn tiếng động nữa, đêm xuống rồi. Một đêm chiến thắng cho những người lính nhỏ con của Hà Nội.

Một cuộc đại chiến thắng quân sự nhưng là một sự đại bại về ý thức hệ. Vì nhân dân đã không nổi dậy theo sự suy luận của người cộng sản. Mặc dầu có những lời hăm dọa của các xướng ngôn viên đài phát thanh Hà Nội và của các đài phát thanh phụ tại Đà Nẵng, Huế, Komtum và Pleiku, các chiến binh miền Nam đã không bắn chết các cấp chỉ huy của họ và cũng chẳng quay súng lại chống chính phủ “bù nhìn” của Thiệu hoặc của Hương hoặc của chính phủ “hiếu chiến” của Tướng Dương văn Minh. Trái lại, họ đã chiến đấu, chiến đấu luôn cả khi các người chỉ huy của họ đã bỏ rơi họ và khi họ biết rằng họ thua trận...

Đêm chót của yên tĩnh và của hòa bình. Những người lính trải những sợi giây ra và đặt các loa phóng thanh.

Tôi vẫn không tin rằng Saigon vừa mới rơi vào tay những người cộng sản. Đó chỉ là cơn ác mộng. Ngày mai, tôi sẽ tỉnh dậy và chẳng có gì xảy ra hết.

Minh Cồ sẽ nói chuyện về hoa lan với tôi, chắc là người ta mới gởi một thứ lan từ Vọng Các tới. Tướng Vanuxem sẽ giải thích cho tôi nghe phải làm thế nào để tái chiếm vùng cao nguyên, và cha Mauriceau sẽ trìu mến kể cho tôi nghe câu chuyện những người Mọi trong khi Philippe Franchini sẽ thán phục thì thầm vào tai tôi:

- Tất cả những người Việt Nam này đều điên nhưng họ thật là quỉ quái! Anh chưa biết được rằng họ đã tìm được cách nào để đánh lừa chính quyền?

Sáu giờ sáng, tôi giật mình tỉnh dậy vì những tiếng hú trong loa phóng thanh truyền đi một khúc quân hành xen kẻ bằng những khẩu hiệu. Saigon quả thật ở trong tay những người mặc đồ xanh rồi.

Cái thứ âm nhạc “cách mạng” ấy chẳng qua chỉ là một sự pha trộn kỳ cục và lải nhải của những khúc quân hành, của những bài ca tôn giáo, những bài dân ca Nga cắt quãng bằng những khẩu hiệu nói về trật tự, lao động và vệ sinh. Thứ nhạc kỳ quái ấy chỉ ngưng vào lúc 22 giờ làm cho người ta điếc tai, làm cho người ta hóa điên. Nó còn đáng sợ hơn tiếng động cơ rộn rã của hàng ngàn chiếc Honda của Saigon ngày trước.

Lưu thông đã giảm vì xăng nhớt khan hiếm và phần nhiều các kho xăng đã bị cháy. Nhà cầm quyền mới – chúng tôi gọi như thế vì chưa biết nhà cầm quyền ấy là những ai - đã ra lệnh đóng các cây xăng, trừ có cây xăng ở gần nhà bưu điện chánh vẫn được điều hành một cách bí mật. Nhưng người ta mua được xăng chợ đen. Sau khi lên tới giá 2.000 đồng một lít, giá xăng sẽ đứng ở mức 1.500 đồng.

Chúng tôi mua 200 lít trữ trong phòng ngủ và có thể gây ra hỏa hoạn cho khách sạn.

Chúng tôi phải lợi dụng lúc còn rối loạn này để quay phim trong thành phố và quay phim ngoài thành phố vì tình trạng này sẽ không lâu. Vẫn là cái kinh nghiệm của tôi tại Hà Nội. Cũng vẫn là những chủ nhân ông cũ nhưng họ đã già rồi. Họ đã khô cằn như những xác ướp. Và họ sẽ làm lại mãi mãi những gì họ đã làm.

Phần lớn các chế độ cộng sản đều phô trương là của giới trẻ nhưng lại do những già điều khiển, thí dụ như tại Bắc Việt, không thấy một bộ mặt mới nào xuất hiện kể từ 1945.

Chúng tôi bàn cãi sôi nổi: Tổng thống Giscard có lý hay không khi ông ta yêu cầu tất cả những người Pháp ở lại. Ông ta không thể làm gì khác. Chúng tôi không có hạm đội và chẳng có đủ máy bay để di tản trên mười ngàn Pháp kiều cho nên buộc lòng phải làm ra vẻ chấp nhận một nước cờ miễn cưỡng.

