Wednesday, April 8, 2015

Giã Từ Vũ Khí / 30 Tháng 4 năm 1975


Đối với người Việt hải ngoại, hay người Việt yêu chuộng Tự do trong nước, 30 tháng Tư là ngày tháng đau buồn nhất, kể từ năm 1975 và có lẽ mãi mãi về sau. Nhưng với tôi, một cựu công chức tốt nghiệp trường HC Sài gòn, đã từng phục vụ tại một quận nhỏ bé nhưng sôi động nhất - nơi đó quân ta đã anh dũng chống trả với ba sư đoàn VC trong gần nửa tháng- thì ngày tháng đau buồn đáng ghi nhớ bắt đầu từ 20 tháng 4, 1975. Đó là đêm chúng tôi cùng với Sư đoàn 18 của tướng Lê Minh Đảo và các quân cán chính tại địa phương đã triệt thoái khỏi quận Xuân Lộc tỉnh Long Khánh, qua mật khu Bình Giã, về Bà Rịa, tỉnh Phước Tuy.

        Sau gần sáu giờ hãi hùng di chuyển dưới đạn pháo của địch, chiếc xe jeep dân sự của quận, đã đưa Quận phó và các nhân viên hành chánh về đến Phước tuy an toàn. Sau này chúng tôi mới biết số quân nhân, sĩ quan đã hy sinh trong trận di tản này khá nhiều, trong đó có Tiểu khu phó bị tử trận, Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng bị thương nặng và bị địch bắt sống… Xe chúng tôi dừng lại ở Thủ Đức để ăn sáng, thì được tin đêm trước có một số du kích đã lẻn về tuyên truyền, kêu gọi dân chúng chuẩn bị “đón tiếp quân giải phóng”! Tôi về đến nhà,  vào buổi xế trưa. Sau đó tôi đưa các nhân viên ra bến ôtô bus để họ đón xe về nhà… Chúng tôi lưu luyến chia tay. Và đã bốn mươi năm qua, tôi chưa bao giờ gặp lại họ, những nhân viên đã đồng cam cộng khổ với tôi trong suốt thời gian ở Xuân Lộc, cũng như trên đường di tản đầy hiểm nguy đêm ấy …
* * *
        Không khí tại Sài Gòn những ngày ấy thật căng thẳng. Chúng tôi cho đục nền nhà, làm thang gác xuống nhà bố mẹ vợ tầng dưới để tránh pháo kích. Người dân hối hả tìm đường di tản ra nước ngoài… Một buổi tối, bố mẹ vợ tôi đến thăm, ôm hôn giã từ các cháu nhỏ. Một ông chủ đóng tàu thân thiết từ lâu, hứa sẽ cho gia đình bố mẹ vợ cùng đi ! Nhưng hai hôm sau, ông chủ tàu đã thất hứa, bỏ đi trước!
        Những ngày sau đó, tôi lang thang ra đường, xem thử có gặp vận may để tìm đường di tản. Vô vọng, tôi bước vào rạp Ciné Nguyễn Văn Hảo trên đường Trần Hưng Đạo, xem một phim Pháp. Như  thông lệ lúc bấy giờ, trước khi xem phim, chúng tôi đứng lên nghiêm chỉnh chào quốc kỳ VNCH. Nhìn lá cờ thân yêu đang phất phới trên màn ảnh lớn trước mắt, bỗng nhiên tôi nhớ đến lá cờ vàng ba sọc đỏ phất phới trong ánh lửa pháo kích của địch, trước khi chúng tôi từ giã chiến trường Xuân Lộc, từ giã thị trấn an bình mà tôi đã phục vụ hơn hai năm… Hôm nay, chào  lá quốc kỳ trong một rạp hát ở Sài gòn, tôi có cảm giác mình lại phải di tản một lần nữa, trước khi CS vào đây. Nhưng đi đâu, bằng cách nào ? Hai giòng lệ ứa ra, lăn dài xuống đôi má hóp, nhạt nhòa đôi mắt mang kính cận của tôi lúc ấy! Tôi không xem hết phim, bước ra khỏi rạp với tâm trạng lo lắng buồn bã! 
