Monday, November 25, 2019

SƯ ĐOÀN 5 BỘ BINH - Niềm tự hào và nỗi đau.

Kính gửi: Các Chiến Hữu QLVNCH, các đoàn thể, hội đoàn, các đơn vị, các tổ chức đang hoạt động dưới Lá cờ Chính Nghĩa Quốc Gia VNCH tại hải ngoại. 
       Chúng tôi xin được hân hạnh giới thiệu về đơn vị của chúng tôi: SĐ5BB. Tên đơn vị chúng tôi, nếu viết đầy đủ, phải viết như sau: Sư Đoàn 5 Bộ Binh/ Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, có khác biệt với Sư Đoàn 5 Không Quân/ QLVNCH và bọn Việt cộng cũng có một đơn vị Công trường 5 (cấp Sư đoàn) gần như là một lực lượng chính quy, thường xuyên đụng độ với SĐ5BB từ nội địa đến ngoại biên như tại Snoul, và bị đánh tan tác.
Vào đề hơi rườm rà nhưng cần thiết để tránh sự nhầm lẫn. Để bài viết gọn gàng, xin viết tắt, đơn vị chúng tôi là "SĐ5BB". 
           Trước năm 1975, người dân sống tại Miền Nam Việt Nam, đặc biệt là những người dân sống tại thủ đô Saigon và vùng phụ cận, hầu như đều biết tiếng SĐ5BB, một đơn vị Lục Quân của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà với những chiến binh quả cảm và những trận chiến thắng lừng danh, oanh liệt đã ghi vào Quân Sử như: Dầu Tiếng, Long Nguyên, Rạch Bắp, Snoul, An Lộc,... SĐ5BB chịu trách nhiệm bảo vệ cuộc sống yên bình cho người dân và xây dựng cũng như phát triển vùng nông thôn và thành thị, để giúp người dân địa phương đủ điều kiện sống trong ấm no và hạnh phúc, với địa bàn hoạt động trải rộng trên 3 tỉnh: Bình Long, Phước Long và Bình Dương, khi cần có thể tiếp ứng cho các tỉnh lân cận. 
SĐ 5 BB đã chiến đấu đến giờ phút cuối cùng của ngày 30/4 đen tối, vận nước đến lúc suy vong, mọi nguồn tiếp vận đều bị cắt đứt, người lính phải dành dụm từng viên đạn, từng giọt xăng, lương thực cho người lính cũng cạn dần, không còn đủ phương tiện để chiến đấu. Khi Dương văn Minh ra lệnh đầu hàng, nhiều đơn vị SĐ5BB vẫn kiên cường chiến đấu. 
            Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ, đương nhiệm Tư Lệnh SĐ5BB, sau khi ra lệnh cho các quân nhân cấp dưới phải chấp nhận đầu hàng để tránh tổn thất nhân mạng, đã lặng lẽ vào phòng riêng tự sát để không rơi vào tay giặc. Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, nguyên Tư Lệnh SĐ5BB, Tư Lệnh Phó Quân Đoàn IV, cũng tự sát trong ngày hôm đó.
Toàn thể quân nhân SĐ5BB, bàng hoàng, ngơ ngác. Các sĩ quan chỉ huy cố giữ sinh mạng cho cấp dưới và chấp nhận đầu hàng để bảo toàn lực lượng, vì mỗi chiến binh của sư đoàn đều là những người con ưu tú và Trung Tín của Tổ Quốc, phải giữ được sự an toàn và trả họ về với gia đình. Chúng ta đành chấp nhận cuộc thua trong nỗi ô nhục của cả dân tộc, những giọt nước mắt uất nghẹn dâng trào... Đồng đội, anh em, thầy trò chia tay trong nỗi đau tột cùng của những người lính chiến bại, và nhà tù và những năm tháng khổ sai chờ đợi họ. 