Cộng sản âm thầm xâm nhập thành phố từng toán nhỏ. Người ta yêu cầu phụ nữ ngưng mặc áo quần hở hang và nên trở lại y phục cổ truyền.

Nhưng trong lúc này, dường như người dân coi thường những lời kêu gọi ấy. Trai và gái tiếp tục biểu diễn lái xe gắn máy. Họ cắm cờ Mặt Trận trên xe và tưởng rằng chỉ cần có thế là được làm mọi thứ.

Dân Saigon tự trấn an quá sớm. Họ ngây thơ, tưởng rằng có thể qua mặt được những tên nhà quê đần độn vừa từ đồng ruộng về. Dân Saigon lầm to. Binh lính cộng sản được lệnh làm ra vẻ khoan dung và hiền từ: Mới hôm trước, những tên lính ấy bình thản giết cả trăm ngàn người dân lành nếu được lệnh. Khi nào đã biến đổi được cái thành phố này thành ra một thành phố xã hội chủ nghĩa thì sẽ có lệnh cho lính cộng sản hết hiền từ.

Các anh bộ đội đặc biệt dán mặt vào những khu chợ trời bán đồ của Mỹ. Mới từ trên rừng trở về, họ mở to cặp mắt nhìn mọi thứ và dùng tiền Hồ Chí Minh mua những xa xí phẩm như máy thâu thanh, máy thâu băng, máy chụp hình và nhiều thứ khác. Trước vẻ mặt con nít và ngoan ngoãn của lính cộng sản, những người đàn bà bán hàng đã yên tâm và bắt đầu bày ra những hàng lậu. Dân Saigon càng an tâm thì đồng bạc cụ Hồ càng xuống giá.

Chúng tôi hỏi thì người lính trẻ tuổi sẵn sàng trả lời, còn cán bộ già rất dè dặt. Cứ năm người thì có tới bốn người là dân miền Bắc. Họ nói rằng chiến thắng làm cho họ vui mừng nhưng đời sống ở Saigon ồn ào quá, đắt đỏ quá và rằng họ đã không được tiếp đón nồng nhiệt như họ muốn.

Mọi tờ báo đều bị đóng cửa, kể cả tờ Courrier d’Extrême Orient của người Pháp. Chỉ có tờ Saigon Giải Phóng in tên bằng chữ đỏ và in hình bác Hồ chiếm hết nửa trang nhất. Báo ấy đăng bài nói về sự thất thủ của Saigon ngược hẳn với sự thật. Hơn nửa triệu quân nhân và công chức chế độ cũ sẽ ra sao? Các phi công trực thăng và các chuyên viên truyền tin ra trình diện đã được tuyển ngay vào quân đội nhân dân vì quân đội ấy đang thiếu chuyên viên. Đài phát thanh thì loan báo rằng từ nay, mọi phương tiện sản xuất là của nhân dân và nhân dân chịu trách nhiệm. Kết quả của sự quy định ấy nhiều khi lại rất tức cười. Thí dụ tại nhà hàng Continental, vài anh cán bộ tập trung các nhân viên nhà hàng lại và nói:

- Thời thực dân đã hết. Từ nay, các anh là chủ nhà hàng. Các anh lo việc điều khiển nhà hàng. Các anh phải chọn một người giám đốc.

Những người khi trước làm bồi bàn vỗ tay rồi bàn tán với nhau một hồi. Sau đó, người đại diện của họ nói với các anh cán bộ:

- Chúng tôi quyết định chọn ông Philippe Franchini làm giám đốc.

Các anh cán bộ há hốc mồm nhìn nhau với một vẻ nghiêm trọng. Quả thật là những người này cần được giác ngộ nặng. Franchini là tên của viên giám đốc nhà hàng mới về Pháp nghỉ phép cách đó ba tuần. Chỉ tội cho viên giám đốc do nhà nước chỉ định lúc ấy đang đứng chờ và yên trí tưởng rằng mọi việc đã xong.

Đài phát thanh Giải Phóng thì truyền đi những lời tuyên bố trái ngược nhau.

Tôi tới nhà Minh Cồ. Ông ta chưa được về nhà. Người tài xế của ông ta cho biết đã nhận được điện thoại của bà Minh nói rằng ông ta đã được đối xử tử tế và chắc sẽ sớm được về nhà.

Ngày 3 tháng 5, chúng tôi tới Hố Nai, chiến lũy của người công giáo chống cộng di cư. Một gác chuông nhà thờ bị đạn đại bác làm hư hại nặng. Vậy là đã có giao tranh tại đây. Tôi ngừng xe và xin gặp Linh mục Chánh xứ.