        Chiều ngày 26-4, tôi đang đứng trước nhà của bố mẹ vợ, nhìn người đi đường... Vợ tôi bế con gái út mới hai tháng tuổi đứng hóng mát trước sân. Các đứa con khác đã đi học về, đang quây quần chơi với mẹ. Bỗng ông Đại úy Hải quân ở cạnh nhà tôi, đậu xe lại nói với tôi:
       - Tàu chúng tôi rời bến đêm nay. Ông và gia đình có muốn đi với chúng tôi, hãy chuẩn bị sẵn sàng. Khoảng mươi lăm phút nữa, tôi sẽ xuống đây chở ông bà đi ngay…
        Thấy tôi do dự, ông ta nói tiếp:
        - Bằng mọi cách, mình phải đi thôi! Sĩ quan như tôi, công chức như ông, chúng nó vào đây sẽ giết hết! Tôi di cư từ Bắc vào Nam năm 54, đã từng nếm mùi CS rồi ông ạ. Đi thôi, đừng do dự gì cả!
        Tôi quay sang vợ đang lo lắng nhìn tôi. Tôi nhìn ba đứa con tuổi từ ba đến năm tuổi đang đứng quanh mẹ chúng, cười nói vô tư. Đứa con gái út mới hai tháng, còn lim dim ngủ trong vòng tay mẹ. Đi hay ở? Tôi quay sang nói với vợ:
        - Các con còn bé quá, làm sao chịu nổi sóng gió mà đi. Hơn nữa em mới sinh xong, còn yếu lắm…!
        Vợ tôi im lặng trao cô bé út cho bà ngoại, bước lên lầu bỏ quần áo tôi vào chiếc túi xách du lịch. Rồi nàng đến bên tôi, tháo chiếc nhẫn vàng đeo vào tay tôi, nói nhỏ:
        - Anh cứ để mẹ con em ở nhà với bố mẹ. Anh cứ đi một mình. VC vào đây, anh sẽ bị nguy như ông Đại úy nói đó!
        Tôi nhìn nàng, người vợ đã từng lo lắng chờ đợi tôi gần nửa tháng khi địch quân bao vây quận Xuân Lộc. Người vợ đã có ý tưởng hy sinh cuộc sống chính mình và bốn con thơ để tôi ra đi một mình. Có khác chi người vợ buông mình trong giòng nước lũ sông Hồng, để chồng sống còn,  nuôi ba con thơ - trong truyện Anh Phải Sống của Khái Hưng? Giờ đây tôi sắp ra đi, chỉ một mình, đành đoạn bỏ nàng với bốn đứa con nhỏ ở lại sao? Đã ra đi, làm sao có thể trở lại quê hương khi những kẻ cai trị đất nước này vẫn luôn căm  thù chúng tôi. Vợ chồng sẽ mãi mãi chia lìa. Các con sẽ mãi mãi không gặp lại bố… Thế thì tôi ra đi làm gì?    
        Khi ông Đại úy tốt ghé vào nhà, hỏi tôi đã chuẩn bị xong chưa để ra đi, tôi im lặng lắc đầu … Ông nhìn tôi, ánh mắt buồn rầu. Đó là lần cuối cùng chúng tôi nhìn nhau, thông cảm hoàn cảnh của nhau… Đã hơn hai mươi năm rồi, tôi không còn gặp lại, cũng như không biết tin tức gì về người sĩ quan tốt bụng đó nữa!  
        Sài gòn vào những ngày gần cuối tháng Tư năm ấy, trở nên hoảng loạn. Tin tức chiến sự bi quan từng ngày. Tổng thống Thiệu ra lệnh thiết quân luật trước khi lên TV trần tình về tình hình đất nước, đổ lỗi cho người Mỹ không viện trợ đầy đủ cho VNCH để ngăn chặn làn sóng CS xâm lăng... Ban đêm VC từ bên kia sông Sàìgòn pháo kích vào thành phố. Ban ngày người ta đi hôi của tại các nhà giàu đã di tản…
        Đến sáng ngày 30 tháng Tư, một người chú của tôi đã chạy trốn VC từ Miền Trung, vội chạy đến đến hốt hoảng nói với tôi:
        - Cháu ơi! VC đã vào đến Hoà Hưng rồi ... Liệu tìm đường mà chạy đi thôi!
        - Thưa chú, bằng cách nào? Mà chạy đi đâu bâu giờ?