Cả ngàn người lính SĐ5BB tan tác khắp nơi trong các trại tập trung khổ sai hay các khu kinh tế mới, họ bị giặc thù hạ nhục, bêu xấu, trả thù, hành hạ, đánh đập,... nhiều chiến sĩ không chết trong chiến đấu nhưng lại bỏ thây trong ngục tù vì kiệt sức, đói khát, bệnh tật, bị xử bắn khi tìm đường trốn thoát.  
          45 năm trôi qua, vết thương chiến tranh vẫn còn ứ máu, nỗi căm hận giặc thù vẫn không nguôi ngoai. Một số Chiến Binh Sư Đoàn, bằng nhiều con đường khác nhau đã tìm cách thoát Cộng và định cư ở nhiều nước tự do trên thế giới, trong đó nước Mỹ chiếm đa số. Nhiều nhóm nhỏ anh em đồng đội của từng Tiểu Đoàn, từng Trung Đoàn đã có những buổi gặp gỡ, họp mặt, cùng nhau ngồi ôn chuyện quá khứ và mọi người đều muốn thành lập một tổ chức có hệ thống của tất cả Chiến Binh SĐ5BB. 
          Đầu năm 2019, nhiều người trong Sư Đoàn tự đến với nhau, nhắn nhủ nhau, tổ chức những cuộc họp với các chiến sĩ trong các Trung Đoàn và nhiều đơn vị khác trực thuộc Sư Đoàn đã tham dự. Tất cả đều chung nhau một ước muốn: Tổ chức Ngày hội ngộ của anh em SĐ5BB. Tận trong trái tim của mỗi Chiến Hữu đều có chung một suy nghĩ: "Nếu không tổ chức được một ngày họp mặt để tưởng nhớ các Đồng Đội đã hy sinh, thì chúng ta có lỗi với những người đã nằm xuống."  và từ hôm ấy, tất cả Chiến Hữu bắt đầu liên lạc với các đồng đội mà mình đã từng biết, vòng tay cứ rộng mở dần. 
          Vào ngày cuối tháng 7/2019, trong một phiên họp quan trọng, tất cả đều đồng ý, với một Ban Đại Diện đã chọn ngày 01/03/2020 nhằm ngày Chủ Nhật, sẽ là ngày Hội Ngộ SĐ5BB với chủ đề: "TƯỞNG NHỚ ĐỒNG ĐỘI" và sẽ chính thức thành lập hội lấy tên "Hội Chiến Sĩ Sư Đoàn 5 Bộ Binh - Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà" viết tắt là "Hội Chiến Sĩ SĐ5BB/QLVNCH". Một Ban Tổ Chức được Ban Đại Diện cùng toàn thể anh em của các đơn vị hiện diện để cử và bầu chọn với 3 Chiến hữu, chính thức hoạt động với nhiệm vụ trước mắt là phải tổ chức Ngày Hội Ngộ SĐ5BB.
Với những bước đi ban đầu đầy khó khăn và thử thách, những buổi họp được tổ chức luân phiên tại nhà các Chiến Hữu, nhiều người tự nguyện góp tiền quỹ để trang trải những chi phí cho công cuộc tổ chức, và các đồng đội ở xa cũng đóng góp thêm.
          Kính thưa tất cả các Chiến Sĩ QLVNCH, các tổ chức Quân Dân Cán Chính VNCH, đây là lần đầu tiên SĐ5BB, một trong những đơn vị kiêu hùng của QLVNCH, tổ chức Ngày Hội Ngộ, với chủ đề "TƯỞNG NHỚ ĐỒNG ĐỘI". Hội SĐ5BB/QLVNCH sẽ chính thức hiện diện và đồng hành với các đoàn thể QLVNCH, hoạt động trên tinh thần của người chiến sĩ Quốc Gia với mục đích liên kết trong tình Huynh Đệ Chi Binh, tương thân tương trợ lẫn nhau. 
Rất mong được toàn thể các Chiến Hữu nhiệt tình tham gia và ủng hộ. Sự hiện diện của các chiến hữu, thân hữu và quý vị quan khách sẽ là một khích lệ lớn lao cho tất cả chiến sĩ SĐ5BB chúng tôi.
          Xin trân trọng gửi đến tất cả mọi người lời chào "TRUNG TÍN".  