Một người đàn bà độ bốn chục tuổi đề nghị đưa chúng tôi tới cha sở. Tôi hỏi bà ta:

- Tình hình ra sao?

Bà ta cúi đầu:

- Con trai tôi và mười bẩy người bạn của nó vừa bị xử bắn. Tôi vừa mới đi chôn chúng nó xong.

- Câu chuyện xảy ra như thế nào?

- Chúng nó là tự vệ và chúng nó đánh đến cùng. Chúng nó đứng cả trên gác chuông bắn xuống. Thế là chúng nó bị bắn chết hết.

Cha sở ngồi yên lặng trên chiếc ghế gỗ, hai tay để trong áo dòng. Phòng này rất rộng, chắc được dùng làm nơi hội họp thường ngày.

Cha sở này chừng sáu chục tuổi. Ngài từ Phát Diệm Bắc Việt di cư tới cùng các con chiên.

Tôi hỏi nhưng vị cha sở bảo người thông ngôn nói rằng ngài không biết tiếng Pháp, Ở một góc phòng có một người cầm súng ngồi đó. Chắc hắn không phải là lính chính quy vì hắn mặc đồ bà ba đen.

- Thưa Cha, mọi sự tốt đẹp chứ?

- Phải.

Tôi nhấn mạnh:

- Thưa Cha, mọi việc bình thường?

- Phải.

- Có thể phỏng vấn Cha trước máy thâu hình được không?

- Không, không được.

Không hiểu tại sao lúc ấy, tên lính gác lại ra ngoài xem xét chuyện gì. Lúc đó thì Cha sở nói bằng thứ tiếng Pháp rất giỏi:

- Tình thế của chúng tôi rất khó khăn. Tai họa đã giáng xuống đầu chúng tôi. Xin hãy nói với những người bạn Pháp của chúng tôi để họ cầu nguyện cho chúng tôi: Chúng tôi cần có những lời cầu nguyện ấy. Vĩnh biệt.

Tôi bước ra. Toán chuyên viên truyền hình đang gặp rắc rối. Bọn lính cộng sản khó chịu và chận xe lại. Người thông ngôn của chúng tôi giải thích rằng chúng tôi là người Pháp từ Biên Hòa trở về và đi lạc đường chứ không có ý định quay phim. Bọn lính ấy chẳng cần chú ý đến lời giải thích. Chúng tôi đành phải chuồn.

Trên đường trở về chúng tôi thấy những cảnh làm rợn gáy. Những tù binh bị trói tay, đi trước và theo sau có những người mặc bà ba đen cầm tiểu liên giải đi.

Chúng tôi nghe thấy tiếng đàn bà la hét và nhìn thấy những tên lính cộng sản bắt một người đàn bà đi. Bà ta cố vùng vẫy nhưng không nổi và còn bị những tên lính nắm tóc lôi đi.

Trở về Saigon, chúng tôi thấy các bộ đội đã lục soát các tòa nhà của sứ quán Pháp, bất chấp mọi luật lệ quốc tế. Đại sứ Pháp đã không chống cự. Đại sứ Bỉ thì chống cự và bọn lính cộng sản đã phải rút đi.

Đi thăm trường Marie Curie là nơi đang có thi tú tài. Một thí sinh rất xúc động rút ra một tờ giấy. Phải chăng người ta đã có ý lựa đề thi đó? Đó là đề hỏi về Trung Hoa vĩ đại lân bang đang lo về sự Nga hóa nước Việt Nam.

Cô ta sẽ đậu. Nhưng liệu cô ta có biết rằng văn bằng ấy rồi sẽ vô dụng, cũng như mọi thứ của Tây phương đều vô dụng không?

Tại trường Đại học Khoa học, các nữ sinh duyên dáng cầm mớ lá khô làm ra vẻ đang quét dọn lối đi. Một nữ sinh viên bảo tôi:

- Xin ông chỉ chụp hình chúng tôi  đàng sau lưng thôi. Nếu các cô bạn của tôi ở Paris mà nhìn thấy chúng tôi như thế này!

Viên Khoa trưởng cũng đề nghị mời tôi đi gặp Khoa trưởng mới từ Hà Nội về. Đó cũng là một anh bộ đội: Nón thuộc địa, áo quần màu xanh, dép cao su cắt ở vỏ xe hơi, túi vải đeo vai, nụ cười khiêm tốn nhưng mắt sáng lên vì kiêu căng sau cặp kính gọng sắt,

Viên Khoa trưởng cũ thông dịch những câu đối đáp giữa tôi và viên Khoa trưởng mới. Tên hắn là Hào, tốt nghiệp về Hóa học và đã học tại Trung Hoa. Hắn nói sẽ thêm nhiều giáo sư từ Hà Nội tới. Có lẽ sẽ thay đổi học trình để thích nghi với những nhu cầu thật sự của xứ sở.

Người ta mời tôi đi xem các sinh viên trong sinh hoạt mới: Họ đứng thành hình tròn, đồng ca theo nhịp tay đập những bài ca cách mạng hoặc chơi những trò chơi cút bắt. Thế gọi là “Sinh hoạt văn hóa ” đấy.

Sinh viên mới ghi danh được chia thành ba toán: Một lo điều khiển lưu thông, một lo vệ sinh trong khu và toán thứ ba lo việc trật tự trong viện đại học.

Trường Luật và trường Văn Khoa đóng cửa vĩnh viễn. Người ta cho rằng hai trường ấy vô ích. Một trường Thông dịch sẽ thay thế hai trường đó. Tại trường Y khoa, các sinh viên bắt đầu gặp khó khăn khi phải ghi phiếu khám bệnh bằng tiếng Việt vì lâu nay, họ được dạy ghi các phiếu ấy bằng tiếng Pháp.

Các sinh viên khác được cần bộ hướng dẫn mang theo loa phóng thanh đi kêu gọi bài trừ văn hóa đồi trụy, hiểu là những gì của Tây phương. Các sinh viên này vẫn còn mặc quần jean nhưng trên lề đường đã thấy bầy nhiều dép vỏ xe và đồ bà ba đen.

Người ta đốt một ít tạp chí Playboy. Sách của các văn hào Tây Phương cũng bị đốt luôn. Mãi tới sau này, rất lâu, mới thấy ủy ban quân quản Saigon Gia Định ra lệnh đính chính rằng chỉ ngưng bán các sách báo đồi trụy và phản cách mạng (chứ chưa có lệnh đốt bừa bãi cả phim ảnh và sách văn học)

Cả một tầng lầu của nhà hàng Continental bị những người đồng phục xanh từ Hà Nội tới chiếm đóng. Họ thuộc về ngân khố và xía vào việc sổ sách của bất cứ việc công hay tư vì đó là những tên cuồng tín về kiểm kê. Tuổi trung bình của họ là bốn mươi.

Tất cả các xí nghiệp tại Saigon đều được xếp vào loại K. K1 là đồn điền, K2 là thuế và hành chánh, K3 là ngân hàng, K4 là ngoại thương, K5 là kỹ nghệ, K6 là vận chuyển, K7 là công chánh, K8 là nhiên liệu, K9 là kỹ nghệ nặng và K10 là canh nông.

Người ta hỏi nhau:

- Anh là K mấy? Bọn ếch nhái trong K của anh đã tới thăm anh chưa? Anh là K5 vì anh điều khiển một nhà máy nhưng là K8 vì trong sân nhà máy của anh có một máy bơm xăng. Ráng ở lại K8 khá hơn, dường như là vậy.

Những con người Hà Nội đảo lộn mọi việc và thoạt đầu, chúng tôi tưởng rằng đó là chiến thuật của họ muốn như vậy. Thí dụ các ngân hàng đều bị đóng cửa và tất cả các xí nghiệp lớn đều bị tê liệt vì không lấy được tiền ở ngân hàng để trả lương cho công nhân.

Sự thật thì các ngân hàng  Saigon chạy bằng máy tính điện tử IBM. Chẳng có ai làm cho máy tính ấy chạy được hết. Có thể là những máy ấy đã bị phá hoại rồi.

Miền Bắc gọi vào tất cả các kế toán viên hiện có. Họ chăm chỉ ghi bằng tay những tấm phiếu có đục lỗ của những cuốn sổ cái. Ghi như vậy chắc chắn phải mất nhiều tháng nữa.

Vì không có ai được trả lương nên nạn trộm cướp hoành hành khắp nơi. Một người lính Thủy quân Lục chiến tự thiêu trước đài kỷ niệm chiến sĩ. Tay anh ta còn cầm một tờ giấy ghi vỏn vẹn hai chữ: “Tôi đói”.

Chúng tôi là hơn một trăm nhà báo ngoại quốc chen chúc trong hai hoặc ba khách sạn và tuyệt vọng đi lùng xem chính phủ cách mạng lâm thời hiện ở đâu. Không nghe ai nói hết và cái chính phủ ấy chẳng có tăm hơi gì.

Tấn hài kịch đã chấm dứt cho nên người ta chẳng cần tới Nguyễn thị Bình hoặc Nguyễn Hữu Thọ nữa.

Mỗi buổi sáng từ sáu giờ, nhân dân Saigon bị loa phóng thanh dựng dậy bằng vài khúc nhạc quân hành và có xướng ngôn viên loan báo các quyết định của úy ban Quân quản. Do đó, các cựu quân nhân chế độ cũ phải ra trình diện theo từng cấp bậc. Mọi người phải trở lại làm việc. Nếu không làm được nữa thì phải giả đò như đang làm việc.

Tướng Minh hẹn cho chúng tôi phỏng vấn lúc ba giờ chiều. Tôi mang theo đồ nghề. Trong khi chờ ở trước cửa nhà riêng của ông ta, chúng tôi chứng kiến cảnh đốt phá kho chứa phim ảnh của ông ta. Tất cả những cuốn phim tài liệu hoặc thời sự mà ông ta giữ làm kỷ niệm đều bị đốt trước mặt một tên cán bộ và tên này có vẻ chỉ được chỉ định để săn sóc sức khỏe tinh thần và cải tạo cựu Tổng thống Cộng Hòa.

Tướng Minh không tiếp chúng tôi và không gặp một ai nữa. Phụ tá của ông ta là Thủ tướng Vũ văn Mẫu cho tôi hay là điện thoại đã bị cắt và ông Minh được lịnh đừng gặp một nhà báo nào hết.

Ông ta là một nhân chứng phiền phức của những biến chuyển mới nhất. Ông ta phải học bài cho thuộc để trong một tuần nữa, trả cho một đài truyền hình Sô Viết.

Cựu Tổng thống Hương bị chính quyền mới bỏ quên. Ông ta bảo tôi: “Tôi ưa đọc sách. Sách của tôi toàn là sách Pháp. Tôi không đọc được nữa. Tôi ưa ngắm hoa và không nhìn thấy gì nữa. Cũng như xứ sở của tôi, tôi đang đi vào đêm tối.”

Vũ văn Mẫu, Luật gia xuất sắc chẳng biết gì về tương lai, nếu có biết thì chỉ là không có trường Luật nữa và chẳng có luật sư nữa. Ông ta hy vọng được tân chế độ tiếp xúc nhưng chẳng thấy chế độ đâu mà chỉ thấy một chính quyền quân sự và chính quyền ấy không thèm để ý tới ông ta.

Chưa bao giờ Saigon có nhiều vụ cướp và giết người như bây giờ. Tù được thả lẫn với tù nhân chính trị, các cựu quân nhân đói vì không có gì để sống và để nuôi gia đình, các quân nhân Lực Lượng Đặc Biệt ngày trước. Số quân nhân này khoảng năm ngàn người, và sau hết là các hồi chánh viên.

Hồi chánh viên là lực lượng đặc biệt không ra trình diện mà còn giữ lại những khí giới riêng. Họ biết những gì đang chờ đợi họ nếu ra trình diện. Người ta thấy những tên bộ đội bị giết trong đêm tối và thường là bị giết bằng dao: Đó là việc làm của dân thiện nghệ vì vết tử thương ở ngang hông.

Một đêm, có giao tranh thật sự giữa bộ đội và binh sĩ chế độ cũ. Binh sĩ chế độ cũ từ các mái nhà bắn xuống. Ngày hôm sau, các toán tuần tiểu đều được tăng cường và mỗi toán đều có một máy truyền tin nhỏ.

Một cựu sĩ quan nói với tôi:

- Không khi nào tôi ra trình diện vì như vậy là chui đầu vào rọ.

Nhưng các bạn của ông đã đi trình diện.

Tôi hỏi một viên Đại tá vừa từ nơi trình diện trở về:

- Câu chuyện tới đâu rồi?

- Tốt lắm. Họ bảo chúng tôi về nhà, đừng làm gì hết và cứ ngồi chờ.

- Chờ cái gì?

- Có lẽ chờ lúc họ cần chúng tôi đi chiếm Lào, Cao Mên và Thái Lan. Hà Nội mộng lớn. Dường như họ quên rằng có Trung Hoa và họ không ngớt khiêu khích Trung Hoa.

Gọng kềm xiết chặt chung quanh Saigon. Người Công giáo buồn lắm. Chủ nhật vẫn đầy tín đồ tại nhà thờ lớn. Nhưng có những người biểu tình đòi trục xuất Đức Khâm Mạng Tòa Thánh Lemaitre. Ngài bị tố cáo là đã nâng đỡ Thiệu.

Đó là những người Công giáo “tiến bộ”. Một người trong bọn họ giật lá cờ Vatican và thay vào đó bằng cờ Việt cộng. Quân đội can thiệp và giả đò bắn súng lên trời, giả đò bắt giữ vài tên nhưng rồi lại thả ra ngay. Người ta tìm cớ và tìm được lý do để trục xuất Ngài Lemaitre: Sự hiện diện của Ngài làm mất trật tự.

Có tin rằng các ký giả ngoại quốc không được ra khỏi Saigon nữa. Nhưng vì chưa có thấy lệnh chính thức nên chúng tôi cứ đi đại về tỉnh Mỹ Tho vào một buổi sáng. Ra khỏi Saigon chừng hơn mười cây số, chúng tôi nhìn thấy những pháo đội đại bác 105 ly trong vị trí tác xạ và bị các xạ thủ bỏ rơi, từng hàng xe tăng, nhiều xe thiết vận. Có cả một chiếc trực thăng còn nguyên vẹn đậu giữa một cánh đồng vì hết xăng, trên có một viên tướng. Nhưng không thấy có đồ trang bị và không thấy súng cá nhân. Khi có lệnh ngưng bắn, dường như những người lính miền Nam đã bỏ chiến cụ nặng nề để về miền đồng ruộng, mang theo súng cá nhân.

Tại vùng này, Tướng Nguyễn Khoa Nam đã đạt kết quả rất tốt khi giao nhiệm vụ giữ đất cho Địa Phương Quân và giữ các đơn vị chính quy để điều động. Đáng lẽ các tư lệnh quân đoàn khác phải làm như Tướng Nam. Tướng Nam đã bẻ gẫy cuộc tấn công của cộng quân nhưng khi biết là đã hết rồi thì ông ta tự sát vì không chịu được sự thất trận mà ông ta không phải là người gây ra.

Và hàng rào cản trên đường. Một cô gái đồng ruộng, trang hoàng ba cánh hoa vải đỏ trên mũi súng, nghiêm chỉnh ghi số xe của chúng tôi vào một cuốn sổ nhỏ. Tôi hỏi cô ta:

- Cô vào quân đội nhân dân này lâu chưa?

- Được hai ngày (Saigon bị chiếm đã được hai tuần nay).

Cô ta chịu để cho chúng tôi chụp hình và còn có vẻ khoái nữa. Tất cả những thứ đó như trò giỡn chơi và có vẻ con nít. Miễn là cái trò ấy kéo dài.

Chiến tranh dường như không đụng tới phần đất này của Nam Kỳ. Không thấy hoặc chỉ thấy ít có anh bộ đội. Có vài người tự vệ võ trang bằng súng cướp được. Họ là người Nam chứ không phải là những tên “xâm lăng”. Thấy rõ điều ấy vì họ hòa mình vào đám đông trong khi những tên kia thì đứng riêng.

Ngoại trừ vài tấm biểu ngữ, Mỹ Tho không thay đổi nhiều.

Những người “miền Bắc” chưa chiếm tỉnh này và các loa phóng thanh ít làm ồn ào.

Chúng tôi đi tìm ông Đạo Dừa. Ông ta đã biến mất và dường như đã leo lên một trực thăng Mỹ, để lại người cháu gái lo việc thờ phụng. Chúng tôi đi thăm làng của ông Đạo Dừa, nơi từng chứa những kẻ đào ngũ và trốn lính. Không có ai. Chỉ có hai người tự vệ võ trang đứng xa canh chúng tôi.

Trở lại Mỹ Tho. Chúng tôi quyết định đi tới Gò Công. Bỗng nghe tiếng đại bác. Tiếng nổ cách nhau. Phía xa một làng bốc cháy, vẫn còn giao tranh tại đó hai tuần sau khi mất Saigon. Sau này tôi được biết rằng có nhiều ổ kháng cự tại vùng đồng bằng và vì những ổ ấy đứng vững cho nên người ta phải dùng đại bác để tiêu diệt.

Dường như hai ngàn người của một lữ đoàn Dù đã đi về vùng Đồng Tháp, còn những người khác thì đi về biên giới Cao Mên. Tại Saigon, một sĩ quan Dù từ vùng đồng bằng trở về tuyển mộ những cựu quân nhân không ra trình diện. Sĩ quan ấy gặp một người bạn của tôi và người bạn ấy hỏi viên sĩ quan:

- Làm sao các anh có thể giữ được nếu không được tiếp tế từ bên ngoài: Không nên trông cậy vào người Mỹ. Nhân dân thì sẽ đứng trung lập như mọi khi. Vậy trông vào ai?

- Người Tàu. Vì thế mà chúng tôi chuồn về biên giới Cao Mên. Họ sẽ chuyển đồ tiếp tế cho chúng tôi qua ngả Cao Mên.

Nếu mọi sự trở lại từ đầu và chúng ta ở bước đầu của cuộc chiến tranh Việt Nam lần thứ ba?

Trở lại Mỹ Tho. Trước khi tới tỉnh đó, chúng tôi bị một toán tự vệ chận lại và họ đang đi lùng chúng tôi. Họ đưa chúng tôi tới trước một ủy ban quân chánh. Viên chỉ huy rất lịch sự, xem xét giấy tờ của chúng tôi, chúng tôi uống nước trà rồi giảng luân lý. Đáng lẽ chúng tôi phải xin phép ủy ban Quân quản Saigon Gia Định để nơi ấy thông báo cho ủy ban Mỹ Tho và Mỹ Tho sẽ lo giữ an ninh cho chúng tôi (Vậy đi trong tỉnh này sẽ gặp nguy hiểm hay sao?)

Hắn lo lắng hỏi xem chúng tôi quay phim những gì:

- Chúng tôi chụp những con trâu cày ruộng.

Hắn ngạc nhiên:

- Tại sao lại chụp những con trâu?

- Để chứng tỏ rằng hòa bình đã trở lại thôn quê.

- Tại sao các anh lại chú ý tới các hình ảnh lạc hậu đó của nước Việt Nam. Tại sao lại không chụp hình những máy cầy?

- Tại vì tất cả những máy cày đều mang nhãn hiệu Mỹ.

Sau cùng, người ta thả chúng tôi. Trở về Saigon vô sự. Nhưng ở đại sảnh đường của khách sạn, có treo một biểu ngữ lớn sau khi chúng tôi đi Mỹ Tho: “Các nhà báo ngoại quốc không được phép ra khỏi chu vi Saigon Gia Định nữa”.

Ngày 15-5, có diễn binh kỷ niệm sinh nhật Hồ Chí Minh. Dự trù sẽ có ba ngày liên hoan mừng chiến thắng. Tôi trông thấy diễn hành các khí giới tối tân của Nga.

Lần này có vài đơn vị mặc đồ đen của bưng biền. Một phần trong số đó là người Nam, nhưng con số này không bao giờ quá ba mươi phần trăm. Rốt cuộc, chúng tồi đã tìm thấy cái huyền thoại Mặt trận Giải phóng trên khán đài danh dự. Bác Thọ, bác Phát và bà Bình “thân mến” là những nhân vật quan trọng tại Ba Lê nhưng tại đây thì họ tụt xuống hạng thứ mười một. Tại Saigon, bà Bình không được ở tại một biệt thự mà chỉ được ở một khách sạn hạng hai tên là Miramar phòng số 312. Tôi đã phối kiểm. Các nhân vật của Mặt trận Giải phóng đều bị những “Thống chế” của Bắc Việt kềm kẹp, họ mang đay ngực huy chương và mang cầu vai theo lối Sô Viết. Đến nỗi người ta phải tự hỏi phải chăng chính phủ Cách mạng Lâm thời đã trở thành một điều giả tưởng, một trò bịp kể từ Tết Mậu Thân 1968 là lúc lính và cán bộ chính phủ ấy tàn sát tại Saigon vì muốn chiếm Saigon trong khi Saigon nhất định xua đuổi họ.

Trước khán đài, chỉ có những người lính mang hình Hồ Chí Minh đứng bên dàn nhạc và vỗ tay, còn phần lớn các phái đoàn ngồi trên lề đường thì ngủ gục. Người ta dạy họ cách hăng say suốt đêm qua. Họ chưa hoàn hồn. Chắc là với thời gian họ còn học được nhiều.

Trước sự hờ hững của nhân dân, người ta không dám tổ chức ngày thứ hai và ngày thứ ba của cuộc liền hoan nữa. Những cửa hàng vẫn đóng cửa.

Rồi tới vụ đàn áp các ký giả tại nhà hàng Continental. Máy vô tuyến viễn ấn và những cách liên lạc với bên ngoài đều bị cắt đứt. Không có máy bay nữa. Những hộp phim và những cuộn phim chờ được khai thác nằm chất đống ở đó, vô dụng. Những hình ảnh trong cuộn phim đó nói lên sự thật: Saigon bị xâm chiếm chứ không bao giờ được giải phóng.

Sau khi đã cấm chúng tôi ra ngoài Saigon thì kể từ sáng nay, người ta lại cấm chúng tôi chụp hình nữa.

Hai chuyên viên thu hình của Nhật bị còng tay giãi đi vì họ quay phim cảnh đường Catinat. Thế mà một ký giả từ Hà Nội tới lại viết rằng chúng tôi có thể làm việc như chúng tôi muốn. Phải chăng anh ta phải nói dối như thế mới được chiếu khán?

Các ký giả của các nước “anh em” như Nga, Hung Gia Lợi, Đông Đức, Ba Lan và đặc phái viên của hãng AFP (Pháp) từ Hà Nội được gởi tới để chứng kiến cuộc diễn hành chiến thắng. Để duy trì câu chuyện giả tưởng là có chính phủ Cách mạng Lâm thời độc lập với Hà Nội, người ta đã long trọng cấp cho họ chiếu khán vào Nam Việt Nam. Nhưng vì tại Tân Sơn Nhất không có ai để đóng dấu vào sổ thông hành của họ, hai viên chức của cơ quan di trú Hà Nội đi cùng một chuyến bay với họ vội vàng nhảy xuống, chạy vào văn phòng trống trơn và đóng dấu lia lịa lần thứ hai vào những sổ thông hành đó. Nói lần thứ hai vì rằng những viên chức ấy đã đóng dấu lần thứ nhất cho họ tại Gia Lâm, Hà Nội rồi.

Saigon vùng vẫy, Saigon chống cự để chống lại những kẻ xâm lăng vì những kẻ ấy muốn biến Saigon thành một thành phố khác, một thành phố thật sự cộng sản có trật tự và kỷ luật, kèm theo hệ luận không tránh được: sự tố cáo lẫn nhau.

Trong cuộc chiến đấu ấy, dân Saigon tỏ ra có óc sáng kiến làm cho tôi ngạc nhiên. Do đó họ nghĩ ra trò đám tang giả tạo. Một số gia đình có người đi Mỹ đã lo sợ sẽ bị trả thù. Họ tung ra tin là người nhà của họ vẫn còn ở Việt Nam nhưng vì không chịu được sự thất trận nên đã tự sát. Người ta tổ chức tang lễ trọng thể và đem chôn chiếc quan tài rỗng. Mọi người trong gia đình đều để tang.

Người ta tìm cách lung lạc những tên bộ đội (mỗi gia đình phải chứa một tên bộ đội cho ăn và ngủ). Người ta cho hắn uống rượu. Hắn không quen uống, người ta tán tỉnh hắn, người ta giới thiệu hắn với cô cháu gái hoặc cô con gái của gia đình. Sự thật thì đó chỉ là một cô gái điếm mà người ta thuê để đóng vai trò. Anh bộ đội ngả lòng, ngủ với cô gái và đi tới chỗ phạm tội: Ăn cắp xăng trong xe của quân đội nhân dân để tặng vợ chồng con trai người chủ nhà chạy xe honda.

Nhưng những con người mặc đồ xanh đã tổ chức lại hàng ngũ và vô hiệu hóa những trò lung lạc ấy và những trò ấy chỉ có thể nẩy nở trong một chế độ độc tài thối nát như chế độ Thiệu.

Người ta dạy lũ trẻ hát: "Đêm qua, chúng tôi mơ thấy bác Hồ. Bác nói rằng các cháu phải ngoan. Nếu chúng tôi học hành giỏi trong lớp, bác Hồ sẽ cho chúng tôi chiếc khăn quàng đỏ...”

Đồng thời, người ta dạy chúng cách tố cáo những " người nhà của chúng: "Trẻ em Việt Nam phải đề cao cảnh giác. Cũng như các bậc cha mẹ và những đàn anh, các trẻ em có bổn phận lột mặt nạ những tên tay sai của chế độ cũ đang âm mưu chống lại cuộc cách mạng..."

Là những đàn cá, người dân Saigon đụng phải những màn lưới đang xiết chặt chung quanh họ.

Trên đường Catinat, một thiếu nữ đẹp cưỡi xe gắn máy, mặc áo dài màu trong sáng, dừng lại hỏi tôi:

- Thưa ông... Ông có phải là người Pháp không?

- Đúng.

- Ông đã lập gia đình chưa?

- Tôi có vợ rồi.

Cô ấy ngậm ngùi:

- Thật đáng tiếc! Nếu không thì ông có thể lấy tôi và tôi sẽ đi thoát khỏi nơi đây. Nhưng có lẽ ông có một người bạn còn độc thân? Tôi có người nhà ở Pháp và cha mẹ tôi sẽ rất biết ơn ông. Vì rằng... vì rằng tôi phải thoát khỏi nơi này.