        Chú cháu nhìn nhau, đau buồn và tuyệt vọng…
        Đến 10 giờ rưỡi trưa, tiếng nhạc trên đài phát thanh Sài gòn vụt tắt. Rồi có tiếng ồn ào xôn xao… Sau đó, tiếng của tướng Dương Văn Minh, nhân danh Tổng thống và Tổng tư lệnh quân lực VNCH ra lệnh cho các đơn vị quân đội đầu hàng…Sau đó là tiếng hát, hòa với tiếng đàn ghi ta của Trịnh Công Sơn, vang lên ca khúc phản chiến “Nối Vòng Tay Lớn”… Tôi ngồi phịch xuống giường, nhìn trừng trừng vào chiếc Radio vừa phát ra những lời kêu gọi đầu hàng, buồn rầu vô hạn. Không ngờ cuộc chiến bảo vệ Tự do của quân dân cán chính Miền Nam đã kết thúc nhanh chóng và tủi nhục như vậy!
        Trưa hôm ấy, tôi bước ra ngoài để xem quang cảnh náo động ngoài đường. Người ta đổ xô đi làm quen với những “chú bộ đội”, với dép râu nón cối, súng AK kè kè bên hông… Người ta ngắm nhìn họ như những “người lạ” mà lâu nay chỉ nghe, chứ chưa thấy tận mắt. Người ta hỏi những câu ngô nghê chỉ cốt làm quen với đám “chủ mới của đất nước”, đầy quyền uy với súng đạn và bạo tàn! Trên đường phố, xe hơi quân sự chạy qua lại, với những tên “cách mạng giờ thứ 25” đeo băng đỏ trên cánh tay, mồm la hét trong những chiếc loa cầm tay, náo động cả phố phường! Có tin đồn về một cảnh sát viên của “chế độ cũ” vừa tự tử ở “ngã tư quốc tế”, không xa nhà chúng tôi; một sĩ quan tự tử cạnh bức tượng Thủy Quân Lục Chìến ở cuối đường Lê Lợi, Sài Gòn…
        Khi trở về nhà, tôi gặp một người láng giềng trong khu tôi ở. Anh này trước đây thỉnh thoảng hỏi thăm tôi mỗi khi tôi từ quận về phép. Anh chỉ chiếc xe jeep của quận Xuân Lộc đậu trước nhà - chiếc xe tôi đậu nơi đó từ ngày di tản từ Xuân Lộc về đây:
        - Xe riêng của anh, hay xe của quận anh làm việc đó?
        Tôi trả lời người “bạn tốt” mà tôi quen từ khi anh ta vào ở cư xá này:
        - Tôi làm gì có tiền mua xe?…Đó là công xa của quận, mang số ẩn tế, anh ạ!
        Người “bạn tốt” khuyên tôi:
        - Anh liệu mà giao nộp sớm cho “mấy ông cách mạng”, kẻo sau này rắc rối lắm đó!
        Sau này tôi mới biết “người bạn tốt” đã là tai mắt của “cách mạng”, theo dõi tôi - cũng như những “đối tượng” khác từ lâu! Vì chẳng bao lâu, anh ta làm tổ trưởng dân phố trong khu  chúng tôi ở.
        Tôi sực nhớ những giấy tờ, khuôn dấu mang từ quận Xuân Lộc về,  còn để trong túi xách tay trong nhà. Tôi bước vào lục tìm tất cả những giấy tờ, hình ảnh chụp ở quận… đưa vợ đem vào bếp đốt ngay. Riêng tôi, gói ghém khuôn dấu của quận Xuân Lộc, khuôn dấu khắc tên của tôi, bỏ vào túi quần, đón xe bus xuống bờ sông Sài gòn… Tôi ngồi xuống chiếc băng đá trên bờ sông, đợi lúc không ai chú ý, lấy bịch nylon gói những khuôn dấu…, đứng dậy ném thật xa xuống giòng sông. Tôi nhìn dòng nước cuồn cuộn chảy, nhận chìm những khuôn dấu đã từng quen thuộc với chúng tôi trong hơn hai năm làm việc tại văn phòng quận Xuân Lộc. Tôi bỗng liên tưởng đến một buổi chiều mùa đông âm u bên bờ sông Vệ cuối năm 1954. Hôm ấy gia đình chúng tôi đang chờ chiếc đò bên kia sông sang chở khách. Bên kia sông lá cờ vàng đang phất phới tung bay trong gió đông, gợi trí tò mò lẫn ước mơ của cậu thiếu niên đã sống chín năm trong cuộc đời tăm tối vùng “kháng chiến” của Việt Minh! Bên ấy là cuộc sống huy hoàng, là tương lai tươi sáng mà cậu và gia đình đang mong ước, chờ đợi. Còn hôm nay, buổi chiều cuối tháng 4 của 21 năm sau, tôi ngồi bên bờ sông Sài Gòn, nhìn làn nước đục trôi đi mà nghĩ đến thân phận mình, tương lai và gia đình mình, đến những kẻ “đồng cảnh ngã ngựa” không biết ngày mai những “kẻ thắng cuộc” sẽ ra “đòn thù” thế nào đây?
 * * *
        Sáng hôm nay, một buổi sáng cuối tháng ba, nắng ấm chan hoà miền Nam California. Tôi đi giữa đại lộ Bolsa thênh thang, với nắng ấm tươi vui, mà nhớ đến những ngày tháng cũ khi chiến trường VN sôi sục vào thời điểm bốn mươi năm về trước. Chiến tranh đã tàn từ lâu, nhưng những ám ảnh về ngày tháng u buồn năm xưa vẫn theo đuổi tôi suốt một thời gian dài gần nửa thế kỷ; suốt một quãng đường dài nửa vòng trái đất. Từ những trại tập trung CS miền Nam lẫn miền Bắc; từ một đất nước nghèo đói miếng ăn lẫn dân chủ tự do... tôi đã đến một xứ sở ấm no hạnh phúc, đầy đủ nhân quyền và tự do. Xứ sở ấy cách xa cách quê hương cũ của tôi đến một Thái Bình Dương bao la bát ngát và tôi đã nhận nơi này làm quê hương thứ hai, với tất cả sự cảm mến chân thành…
        Khi tôi đi đậu xe trước một khu chợ đông đảo khách hàng người Việt, bỗng thấy một người hát rong đang ôm đàn, hát một ca khúc mà đã lâu lắm tôi chưa  nghe lại. Đó là một thanh niên người Việt rất trẻ, đứng bên chiếc xe hơi, trên mui có đặt chiếc loa thùng, tay cầm chiếc micro… đang say sưa hát bài “Một Mai Giã Từ Vũ Khí” của cố nhạc sĩ Trịnh Lâm Ngân. Tiếng người ca sĩ hát rong đầy cảm xúc, vang vang trong khu parking trống vắng buổi sáng tinh sương, giữa lòng phố chính khu Tiểu Sài Gòn. Tôi im lặng lắng nghe, lòng rưng rưng nức nở theo tiếng ca trầm bổng sâu lắng của anh:
Rồi có một ngày, sẽ một ngày chinh chiến tàn
Anh chẳng còn chi, chẳng còn chi
Ngoài con tim héo em ơi
Xin trả lại đây, bỏ lại đây
Thép gai giăng với lũy hào sâu
Lỗ châu mai với những địa lôi
Ðã bao phen máu anh tuôn, cho còn lại đến mãi bây giờ…
        Chàng trai trẻ kia, khi cuộc chiến đã tàn, có lẽ vẫn còn nhỏ quá. Nhưng bố anh, người chiến sĩ can trường của những ngày cuộc chiến sôi sục trước năm 1975, đã nằm xuống khi chiến cuộc chưa tàn! Máu ông đã tuôn ra, bao ước mơ đơn sơ về “một ngày chinh chiến tàn” mãi mãi không  thực hiện được. Hôm nay, những ngày gần đến tháng Tư đau buồn, tiếng hát anh gợi lại cho tôi vết thương lòng bốn mươi năm về trước. Hãy hát lên đi, hát nữa đi hỡi những người trẻ tuổi VN của thế hệ hôm nay. Để tiếng hát xoá đi nỗi u buồn, đớn đau của những ngày Sài gòn sụp đổ. Để tiếng hát xua đi những tăm tối hiện tại, làm bừng lên chút ánh sáng tươi đẹp cho một thế giới huy hoàng tương lai. Nơi đó sẽ không còn độc đoán tham lam, không còn gông cùm đấu tố, không còn áp bức bạo tàn. Để con cháu tôi mãi mãi sẽ không còn ám ảnh nỗi u buồn tháng Tư như tôi hôm nay…. 
        Tam Bách ĐBT

No comments: