MỘT THOÁNG THIÊN THU
Xin
Vinh Danh các bà vợ, các người yêu và gia đình đã yêu thương và mang hy
vọng đến cho các tù cải tạo qua những năm tháng đen tối của đời người.
V. Chánh
Chỉ
vài tháng sau lần thăm nuôi duy nhất kể từ ngày bước chân vào trại cải
tạo, và ngay sau Tết 1977, nhiều nhóm tù ở trong trại Xuân Lộc chúng tôi
được sàng lọc, phân loại, rồi bất ngờ bị chở đi giữa đêm khuya. Riêng
nhóm chúng tôi khoảng chưa đến 40 người được tập trung cũng vào nửa đêm,
đưa lên một xe bịt bùng chở đến một khu rừng hoang dã rộng lớn.
Trong
nhiều ngày kế tiếp, lán trại chúng tôi tiếp nhận nhiều toán tù cải tạo
từ nhiều trại tập trung khác chở dồn đến, toán đến trước trộn chung với
các toán đến sau, lập thành 10 đội.
Mỗi
đội có 50 người, chia làm 10 tổ, ở chung trong một căn nhà dài do đội
tự cất lấy theo mẫu chỉ định. Tổ chúng tôi có 5 người, gồm một giáo sư
biệt phái, một dược sĩ, 2 nha sĩ độc thân cùng một lớp và cùng một khóa
trưng tập, và một bác sĩ, là tôi. Bốn người kia sinh trưởng từ Miền Nam,
chỉ một mình tôi trọ trẹ tiếng Huế. Bốn người kia thuộc Bộ Binh, tôi
lại của Nhảy Dù. Nhìn quanh cả đội, có lẽ tôi là đứa “ác ôn” nhất, nhưng
không vì thế mà các bạn trong tổ “né” hay lạnh nhạt với tôi. Ngược lại,
theo thời gian, chúng tôi liên hệ với nhau rất mật thiết, đoàn kết,
giúp đỡ lẫn nhau, người này sẵn sàng choàng qua làm giùm công việc cho
người khác, nấu nướng cho nhau, chuyện trò tâm sự cùng nhau…
Lán
trại của chúng tôi nằm sâu trong rừng, cách con đường xe lửa khoảng một
cây số. Một lán trại tù tương tự nằm phía bên kia đường sắt, đối diện
với lán chúng tôi. Những khi đi lao động tự giác, như để cắt tranh, chặt
tre, đốn cây, làm rẫy, chúng tôi đều bước dọc theo con đường rầy xe
lửa, ngang qua một trạm ga nhỏ mang tên Ga Trảng Táo
(*) trước khi tiến vào một cánh rừng ở xa hơn và rộng lớn hơn. Càng về
sau, những chuyến đi càng ít có hoặc không có lính cảnh vệ đi kèm theo
ra bên ngoài trại. Rất nhiều lần, chúng tôi gặp những chuyến tàu chợ
chạy ngang, nhiều gói bánh cốm của bá tánh quăng xuống cho tù cải tạo
chia nhau ăn. Có một lần tổ chúng tôi nhận được cả chục cây cà rem khi
đang còn ì ạch gánh tranh gần con đường sắt. Phải nói là thần tiên khi
mút được một cây cà rem mát lạnh giữa nắng trưa trong lúc người ướt cả
mồ hôi.
Nương
theo bìa rừng, cách đường xe lửa khoảng ba bốn trăm thước hay vào sâu
hơn bên trong, thỉnh thoảng chúng tôi bắt gặp một vài bạn tù cải tạo
được vợ lén tìm thăm. Không biết họ liên lạc với nhau như thế nào mà hay
vậy, tôi tự hỏi. Một đôi khi, chính các anh em chúng tôi được nhờ vả
canh me cho các cặp vợ chồng ấy để họ an tâm gặp gỡ, tâm tình. Chúng tôi
thường tình nguyện đi chặt tre, cắt tranh thế cho phần của các bạn may
mắn đó để họ có thêm được thì giờ riêng tư bên vợ hay người yêu. Các chị
thường hẹn hò rủ nhau đi từng nhóm nhỏ hai ba người. Đi cầu may, không
chắc gì sẽ gặp hay kiếm được người mình muốn tìm. Dù không gặp gỡ được,
rất ít khi các chị nhờ chúng tôi trao giùm quà lại cho chồng. Phần chúng
tôi cũng né tránh chuyện nguy hiểm đó, vì quản giáo trong trại thường
xuyên lục soát chúng tôi trong những lần điểm danh khi về đến trại.
Sau
giờ lao động, trong những lúc rảnh rỗi, cùng với cả trăm bạn tù khác,
năm anh em chúng tôi thường hay đứng xa xa, chờ chuyến xe lửa cuối ngày
từ hướng Phan Thiết về Sài Gòn đi qua, nhìn cảnh các cô các bà trên xe
lửa thảy các gói quà xuống cho thân nhân của họ hay cho các tù nhân đang
đứng dọc theo đường xe lửa. Hiện tượng này ngày càng xẩy ra nhiều và
khó cấm cản được. Chính nhờ một chút liên hệ với thế giới bên ngoài, dù
vẫn có khoảng cách, phần nào đã giúp các bạn tù bớt căng thẳng vì cảnh
chim lồng cá chậu, quên đi nỗi nhọc nhằn của lao động cùng cực.
Được
tập trung với hành trang đủ cho 7 ngày, để rồi không biết đi về đâu và
không biết ngày về, ngoài chuyện thương nhớ gia đình, lo âu cho vợ con
không biết xoay xở trong cuộc sống mới, nỗi sợ hãi tận cùng cho mọi
người cùng hoàn cảnh là bị lãng quên, bỏ rơi, phụ bạc theo thời gian.
Khi niềm hy vọng đoàn tụ quá mơ hồ, những bạn tù được thân nhân lén tìm
thăm, tiếp tế, là những kẻ hạnh phúc nhất đời, vì biết mình còn được yêu
thương. Tuy nhiên, những gói quà nhỏ do lòng từ tâm của những người có
cùng niềm đau, đôi khi gây ra cảnh giành giật hỗn độn, khiến lính cảnh
vệ quát tháo ầm ĩ, lăm le bắn chỉ thiên để giải tán đám đông.
Trong
một xế chiều của tháng 4, có đến gần cả trăm người đang chờ chuyến tàu
hàng chạy qua. Tôi bỗng rời nhóm bạn cùng tổ và bước vội qua phía bên
kia đường sắt để tránh hướng mặt trời đang gay gắt chiếu vào mắt, một
điều tôi chưa hề làm trước đây vì lệnh trên cấm tù của hai lán trại qua
lại chuyện trò với nhau.
Theo sau tiếng còi hú, con tàu giảm dần tốc độ vượt qua ga Trảng Táo
(*). Nhưng khi đến gần chỗ những tù cải tạo đứng hai bên đường, tốc độ
tàu tăng nhanh hơn để tránh chuyện tù cải tạo nhảy tàu trốn trại. Tiếng
xình xịch, xình xịch nặng nề của con tàu và tiếng ken két của bánh xe
nghiến trên đường sắt dội mạnh dần, rung động mặt đất, khiến nhịp tim
tôi đập mạnh. Không tính trước và như bị con tàu hút vào, tôi thấy tôi
từ từ tiến sát gần đường rầy, gần nhất từ trước đến nay, hình như chỉ
cách mươi thước. Tôi bắt đầu nhìn thấy nhiều cô nhiều bà nhoài cả nửa
người ra khỏi cửa sổ hay chen chúc đứng trên các thềm nối giữa các toa
tàu.
Con
tàu chạy ngang trước mặt tôi. Nhiều cánh tay đưa ra, nửa như vẫy chào,
nửa như muốn với nắm lấy những bàn tay bên dưới. Những khuôn mặt đăm
chiêu, lo lắng. Những con mắt mở lớn tìm kiếm. Những ánh mắt sáng lên
khi nhìn thấy người thân. Những cái nhìn đau buồn xót xa như chia xẻ với
người tù trong bộ quần áo lao động thùng thình, bạc màu, rách rưới. Có
những cái miệng cười méo trong nghẹn ngào vì chợt thấy một thân hình ốm
yếu hao gầy quen thuộc. Có những đôi môi mấp máy như thầm nhắn gởi bao
lời. Có những bàn tay đưa lên bịt miệng để kịp ngăn tiếng khóc nức nở.
Và có cả những giọt nước mắt rơi xuống, hạnh phúc lẫn chua xót trong một
thoáng nhìn thấy nhau.
Một
loạt bì thư cột trong viên đá nhỏ để tránh gió thổi bay xa được quăng
xuống, cùng với hàng chục gói quà to nhỏ khác nhau, kèm theo là những
tiếng gọi tên thật lớn. Người đứng bên dưới chạy dọc theo đường sắt, vẫy
vẫy, nói nói, cười cười với người trên tàu. Người nhanh chóng cúi lượm
gói quà lẩn mất trong đám đông. Vài người chạy theo thu lượm những bức
thư bỏ vào túi… Cảnh tượng cứ thế hiện ra trước mắt tôi, thực nhanh, có
khi rõ ràng từng chi tiết nhỏ, có khi chợt đến chợt đi như trong một
cảnh phim quay nhanh, hỗn độn.
Chừng
mươi giây nữa cái đuôi con tàu sẽ chạy ngang chỗ tôi đứng. Vừa một chớp
mắt, qua khung cửa, tôi thấy 3 cô gái có vóc dáng nhỏ nhắn đứng cạnh
nhau trên toa tàu, nhìn chăm chú vào đám người bên dưới. Từ trong tiềm
thức, tôi nhận ra dáng hình và đầu tóc quen thuộc của nàng. Trời ơi,
đúng là vợ của tôi, bằng xương bằng thịt, trong chiếc áo ngắn tay màu
xanh da trời, bên cạnh cô em và người bạn gái. Dưới ánh sáng vàng rực
của cuối ngày, chúng tôi nhìn thấy nhau trong tích tắc, kẻ ở trên tàu,
người dưới đất, khoảng cách không xa nhưng tưởng như vạn dặm. Tôi la
lớn, gọi tên nàng, và xoay người vội vã chạy theo con tàu.
Em
chồm hẳn thân hình ra phía bên ngoài, tay nắm chặt song sắt, đôi mắt mở
lớn mừng rỡ như muốn thu nhhận tất cả hình ảnh của chồng. Tôi đau đớn
nhìn thấy em gầy gò. Đôi mắt của em, ôi con mắt đã từng nhốt hồn tôi vào
trong đó, vẫn còn nét tinh anh trong sáng và đoan trang của ngày nào.
Tôi bỗng cảm thấy thân hình mình nhẹ hẫng như được đôi tay thiên thần
nâng đẩy, tim tôi như ngừng đập trong đê mê, bước chân tôi như đang chạy
trên mây, tay tôi rộng với về nàng như thể muốn níu ôm lấy em vào lòng.
Tất
cả xung quanh tôi như chậm lại, mơ hồ. Cả hai chúng tôi tròn mắt nhìn
nhau trong vô tận. Chỉ có em và tôi hiện hữu trong khoảng khắc thần tiên
này. Qua ánh nhìn, em gởi đến tôi thông điệp “Anh an tâm. Mọi việc ở
nhà bình yên. Em yêu anh. Anh phải sống. Em sẽ chờ đợi với tất cả lòng
trung tín.”
Có
lẽ tôi đã chạy theo con tàu chừng mấy mươi bước, tim đập như muốn nhảy
ra khỏi lồng ngực, rồi tôi thấy mình dừng lại. Đứng yên tại chỗ để nhìn
nàng được rõ hơn khi con tàu từ từ đưa nàng xa dần tôi. Dù con mắt có
đuôi, dù cái nhìn kéo dài đầy nuối tiếc, rồi cũng đến lúc mờ khuất bóng
nhau. Tôi muốn em biết tôi đã yêu em đến chừng nào, tôi ước mong có cánh
để bay đến bên em, ôm chặt vào lòng, truyền cho nhau sức sống. Như hiểu
tôi sắp òa khóc vì quá xúc động, nàng thoáng nhẹ lắc đầu, ánh nhìn thầm
nhắc nhở dặn dò đừng bao giờ bày tỏ sự yếu đuối trước kẻ hành hạ mình.
Em đã cho tôi nguồn hy vọng.
Cùng
lúc, em gái nàng và cô bạn hứng chí ngoắc vẫy tôi liên tục, miệng cười
tươi rói. Cả hai ra dấu muốn đẩy giỏ quà xuống, nhưng có lẽ thấy nàng và
tôi không có lấy một cử chỉ đồng thuận, nên cả hai cứ mãi do dự cho đến
lúc không còn có cơ hội nữa.
Con
tàu xa dần. Tiếng còi tàu báo hiệu sắp quẹo phải và lên dốc con đồi nhỏ
đàng trước như xé lòng. Nàng vẫy tay chào tạm biệt trong giây phút phân
ly. Văng vẳng tiếng khua động của các toa tàu đưa tôi về với thực tại.
Tôi
lặng người trong một trạng thái nửa tỉnh nửa mê, ngẩn ngơ, tâm trí hoàn
toàn bị tràn ngập bởi hình ảnh của nàng. Tinh thần tôi rối loạn với cảm
giác vừa diễm phúc đê mê trong hạnh ngộ, vừa cay đắng ngậm ngùi với
chia ly. Thể xác như lâng lâng ngây ngất của hoan lạc, choáng váng xây
xẩm như một triệu chứng mất máu. Sự tình cờ may mắn thấy mặt nhau ngày
hôm nay nói lên được định mệnh ràng buộc giữa chúng tôi, làm chúng tôi
càng thêm gắn bó. Chỉ trong một thoáng mà cuộc tình ngỡ như thiên thu
bất tận. Chỉ một lần nhìn thấy nhau trong đớn đau là cả một ghi nhận
nghìn năm không phai.Tuy xa nhau mà tình vẫn còn đầy!
Quay
bước trở về hướng các bạn đứng chờ bên kia con đường sắt ở tuốt phía
xa, bước chân tôi lúc đầu chậm nhưng rồi vụt nhanh dần. Trong một kích
thích khó dằn lòng, tôi vội vã kể ngay chuyện vừa mới bất ngờ thấy được
vợ mình đứng trên toa xe lửa cuối cùng. Nghe qua, bạn nào cũng sững sờ,
quá ngạc nhiên trước câu chuyện khó tin vừa xẩy ra. Mà phải, khó tin
thật, ngoại trừ đây là thiên định.
Không
thể nào giải thích được vì sao bỗng nhiên trong chiều hôm nay tôi lại
nhảy sang đứng phía bên kia đường sắt. Các bạn tỏ vẻ vui mừng cho tôi và
không tiếc lời khen vợ tôi chịu khó lặn lội đi tìm chồng, rằng đây thật
là một cuộc hạnh ngộ quá đặc biệt. Một bạn còn ý kiến nếu giỏ đồ ăn
được quăng xuống, không chắc gì tôi đã lấy được vì khó chứng minh với
những người lượm được cái giỏ là của mình.
Hân
hoan với niềm vui bất ngờ và diệu kỳ ngoài sự tưởng tượng, cũng như
muốn chia xẻ hạnh phúc của mình có được trong chiều hôm nay, tôi kéo các
bạn đến ga Trảng Táo (*), móc hết tiền túi còn lại mua ngay 5 trứng vịt lộn đem vào trại để cùng nhau ăn mừng.
Tối
hôm đó, 5 chúng tôi quây quần ngồi ăn chung với nhau, gồm đồ ăn do nhóm
ẩm thực của đội phân chia cho tổ, chút cơm bo bo và chút canh bí đỏ nấu
với muối, dọn chung với chút đồ ăn riêng của nhau dành dụm qua lần thăm
nuôi trước. Để dành món ngon nhất cho cuối bữa, sau một vài câu mở đầu,
tôi trịnh trọng đặt từng cái trứng vịt lộn vào tay mỗi bạn. Mọi người
ăn một cách chậm rãi, ăn luôn cả cục mề cứng và khen trứng vịt lộn ngon
quá.
Không
khí vui nhộn hơn nữa, khi nhiều bạn tù khác trong đội biết tin vui của
tôi đã không ngần ngại mang nước trà (nấu bằng các loại lá lấy trong
rừng), cà phê (pha chế với râu bắp, trộn chung với rễ tranh và cơm
cháy), vài miếng đường tán chặt nhỏ, thuốc lào… đến chung vui với tổ
chúng tôi. Một chương trình văn nghệ bỏ túi không chuẩn bị, không hẹn
trước, tự nhiên thành hình trong đêm. Trong tình thân ái. Ấm cúng. Cảm
động. Khó quên. Bạn nào hát cũng mở đầu bản nhạc với câu gởi tặng cho vợ
hay người yêu ở nơi xa, cho các bạn tù, và cho tôi, mà các bạn bỗng gọi
đùa là Dr. Zhivago, một biệt danh dính theo tôi trong thời gian kế
tiếp.
Tôi
ngồi nghe hát mà lòng xúc động cho thân phận. Tê tái nhớ lại giây phút
nhìn thấy em. Nhớ ánh mắt, khuôn mặt, đầu tóc của em. Khi đến bản nhạc
Như Cánh Vạc Bay, với đoạn “Nơi em về ngày vui không em. Nơi em về trời xanh không em. Ta nghe nghìn giọt lệ rớt xuống thành hồ nước long lanh,” tôi đã không cầm được lòng và đã khóc nức nở.
Đó
là những giọt nước mắt chưa một lần đổ xuống từ ngày vào tù, dù qua bao
nhiêu đọa đày bầm dập thể xác, qua bao nhiêu nhẫn tâm chà đạp lên nhân
phẩm, qua sự chứng kiến cái chết tức tưởi của những bạn tù khác, nay
được dịp vỡ bờ. Một bạn khác ngâm một bài thơ của Hàn Mạc Tử có câu “Người đi một nửa hồn tôi mất, một nửa hồn tôi bỗng dại khờ” khiến tôi lại càng xúc động mạnh và để mặc cho nước mắt tuôn trào.
Trong
đêm, tôi thao thức khó ngủ, dù sau khi đọc một kinh Lạy Cha và 3 kinh
Kính Mừng- như Măng tôi vẫn thường làm trong những lúc tuyệt vọng sau
khi Ba tôi mất. Tôi cầu nguyện, thầm nhớ đến những lúc quấn quýt đắm
đuối bên nàng, chuyện nàng bị sẩy thai sau khi cả chồng và cha đều đi
tù.
Tôi
cuộn mình như con sâu nằm trong cái vỏ ngập đầy hình ảnh và tình yêu
thương của nàng, cái vỏ luôn cho tôi sức mạnh tinh thần để nâng đỡ tôi
vượt qua nhọc nhằn thử thách khi nản lòng đuối sức.
Tình anh đó, em cứ cuốn đi
Cứ cuốn đi, cứ cuốn đi, cứ cuốn đi
Theo em đời đời.
Sau
đó nàng còn tìm thăm lén tôi được thêm mấy lần, khi ghé nhà một người
làm rẫy không quá xa lán trại, lúc tôi đang lao động ở trong rừng tranh…
Khoảng 2 tháng sau khi nàng có phép thăm và ở lại đêm với chồng, tôi
được thả về nhà trong đợt đầu tiên của trại vào ngày 24 tháng 8, 1977.
Sau phân ly thì đến tương phùng. Cứ như thế chúng mình đã sống chết bên
nhau, vượt biển đến bến bờ tự do.
Em
yêu dấu, khi ở xứ người, có những lúc tâm hồn anh bị chìm đắm trong
bóng tối, có những lúc anh chạy theo phù du mê muội, những lạc lối đáng
trách, hình ảnh của em trên chuyến xe lửa ngang qua trại tù cải tạo đã
làm anh sực tỉnh, đưa anh về lại con đường chính trực. Con đường của
chúng mình, của hạnh phúc trời ban và của thứ tha.
Anh
sẽ chẳng đem theo báu vật gì khi lìa đời, ngoại trừ hình ảnh của em đi
tìm thăm chồng trên toa xe lửa trong ánh sáng vàng cháy của một chiều
tàn.
Qua
bài viết này, xin vinh danh các bà vợ, các người yêu và gia đình đã yêu
thương và mang hy vọng đến cho các tù cải tạo qua những năm tháng đen
tối của đời người.
Tôi
viết bài này để tặng các bạn tù học tập cùng trại L19T9, cùng đội, cùng
tổ, ở Xuân Lộc với Hoàng Văn Tân (Không Quân, Oklahoma City), Hồ Xuân
Tịnh (Quân Y, ở Orange, CA), Nguyễn Mạnh Trinh (nay là nhà văn, Orange
County, CA), Nguyễn Trường Xuân (Bác Sĩ, CA), Đinh Văn Khai (Bác Sĩ),
Nguyễn Địch Ứng (Dược Sĩ), Phạm Hậu “cà lăm” (Dược Sĩ), Phạm Văn Minh
(Dược Sĩ), Bác Cảnh (Trung Úy, từ Quảng Trị chạy vào)… Và Ở Trảng Táo
với anh Ba Trí (Giáo Sư), Lâm Văn Trác (Dược Sĩ, Huntington Beach, CA),
Hà Tô (Nha Sĩ), Lộc (Nha Sĩ, chết đuối năm 1978 khi công tác cho
ĐoànThanh Niên Xung Phong tại Miền Tây), anh Tôn Thất Sơn (Bác Sĩ Nhảy
Dù, Na Uy), anh Nguyễn Diêu (Bác Sĩ Hải Quân, Melbourne, Úc)…
Xin
thắp một nén hương cầu nguyện cho những bậc trưởng thượng, những niên
trưởng cùng bao bạn tù cải tạo đã bị giam cầm khốn khổ và đã chết trong
cảnh tù đày của địa ngục trần gian.
Nguyện xin Ơn Trên phù hộ cho những người đang chịu gông cùm dưới chế độ CS để mong một ngày mai tươi sáng hơn cho Việt Nam.
Vĩnh Chánh
No comments:
Post a Comment