TM. Ban Tổ Chức,
Trưởng Ban.
Chiến Binh VŨ NGỌC LINH (3/9)
Phone: (714) 829-9092

Trong 11 sư đoàn bộ binh Việt Nam, có 4 sư đoàn nổi danh ở bốn vùng chiến thuật. Ở Vùng 1 là Sư Đoàn 1 BB, Vùng 2 là Sư Đoàn 23 BB, Vùng 4 có Sư Đoàn 21 BB và Sư Đoàn 5 ở Vùng 3 Chiến Thuật. Đó là những sư đoàn gánh chịu trách nhiệm những vùng chiến trận ác liệt nhất, chịu tổn thất nặng nề nhất và cũng tạo nhiều chiến công lẫm liệt nhất.
Gốc gác của Sư Đoàn 5 Bộ Binh là từ vùng cực Bắc Việt Nam. Trong thời chiến tranh Đông Dương, Pháp đã tuyển mộ dân gốc thiểu số Nùng để thành lập các đơn vị tuần tiểu biên giới sát Trung Hoa. Người Nùng nói tiếng Quảng Đông với âm sắc hơi khác chút đỉnh. Nhiều người trong số họ là dân Nùng bên Trung Hoa chạy qua Việt Nam để lánh nạn cộng sản (cộng sản Trung Hoa chiếm lục địa từ tay Tưởng Giới Thạch và lập chính quyền năm 1949). Vị chỉ huy các đơn vị Nùng đó là Đại tá Vòng A Sáng (sau này là tư lệnh đầu tiên của Sư Đoàn 5 BB).
Sau khi Hiệp Định Geneve được ký kết, chia đôi lãnh thổ Việt Nam ở Vỹ Tuyến 17, các tiểu đoàn Nùng mang số 32, 67, 71, 72 và 75 được chuyển vào Ba Ngòi (thuộc tỉnh Khánh Hòa, phía Nam thành phố Nha Trang). Sau đó lại di chuyển vào Sông Mao thuộc tỉnh Bình Thuận. Do Nghị Định số 040-QP/NĐ ký ngày 10 tháng 2 năm 1955, các đơn vị Nùng này được phiên chế thành Sư Đoàn 6 Bộ Binh (chính thức thành lập trên giấy tờ là ngày 1 tháng 2, 1955) dưới quyền chỉ huy của Đại tá Vòng A Sáng.
Ngày 1 tháng 8, 1955, Sư Đoàn đổi tên thành Sư Đoàn 6 Dã Chiến. Tháng sau, ngày 9 tháng 9, lại được bổ sung quân số và đổi tên thành Sư Đoàn 41 Dã Chiến. Ngày 1 tháng 11, 1955, lại đổi tên thành Sư Đoàn 3 Dã Chiến trước khi vĩnh viễn trở thành Sư Đoàn 5 Bộ Binh vào tháng 1 năm 1959.
Từ đó về sau, Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã ra lệnh bố trí các sĩ quan và binh lính người Kinh vào Sư Đoàn. Lính Nùng không còn chiếm đa số nữa. Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 5 BB vẫn ở lại Sông Mao trong khi đa số các đơn vị của Sư Đoàn đã chuyển về Biên Hòa, thay thế Sư Đoàn 7 BB được đưa về Cần Thơ. Vào tháng 11 năm 1960, hai Trung Đoàn 7 và 8 cùng Bộ Tư Lệnh Tiền Phương thì đóng ở Vùng 3 Chiến Thuật (mà lúc đó là Quân Khu 1) trong khi Trung Đoàn 9 và hậu cứ thì còn ở Vùng 2.
Khi xảy ra cuộc đảo chính lật đổ Tổng Thống Ngô Đình Diệm (1-11-1963), quân sĩ Sư Đoàn 5 dưới quyền Đại tá Nguyễn Văn Thiệu đã tham chiến với trọng trách tấn công vào Dinh Gia Long. Từ đó, cuộc đời binh nghiệp của Đại tá Thiệu chuyển hướng để sau này trở thành Tổng Thống của nền Đệ Nhị Cộng Hòa.
Đến tháng 7 năm 1964, Sư Đoàn lại dời về Phú Lợi, cách thị xã Bình Dương vài cây số về phía Đông. Qua tháng 2 năm 1970, khi quân Mỹ bắt đầu rút, Sư Đoàn 5 BB lại chuyển vào căn cứ Lai Khê là nơi đóng quân của Sư Đoàn 1 BB Hoa Kỳ (The Big Red One). Các đơn vị của hai sư đoàn Việt-Mỹ tổ chức những cuộc hành quân phối hợp trong vùng lãnh thổ ba tỉnh Bình Dương, Bình Long và Phước Long. Căn cứ Lai Khê cách Bình Dương 30 cây số trên đuờng Quốc lộ 13, trước đây là một đồn điền cao su, có Trung Tâm Nghiên Cứu về Cao Su.
Sư Đoàn 5 có ba Trung Đoàn trực thuộc, một Đại Đội Tổng Hành Dinh, và Đại Đội 5 Trinh Sát. Các Trung Đoàn 7, 8, và 9, mỗi Trung Đoàn có 4 Tiểu Đoàn, 1 Đại Đội Trinh Sát và 1 Đại Đội Chỉ Huy Công Vụ, quân số tổng cộng xấp xỉ 2500 người. Ngoài ra, thống thuộc Sư Đoàn còn có Thiết Đoàn 1 Kỵ Binh, 3 Tiểu Đoàn Pháo Binh mang số 51, 52, và 53; Tiểu Đoàn 5 Tiếp Vận, Tiểu Đoàn 5 Truyền Tin, Tiểu Đoàn 5 Quân Y, Tiểu Đoàn 5 Công Binh. Tổng quân số Sư Đoàn lên đến hơn 10000 quân.
Vùng trách nhiệm của Sư Đoàn 5 toàn rừng rậm trải dài đến biên giới Việt-Miên, là con đường tiếp tế, chuyển quân của cộng sản. Nơi đây có những mật khu nổi tiếng như Chiến Khu D, Tam Giác Sắt, Hố Bò, Bời Lời... Lợi dụng chính sự miền Nam nhiều rối rắm, cộng sản mở nhiều trận đánh long trời mà số thiệt hại nhân mạng mỗi bên lên đến hàng trăm mỗi trận. Điển hình là trận Đồng Xoài mùa hè năm 1965, trận Làng 13 Bis Đồn Điền Michelin vào tháng 11 năm 1965. Qua chiến trận, Sư Đoàn 5 thực sự lớn mạnh, thiện chiến từ năm 1969 khi dưới quyền Thiếu tướng Phạm Quốc Thuần. Khả năng chiến đấu và tinh thần binh sĩ lên cao nhờ tài chỉ huy của các sĩ quan trẻ có học của thế hệ mới từ các khóa về sau của quân trường Đà Lạt, Thủ Đức, cũng như sự góp mặt lần đầu tiên của 39 sĩ quan khóa 1 Đại Học Chiến Tranh Chính Trị. Cũng trong thời gian từ 1969, nhiều sĩ quan xuất thân Đại Học CTCT đã tỏ ra xuất sắc trong chiến đấu và đã được giao phó trọng trách chỉ huy từ cấp đại đội đến cấp tiểu đoàn. Mùa xuân 1971, Trung úy Dương Quang Bồi xuất thân khóa 1 Hiện Dịch/ĐHCTCT thuộc Tiểu Đoàn 4/8 được chọn là Sĩ Quan xuất sắc nhất Quân Đoàn 3 và được tưởng thưởng du lịch Đài Loan.
Năm 1969, Sư Đoàn 5 Bộ Binh là đơn vị bộ binh đầu tiên được tuyên dương công trạng trước Quân Đội lần thứ 6, và các quân nhân trực thuộc được vinh dự mang giây Biểu Chương màu Đỏ (Bảo Quốc Huân Chương). Trong hai năm 1970, 1971, Sư Đoàn đã tham gia các cuộc hành quân Toàn Thắng đánh sâu vào lãnh thổ Kampuchea, triệt hạ cơ sở hậu cần của Trung ương Cục Miền Nam của Việt Cộng. Trong trận Snuol đầu năm 1971, một tiểu đoàn của Sư Đoàn 5 BB đã tấn công tràn ngập một căn cứ Cộng quân ngang cấp, và sau đó đã đánh phản công một trận để đời, loại khỏi vòng chiến một Trung Đoàn địch, hạ sát toàn ban tham mưu Trung Đoàn. Sau chiến công này, một sĩ quan xuất thân Đại Học CTCT đã được Trung tướng Đỗ Cao Trí trao gắn Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương Liễu. (xin xem bài Chiến Thắng Đầu Xuân trên trang web
http://michaelpdo.com/2015/06/chien-thang-dau-xuan-1971). Đó là thời gian Thiếu tướng Nguyễn Văn Hiếu – vị tướng tài ba và thanh liêm số một của QLVNCH – làm Tư Lệnh. Sau này, cựu Thiếu tá Trần Lương Tín, khóa 20 Võ Bị Quốc Gia, Tiểu Đoàn Trưởng 3/7 đã phải khen rằng: “Các anh CTCT đã lấn sân chơi của Võ Bị.” Gần 40 năm sau, trong một lá thư của cựu Thiếu tá Nguyễn Chí Hiền (Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 4/8) từ Thias, France gửi cho một thuộc cấp ngày 3 tháng 3, 2010 có đoạn: “Anh đã chỉ huy nhiều Tiểu đoàn, nhưng có lẽ Tiểu đoàn 4/8/SĐ5BB đã hằn lên trong lòng anh nhiều kỷ niệm và chiến thắng. Một đặc điểm của tiểu đoàn là ba vị Đại Đội Trưởng xuất thân từ khóa 1/CTCT, hậu duệ của Quân Sư Nguyễn Trãi: Dương Quang Bồi, Đỗ Văn Phúc, Quách Kế Nhơn và Mai Thanh Tòng (Trưởng ban 5) đã bảo toàn quân số cho bạn bè tác chiến. Tiểu Đoàn 4/8 đã tạo chiến công, giúp cho hai vị Trung Đoàn Trưởng vinh thăng Đại tá (Bùi Trạch Dần và Mạch Văn Trường).
Tuyệt vời nhất là trận tử thủ An Lộc dưới quyền Tư Lệnh Lê Văn Hưng năm 1972. Khi hàng sư đoàn thiện chiến Cộng quân Bắc Việt với sự yểm trợ của chiến xa và pháo 130ly, hỏa tiễn... đã mưu toan đánh chiếm An Lộc để mở đuờng tiến công về Thủ Đô Sài Gòn. Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu biết tầm quan trọng sinh tử của trận đánh, đã ra lệnh phải giữ được An Lộc với “bất cứ giá nào”. Chuẩn tướng Lê Văn Hưng đã thề nguyền cùng quân sĩ rằng ông sẽ sẵn sàng hy sinh mạng sống để bảo vệ An Lộc không rơi vào tay Cộng Quân.
Chúng ta cũng ca ngơi tinh thần hy sinh đồng cam cộng khổ của các Cố Vấn Hoa Kỳ dưới quyền Tướng James F. Hollingsworth, Tư Lệnh Quân Viện Vùng 3 CT. Chính sự có mặt của Đại tá William Miller cùng toàn toán Cố Vấn của Sư Đoàn 5 tại chiến trường đã làm cho binh sĩ vững tin rằng họ sẽ không cô đơn và sẽ nhận được yểm trợ phi pháo hữu hiệu. Chính Tướng Hollingsworth đã chỉ thị cho các cố vấn: “Hãy kìm chúng (Cộng quân) lại, tôi sẽ cho Không Quân tiêu diệt chúng. Hãy cho tôi những mục tiêu để đánh bom, và chúng ta sẽ thắng.”
Sau gần ba tháng chịu trận trước nhiều đợt pháo kích bằng đủ loại pháo, hỏa tiễn mà chưa từng xảy ra ác liệt trên chiến trường Việt Nam, cùng nhiều đợt tấn công biển người và xe thiết giáp T-54 tối tân, Sư Đoàn 5 BB và các đơn vị tăng phái đã giữ vững được Thị Xã An Lộc. Cộng Quân đành thúc thủ trước sự chịu đựng và tinh thần chiến đấu quả cảm của quân sĩ VNCH. Chiến thắng trong cuộc chiến bất cân xứng (1 chọi 6), quân trú phòng ban đầu gồm chủ lực là các đơn vị của Sư Đoàn 5 BB, vài đơn vị của Sư Đoàn 18 BB, Liên Đoàn 3 BĐQ cùng binh sĩ Tiểu Khu Bình Long sau được tăng cường thêm Lữ Đoàn 1 Dù, Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù, đã chứng minh sự trưởng thành vượt bực trong chiến đấu. Chiến thắng này cũng có sự góp sức của các đơn vị thuộc Sư Đoàn 9 và Sư Đoàn 21 BB tăng cường hành quân quấy nhiễu và giữ an ninh trục lộ bên ngoài Lộc Ninh.
Vào cuối tháng 4 năm 1975, khi Tổng thống ba ngày Dương Văn Minh ra lệnh buông súng để “bàn giao” cho Cộng Quân, Chuẩn tướng Lê Nguyên Vỹ, vị Tư Lệnh cuối cùng của Sư Đoàn đã tức tưởi cho binh sĩ giải tán và ông rút lui vào phòng riêng, dùng súng tự kết liễu đời mình, chứng minh khí phách của một người làm Tướng tận trung với Tổ Quốc.
Sư Đoàn 5 BB, với hơn 20 năm chiến đấu và trưởng thành, đã góp một phần rất lớn vào sự nghiệp chiến đấu chống sự xâm lăng của cộng sản Bắc Việt. Cùng chịu chung một số phận đau thương của dân tộc, những quân nhân Sư Đoàn đã phải ngậm ngùi buông súng. Tất cả sĩ quan còn kẹt lại thì bị lùa vào các trại tù mệnh danh là tập trung cải tạo chịu đọa đày khổ nhục hàng chục năm dài. Tham Mưu Trưởng cuối cùng là Đại tá Từ Vấn và nhiều vị đã bỏ mình trong lao tù cộng sản. Các thương phế binh đã hy sinh một phần thân thể mình cho Tổ Quốc thì bị đẩy ra bên lề xã hội. Mộ phần tử sĩ thì bị san bằng, cô nhi bị phân loại, bạc đãi...
Nhưng trong lòng những người chiến sĩ từng mang phù hiệu số 5 đỏ trên vai áo, thì niềm hãnh diện được là người lính Bộ Binh vẫn mãi mãi không phai mờ.



Danh sách các vị Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh


01. Đại tá Vòng A Sáng 01/03/1955
02. Đại tá Phạm Văn Đổng 25/10/1956
03. Trung tá Nguyễn Quang Thông 18/03/1958
04. Đại tá Tôn Thất Xứng 16/09/1958
05. Trung tá Đặng Văn Sơn 19/11/1958
06. Đại tá Nguyễn Văn Chuân 03/08/1959
07. Chuẩn tướng Trần Ngọc Tám 20/05/1961
08. Đại tá Nguyễn Đức Thắng 16/10/1961
09. Đại tá Nguyễn Văn Thiệu 20/12/1962
10. Chuẩn tướng Đặng Thanh Liêm 02/12/1964
11. Chuẩn tướng Cao Hảo Hớn 05/06/1964
12. Chuẩn tướng Trần Thanh Phong 21/10/1964
13. Thiếu tướng Phạm Quốc Thuần 19/06/1965
14. Thiếu tướng Nguyễn Văn Hiếu 15/08/1969
15. Chuẩn tướng Lê Văn Hưng 14/06/1971
16. Chuẩn tướng Trần Quốc Lịch 04/09/1972
17. Chuẩn tướng Lê Nguyên Vỹ 07/11/1973


Sư đoàn 5 Bộ binh Quân lực Việt Nam Cộng hòa

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Buớc tưới chuyển hướng Bước tới tìm kiếm
Sư đoàn 5 Bộ binh
Việt Nam Cộng hòa
ARVN 5th Division SSI.svg
Phù hiệu
Hoạt động1955-1975
Quốc giaFlag of South Vietnam.svg Việt Nam Cộng hòa
Phục vụFlag of the Army of the Republic of Vietnam.jpg Quân lực VNCH
Quân chủngLục quân
Phân loạiBộ binh
Bộ phận củaQD III VNCH.jpg Quân đoàn III và Quân khu 3
ARVN Joint General Staff Insignia.svg Bộ Tổng Tham mưu
Khẩu hiệuTrung tín
Tham chiến-Mùa hè đỏ lửa
-Mặt trận Bình Long năm 1972
Các tư lệnh
Chỉ huy
nổi tiếng
-Tôn Thất Xứng
-Trần Ngọc Tám
-Nguyễn Văn Thiệu
-Trần Thanh Phong
-Nguyễn Văn Hiếu
-Lê Văn Hưng
-Lê Nguyên Vỹ
SƯ ĐOÀN 5 BỘ BINH
  • Bản Doanh: Căn cứ Lai Khê, Bình Dương[1]
Sư đoàn 5 Bộ binh,[2] là một trong 3 đơn vị chủ lực quân trực thuộc Quân đoàn III và Quân khu 3 của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Đây là một đơn vị quân đội lớn, từng tham dự nhiều trận quan trọng trong Chiến tranh Việt Nam. Lãnh thổ hoạt động và trách nhiệm bảo vệ là khu vực các tỉnh phía đông của miền Nam Việt Nam Cộng hòa. Nơi đây có chiến khu D là mật khu của Lực lượng mang danh Quân giải phóng, là thành phần của Quân đội Bắc Việt.

Lịch sử hình thành

Sư đoàn 5 Bộ binh được thành lập vào ngày 9 tháng 3 năm 1955 tại Sông Mao, quận Hải Ninh, Bình Thuận với danh xưng ban đầu là Sư đoàn 6 Bộ binh[3] do Đại tá Vòng A Sáng[4] làm Tư lệnh đầu tiên.
Sư đoàn 6 là biến thân của Sư đoàn 3 Sơn cước thuộc Quân đội Liên hiệp Pháp, đồn trú tại vùng biên giới Việt-Hoa, với nhiệm vụ bảo vệ khu vực mỏ than Móng Cái, Hòn Gai (thời kỳ này cũng do Đại tá Sáng chỉ huy).
Sau Hiệp định Genève ngày 20 tháng 7 năm 1954, Sư đoàn 3 Sơn cước di chuyển vào Nam và đồn trú tại Sông Mao, sau đó giải tán và dùng làm nòng cốt để thành lập Sư đoàn 6. Đến gần cuối năm 1955, trong vòng 3 tháng Sư đoàn thay đổi phiên hiệu 3 lần để phù hợp với tổ chức và trang bị. Ngày 1 tháng 8 đổi thành Sư đoàn 6 Dã chiến, ngày 1 tháng 9 lại đổi thành Sư đoàn Dã chiến số 41 và ngày 1 tháng 10 trở thành Sư đoàn 3 Dã chiến.[5]
Ngày 1 tháng 12 năm 1958, Sư đoàn Dã chiến số 3 được tăng cường thêm 2 Trung đoàn địa phương 130 và 162, đổi tên lần cuối cùng thành Sư đoàn 5 Bộ binh. Sau đó di chuyển về miền Đông Nam phần đảm trách vùng hoạt động mới gồm lãnh thổ các tỉnh Bình Dương, Bình Long và Phước Long. Ban đầu đặt bản doanh tại Phú Lợi, Thị xã Thủ Dầu Một, sau chuyển Bộ Tư lệnh lên Lai Khê (là căn cứ do Quân đội Mỹ để lại) thuộc quận Bến Cát cho đến tháng 4 năm 1975.[6]
Nhiệm vụ của Sư đoàn 5 không kém phần quan trọng so với các Sư đoàn bạn thuộc Quân đoàn III nói riêng và đối với Quân lực Việt Nam Cộng hòa nói chung. Sư đoàn có trọng trách bảo vệ và an ninh tuyệt đối vùng biên cương, vì địa bàn hoạt động của Sư đoàn (giáp ranh với nước bạn Campuchia) là cửa ngõ phía bắc của Thủ Đô Sài Gòn.
Năm 1972, Sư đoàn là đơn vị chủ lực của mặt trận Bình Long, đã kiên cường bảo vệ Thị xã An lộc trong suốt 3 tháng trời, đã anh dũng chiến đấu chống lại sự tấn công và lấn chiếm của Việc Cộng.[7] Đồng thời đã cùng các đơn vị bạn gồm Lực lượng Nhảy dù, Liên đoàn 81 Biệt cách dù, Biệt động quân các Trung đoàn của Sư đoàn 18 và 21 Bộ binh đẩy lùi địch quân về phía biên giới Việt-Miên. Trong lịch sử "chiến tranh bảo vệ tự do" của Việt Nam Cộng hòa gọi thời điểm này là Mùa hè đỏ lửa.

Đơn vị trực thuộc và phối thuộc

Stt Đơn vị Chú thích Stt Đơn vị Chú thích
1[8]
Trung đoàn 7

10
Biệt đội Quân báo

2
Trung đoàn 8

11
Biệt đội Kỹ thuật

3
Trung đoàn 9

12
Biệt đội
Tác chiến Điện tử

4[9]
Đại đội
Tổng hành dinh

13
Tiểu đoàn Quân y

5
Đại đội Trinh sát

14
Tiểu đoàn Truyền tin

6
Đại đội Quân cảnh

15
Tiểu đoàn Tiếp vận

7
Đại đội Công vụ

16
Tiểu đoàn Công binh

8
Đại đội Vận tải
(Quân xa)

17
Trung đoàn Pháo binh
Các Tiểu đoàn: 50 (155 ly), 51. 52, 53 (105 ly). Phối thuộc và dưới sự điều động của Tư lệnh Sư đoàn
9
Đại đội
Hành chính Tài chính

18
Thiết đoàn 1
Thuộc "Lữ đoàn 3 Kỵ binh". Phối thuộc và dưới sự điều động của Tư lệnh Sư đoàn

Bộ Tư lệnh Sư đoàn và Chỉ huy Trung đoàn tháng 4/1975

Stt Họ và Tên Cấp bậc Chức vụ Chú thích
1
Lê Nguyên Vỹ
Võ bị Địa phương
Trung Việt Huế K2[10]
Chuẩn tướng
Tư lệnh
Tự sát ngày 30 tháng 4 năm 1975
2
Trần Văn Thoàn[11]
Võ bị Đà Lạt K10
Đại tá
Tư lệnh phó

3
Từ Vấn[12]
Võ bị Đà Lạt K12
Tham mưu trưởng

4
Nguyễn Văn Vượng
Võ khoa Thủ Đức[13]
Chỉ huy
Trung đoàn 7

5
Nguyễn Bá Mạnh Hùng[14]
Võ bị Đà Lạt K10
Chỉ huy
Trung đoàn 8

6
Trần Phương Quế[15]
Võ bị Đà Lạt K10
Chỉ huy
Trung đoàn 9

Trung đoàn Pháo binh

  • Đơn vị phối thuộc
Stt Họ và Tên Cấp bậc Chức vụ Đơn vị Chú thích
1
Tống Mạnh Hùng[16]
Võ khoa Thủ Đức K5
Trung tá
Chỉ huy trưởng
Bộ chỉ huy
Trung đoàn

2
Phan Đình Dậu[17]
Võ khoa Thủ Đức K5
Tiểu đoàn trưởng
Tiểu đoàn 50

3
Hoàng Trung Liêm
Võ bị Đà Lạt K13
Tiểu đoàn 52

4
Phạm Ngọc Quỳ
Thiếu tá
Tiểu đoàn 51

5
Trần Vĩnh Tươi
Võ khoa Thủ Đức K7
Tiểu đoàn 53

Tư lệnh Sư đoàn qua các thời kỳ

Stt Họ và Tên Cấp bậc Tại chức Chú thích
1
Vòng A Sáng
Võ bị Frejus, Pháp
Đại tá[18]
3/1955-10/1955
Giải ngũ ở cấp Đại tá. Thân phụ của Đại tá Hoàng Gia Cầu[19], nguyên Tham mưu trưởng Cơ quan Tổng Thanh tra Quân lực Việt Nam Cộng hòa.
2
Phạm Văn Đổng
Võ bị Móng Cái
10-/1955-3/1958
Giải ngũ năm 1965 ở cấp Thiếu tướng
3
Nguyễn Quang Thông[20]
Võ bị Huế K2
Trung tá
3/1958-9/1958
Sau là Đại tá Tỉnh trưởng Tây Ninh. Giải ngũ
4
Tôn Thất Xứng
Võ bị Huế K1
Đại tá
9/1958-11/1958
Giải ngũ năm 1967 ở cấp Thiếu tướng
5
Đặng Văn Sơn[21]
Trường Hạ sĩ quan Pháp
Trung tá
11/1958-8/1959
Sau là Đại tá Chỉ huy trưởng trường Hạ sĩ quan Đồng Đế, Trung tâm Huấn luyện Dục Mỹ. Giải ngũ năm 1964
6
Nguyễn Văn Chuân
Võ bị Huế K1
Đại tá
8/1959-5/1961
Giải ngũ năm 1966 ở cấp Thiếu tướng
7
Trần Ngọc Tám
Võ bị Liên quân
Viễn Đông Đà Lạt
Thiếu tướng
5/1961-10/1961
Giải ngũ năm 1974 ở cấp Trung tướng
8
Nguyễn Đức Thắng
Võ khoa Nam Định[22]
Đại tá
10/1961-12/1962
Giải ngũ năm 1973 ở cấp Trung tướng
9
Nguyễn Văn Thiệu
Võ bị Huế K1
12/1962-2/1964
Sau là Trung tướng. Đắc cử Tổng thống Việt Nam Cộng hòa 2 nhiệm kỳ (1967-1975)
10
Đặng Thanh Liêm
Võ bị Liên quân
Viễn Đông Đà Lạt
2-6/1964
Giải ngũ năm 1965 ở cấp Thiếu tướng
11
Cao Hảo Hớn
Võ bị Liên quân
Viễn Đông Đà Lạt
Chuẩn tướng
6/1964-10/1964
Sau cùng là Trung tướng Phụ tá Tổng trưởng Quốc phòng
12
Trần Thanh Phong
Võ bị Huế K2
Đại tá
10/1964-7/1965
Năm 1972, đang là Thiếu tướng Phụ tá Ủy ban Trung ương Đặc trách chương trình Thị tứ, tử nạn máy bay Carribou tại Tuy Hòa trong khi thi hành công vụ. Được truy thăng Trung tướng
13
Phạm Quốc Thuần
Võ bị Đà Lạt K5
7/1965-8-1969
Sau cùng là Trung tướng Chỉ huy trưởng trường Hạ sĩ quan Đồng Đế
14
Nguyễn Văn Hiếu
Võ bị Đà Lạt K3
8/1969-6/1971
Ngày 8 tháng 4 năm 1975, đang là Thiếu tướng Tư lệnh Phó Quân đoàn III, bị ám sát bởi cận vệ của Tướng Toàn, Đại Úy Đỗ Đức. Ngày 10 tháng 4, được truy thăng cấp bậc Trung tướng.
15
Lê Văn Hưng
Võ khoa Thủ Đức K5
6/1971-9/1972
Tự sát ngày 30 tháng 4 năm 1975 tại Cần Thơ, Quân đoàn IV.
16
Trần Quốc Lịch
Võ khoa Thủ Đức K4
9/1972-11-1973
Năm 1974, liên quan đến vụ buôn lậu trong quân đội, bị tạm giam và giải ngũ
17
Lê Nguyên Vỹ
11/1973-30/4/1975
Thăng cấp Chuẩn tướng ngày 1/11/1974.
Tự sát ngày 30 tháng 4 năm 1975 tại Bộ Tư lệnh Sư đoàn ở căn cứ Lai Khê.

Chú thích

  1. ^ Nơi đặt Bộ Tư lệnh Sư đoàn. Còn gọi là Hậu cứ.
  2. ^ Vào năm 1965, cũng có một Sư đoàn khác của Mặt trận Giải phóng Miền Nam thành lập ở Bà Rịa trùng phiên hiệu với Sư đoàn 5 Bộ binh. Tuy nhiên, đơn vị này tồn tại không lâu vì bị quá nhiều tổn thất
  3. ^ Theo Nghị định số 040-QP/NĐ ngày 10 tháng 2 năm 1955. Sự vụ Văn thư số 15590/TTM/1/1/S ngày 22 tháng 11 năm 1954. Ngoài dân gian còn gọi Sư đoàn 6 Bộ binh là Sư đoàn "Nùng", vì các quân nhân trong Sư đoàn từ chỉ huy đến binh sĩ hầu hết là người dân tộc Nùng ở miền Bắc
  4. ^ Đại tá Vòng A Sáng còn có tên là Hoàng Phúc Thịnh, sinh ngày 19/3/1902 tại huyện Hà Cối, tỉnh Hải Ninh (nay là huyện Hải Hà, tỉnh Quảng Ninh). Ngày 2/5/1975, ông qua đời khi đang cùng gia đình di tản khỏi VN trên tàu Trường Sơn, được thủy táng trên biển.
  5. ^ Sự vụ văn thư số 3975/TTM/1/1/SC ngày 17 tháng 9 năm 1955.
  6. ^ Cả hai căn cứ Phú Lợi và Lai Khê đều thuộc tỉnh Bình Dương.
  7. ^ Quân đội miền Bắc lợi dụng biên giới giữa Việt Nam-Campuchia và núp dưới danh nghĩa Mặt trận giải phóng miền Nam.
  8. ^ Từ số 1 đến số 3 là các đơn vị "Tác chiến" trực thuộc Sư đoàn.
  9. ^ Từ số 4 đến số 18 là các đơn vị "Yểm trợ" trực thuộc Sư đoàn.
  10. ^ Xuất thân từ Trường Sĩ quan.
  11. ^ Đại tá Trần Văn Thoàn sinh năm 1932 tại Pháp.
  12. ^ Đại tá Từ Vấn sinh năm 1936 tại Hà Nội.
  13. ^ Trường Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức.
  14. ^ Đại tá Nguyễn Bá Mạnh Hùng sinh năm 1935.
  15. ^ Đại tá Trần Phương Quế sinh năm 1930 tại Hải Dương.
  16. ^ Trung tá Tống Mạnh Hùng sinh năm 1932 tại Hà Nội.
  17. ^ Trung tá Phan Đình Dậu sinh năm 1933 tại Nam Định.
  18. ^ Cấp bậc khi nhậm chức.
  19. ^ Đại tá Hoàng Gia Cầu sinh năm 1929 tại Hải Ninh, tốt nghiệp Võ bị Móng Cái.
  20. ^ Đại tá Nguyễn Quang Thông sinh năm 1922 tại Quảng Bình.
  21. ^ Đại tá Đặng Văn Sơn sinh năm 1916 tại Huế.
  22. ^ Trường Sĩ quan Trừ bị Nam Định.

Tham khảo

  • Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân, Lê Đình Thụy (2011). Lược sử Quân lực Việt Nam Cộng hòa.

No comments: