QLVNCH thay đổi một cách đáng kể cả về số lượng lẫn phẩm chất trong khoảng
thời gian từ 1968 đến 1975. Sự thay đổi không hề được giới truyền thông tin tức
(Hoa Kỳ) lưu ý, và nhìn chung thì đến nay vẫn không được công chúng Mỹ biết
đến, vẫn không được nhận chân và mô tả đầy đủ trong nhiều cuốn sách tự coi là
“sách sử.” Một phần nguyên nhân của sự kiện này là do bản chất và tầm mức của
sự thay đổi không dễ được tiên đoán hay tiên kiến, dựa trên hiệu quả hoạt động
và khả năng của QLVNCH trước năm 1968.
Bài này không hề muốn chối bỏ những vấn đề nghiêm trọng đã hiện hữu, hay
chối bỏ rằng vấn đề tham nhũng, lãnh đạo kém cỏi không tiếp tục gây họa cho khả
năng của QLVNCH bảo vệ đất nước họ. Tuy nhiên, ở một mức độ nào đó những vấn đề
này có được giải quyết, và những khía cạnh tích cực của QLVNCH không thể bị xóa
khỏi trang lịch sử vinh quang.
Tôi đã tự chứng nghiệm điều này, khi đến Việt Nam cuối năm 1971, phục vụ 1
năm tại MACV, rồi sau đó trở lại thêm hai năm, từ 1973-1975, làm việc ở phòng
Tùy Viên Quân Sự.
Khởi thủy, được huấn luyện và dự trù phục vụ như một cố vấn, tôi tham dự
khóa huấn luyện căn bản sĩ quan lục quân tại Fort Benning, Georgia, tình báo
chiến thuật và chuyên biệt về Ðông Nam Á ở Ft. Holabird, Maryland, và học
trường Việt ngữ tại Ft. Bliss, Texas. Tới Việt Nam thì được biết những nhiệm vụ
cố vấn đang được giảm dần để đi đến chỗ bỏ hẳn; nên thay vào đó tôi được chỉ
định vào MACV J-2 với cương vị một chuyên viên phân tích tình báo, trước hết
phụ trách Cambodia, rồi tập trung vào Quân Khu IV, bao quát toàn vùng đồng bằng
châu thổ sông Mekong. Công việc này mở rộng một cách không chính thức để bao
gồm công tác liên lạc giữa Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH, các toán cố vấn Mỹ, các
chính quyền tỉnh của Việt Nam, và cả các đơn vị QLVNCH ở vùng IV.
Trong 3 năm đó, tôi có mặt lúc chỗ này, lúc chỗ khác, trên khắp 18 trong số
44 tỉnh của VNCH, liên lạc không những với các đơn vị Mỹ và VNCH mà cả với
người Úc, cơ quan viện trợ Mỹ USAID, và CIA. Khi thì đứng vào vị trí rất cao
cấp trong những buổi thuyết trình ở tổng hành dinh của MACV cũng như ở Bộ Tổng
Tham Mưu QLVNCH, tuần lễ sau đó tôi có thể đã lội trên những ruộng lúa tỉnh
Kiến Phong cùng với các binh sĩ Ðịa Phương Quân, hay bay ngang tỉnh Ðịnh Tường trên
một chiếc trực thăng Huey của QLVNCH, hoặc là nằm trong căn cứ Biệt Ðộng Quân
Trà Cú bên sông Vàm Cỏ Ðông.
Nói tiếng Việt là điều vô cùng quan trọng, và trong vòng một tháng sau khi
tới Việt Nam, thật rõ ràng hiển nhiên là những điều tôi từng nghe ở Mỹ, dù là
tin tức báo chí hay là những cuộc thảo luận ngốc nghếch trong các trường đại
học, mà có thể diễn tả được những gì tôi đang trải qua và gặp phải. Nói vắn
tắt, tôi tự hỏi: “Nếu tất cả những người ở Mỹ quả là đang nói về Việt Nam, thì
mình đang ở nơi nào đây?”
Những thời khắc ngoài giờ làm việc của tôi được dàn trải trọn vẹn trong một
kích thước thực tế hoàn toàn Việt Nam. Dù là ở Sài Gòn, Cao Lãnh, hay Rạch Giá,
tôi cũng lui tới những cái quán nhỏ, với những bàn cà-phê, mì, cháo… háo hức
lắng nghe người dân người lính Việt Nam nói chuyện, tôi hỏi han, và học được
thật nhiều, nhiều hơn những gì tôi từng học ở Hoa Kỳ.
***
Sự học tập của tôi không dừng lại ở năm 1975. Từ đó đến nay tôi đã đọc hằng
feet khối những tài liệu giải mật và hằng trăm cuốn sách, kể cả những tác phẩm
tiếng Việt, phỏng vấn đến mức từ kỷ lục này qua kỷ lục nọ những người cựu chiến
binh gốc Ðông Nam Á và gốc Hoa Kỳ, săn tìm trong hằng trăm trang web Việt Nam
và Ðông Nam Á trên Internet. Vẫn còn rất nhiều điều về Việt Nam, Lào, Cambodia
và Thái Lan hơn là những gì công chúng Hoa Kỳ tưởng, và những kết luận do những
người ở những xứ ấy tự trình bày lên thì lại không phù hợp với những gì mà hầu
hết mọi con người (ở Mỹ) tưởng là họ biết.
Quả là có những vấn đề nghiêm trọng về tham nhũng. Ðúng là có những tấm
gương về lãnh đạo bất xứng. Tuy nhiên, chẳng phải ai nói hay gợi ý gì với tôi,
mà chính là ngay lần đầu tiên đến vói Sư Ðoàn 9 Bộ Binh VNCH, tôi đã phát giác
khả năng dày dạn và đầy chuyên nghiệp trong những hoạt động mà tôi chứng kiến ở
một trung tâm hỏa lực cấp sư đoàn. Cũng chẳng ai nói với tôi là Sư Ðoàn 7 Bộ
Binh VNCH, cái đơn vị mãi bị kết tội vì khả năng chiến đấu kém cỏi ở Ấp Bắc
nhiều năm trước, đã biến thái thành một đơn vị có hiệu năng chiến đấu cao dưới
tài lãnh đạo chỉ huy của Tướng Nguyễn Khoa Nam, một con người thanh liêm không
một tì vết, song song với tài năng về chiến thuật, mà đến nay vẫn không hề được
công chúng Hoa Kỳ biết tới, tuy đã được người Việt Nam tôn sùng đúng mức.
Cũng không hề có ai ngụ ý hay nói với tôi rằng có thể là lực lượng Ðịa
Phương Quân tỉnh Hậu Nghĩa, là những dân quân của tỉnh, đã làm mất mặt chẳng
những một mà tới ba trung đoàn chính quy của quân đội miền Bắc trong chiến dịch
tấn công năm 1972 của Hà Nội. Họ đã nhai nát và nhổ phun ra nguyên cả lực lượng
tấn kích của đối phương, một lực lượng có thể đã làm đổi chiều lịch sử vào thời
kỳ đó. Ðịa Phương Quân không được Pháo Binh và Không Quân sẵn sàng yểm trợ như
lực lượng chính quy VNCH, trong đó kể cả Nhảy Dù, Biệt Ðộng Quân, Thủy Quân Lục
Chiến. Quân địa phương chỉ dựa vào kỹ thuật chiến đấu căn bản bộ binh. Nếu quân
Bắc Việt đánh thủng được chiến tuyến này thì họ đã lập tức trực tiếp đe dọa Sài
Gòn, chỉ cách đó 25 dặm, buộc Sư Ðoàn 21 Bộ Binh VNCH phải rút khỏi quốc lộ 13,
từ đó để cho lực lượng Bắc Việt hướng thẳng vào An Lộc. Và như Tiến Sĩ James H.
Willbanks viết trong tác phẩm xuất sắc của ông (về trận An Lộc), Sư Ðoàn 21 tuy
không thành công trong việc phá vòng vây An Lộc nhưng cũng đã buộc Bắc Việt
phải đưa một sư đoàn đổi hướng khỏi chiến trường An Lộc, nếu không, nơi này có
thể đã sụp đổ với những hậu quả khốc liệt.
Nói vắn tắt, QLVNCH, một cách toàn diện, đã có khả năng cao hơn nhiều so
với những gì tôi biết trước khi tôi qua Việt Nam, và càng cao hơn nhiều so với
những gì được chuyển tới cho người dân Mỹ.
Ngày trước… và ngày nay cũng vậy.
***
Trở lại thời kỳ đang thảo luận trong bản thuyết trình này, ai cũng biết
QLVNCH vướng mắc nhiều vấn đề trầm trọng. Ðiều này là hiển nhiên. Nếu không như
vậy thì đã chẳng cần phải yêu cầu những đơn vị chiến đấu của Hoa Kỳ, Úc, Nam
Hàn, Thái Lan và New Zealand tới đó.
Tuy nhiên, còn có những chỉ dấu cho thấy lực lượng VNCH khi được trang bị
đúng mức và chỉ huy tốt đẹp thì sẽ có khả năng tới đâu. Năm 1966, một Tiểu Ðoàn
Biệt Ðộng Quân VNCH đã gây thiệt hại nặng và đã “giúp” giảm quân số chỉ còn 1
phần 10 cho một trung đoàn Bắc Việt đông gấp ba lần họ ở Thạch Trụ. Tiểu đoàn
này được Tổng Thống Johnson tặng thưởng “Huy chương của tổng thống Hoa Kỳ.” Ðại
Úy Bobby Jackson, cố vấn tiểu đoàn này, đã mô tả người đối tác của ông, Ðại Úy
Nguyễn Văn Chinh (hay Chính?), như là con người tuyệt nhiên không hề sợ hãi.
Tiểu Ðoàn 2 TQLC, mang huy hiệu Trâu Ðiên, đã từng bắt nạt nhiều đơn vị Cộng
Sản miền Nam và chính quy Bắc Việt, chứng tỏ sự xứng hợp của huy hiệu “Trâu
Ðiên” (càng có ý nghĩa đối với những ai đã từng gặp phải một con trâu đang nổi
giận và bị nó ăn hiếp!) Công trạng của họ không hề được tường trình trong giới
truyền thông tin tức của Hoa Kỳ, và về sau cũng bị bỏ quên trong cái gọi là
“lịch sử”…
Năm 1968, trong bối cảnh cuộc Tổng Công Kích 68 thất bại của Hà Nội, các
nhà hoạch định chính sách của Hoa Kỳ thấy rõ là kế hoạch Việt Nam hóa phải được
tăng tiến, nhưng nhiều người (Mỹ) lại lầm tưởng đó là ranh giới giữa hai thời
kỳ: thời kỳ QLVNCH không chiến đấu, và bây giờ là lúc họ bắt đầu chiến đấu.
Thái độ này đã bỏ quên dữ kiện là mức tử vong vì chiến sự hằng tháng của QLVNCH
đã vượt xa mức tổn thất trong toàn cuộc chiến của tất cả các lực lượng đồng
minh cộng lại.
Rốt cuộc thì QLVNCH cũng được cung cấp vũ khí tối tân, thay thế những trang
bị thời thế chiến thứ hai mà hầu hết quân lực này phải sử dụng (khoảng đầu năm
1968 chỉ có 5% quân đội VNCH được trang bị súng M16), nhìn chung thì thua kém
vũ khí của Việt Cộng và bộ đội Bắc Việt. Ðồng thời, quân số cũng tăng tiến,
theo như bảng dưới đây trình bày: (bảng ghi những con số gia tăng quân số của
các lực lượng chính quy và Ðịa Phương Quân, Nghĩa Quân, từ năm 1968 đến năm
1972, cho thấy quân số tổng cộng tăng 28%, từ 820 ngàn lên 1 triệu 48 ngàn
quân. Trong đó, Không Quân gia tăng quân số tới 163%, Hải Quân tăng 110%, Lục
Quân tăng gần 8% quân số).
Trong bảng này, nhóm từ Anh ngữ ARVN, tức the Army of Republic of Vietnam,
có nghĩa là Lục Quân Việt Nam, chỉ bao gồm 38% QLVNCH (tác giả không đồng ý
dùng nhóm chữ ARVN để chỉ QLVNCH, và ông dùng nhóm chữ RVNAF, Republic of
Vietnam’s Armed Forces). Ngoài ra còn những thành phần khác, gồm Cảnh Sát Dã
Chiến, Nhân Dân Tự Vệ, và các Toán Xây Dựng Nông Thôn. Lực lượng Xây Dựng Nông
Thôn không được coi là lực lượng chiến đấu, còn lực lượng Nhân Dân Tự Vệ thường
bị chế diễu nhưng (những lực lượng này) cũng là chướng ngại cho quân Việt Cộng
và quân đội Bắc Việt (North Vietnam’s Army trong nguyên bản). Có lần một toán
Cán Bộ Xây Dựng Nông Thôn đã đẩy lui cả một tiểu đoàn Việt Cộng ở tỉnh Vĩnh
Long. Các toán viên biết gọi pháo binh của tỉnh yểm trợ. Chuyện này cũng không
được biết đến để ghi nhận vào tài liệu.
Thành phần của lực lượng Nhân Dân Tự Vệ thì quá trẻ, hay quá già, hay vì
thương tật nên không gia nhập quân đội chính quy, chỉ phục vụ như lực lượng
phòng vệ làng ấp chống lại những toán thu thuế, tuyển mộ, hay tuyên truyền của
Cộng Sản địa phương. Nhưng Nhân Dân Tự Vệ cũng là một yếu tố mà Cộng Sản địa
phương phải đối phó sau năm 1968. Trước đó không có lực lượng này, Việt Cộng ở
địa phương tự do đi vào ấp xã lúc ban đêm. Nhiều lúc Nhân Dân Tự Vệ không có
hiệu quả, nhiều khi họ bị tuyên truyền để đi theo Việt Cộng, nhưng có nhiều lúc
khác lại có những báo cáo như sau: (trích từ các sách vở của các tác giả người
Mỹ).
“Hai Việt Cộng đang bắt cóc một Nhân Dân Tự Vệ thì một Nhân Dân Tự Vệ khác
xuất hiện, bắn chết hai Việt Cộng này bằng súng M.1 (không ghi rõ garant hay
carbine), tịch thu được một súng AK47 và một súng lục 9 ly.”
Và “cả hai ấp Prey Vang và Tahou đêm nay bị bắn súng nhỏ và B-40. Nhân Dân
Tự Vệ địa phương đẩy lui hai toán trinh sát nhẹ.”
Còn nữa: “Một Nhân Dân Tự Vệ 18 tuổi đã là người bắn cháy chiếc xe tăng đầu
tiên trong rất nhiều xe tăng T 54 của Bắc Việt bị tiêu hủy tại An Lộc trong
cuộc bao vây năm 1972.”
Hà Nội không mấy hài lòng về lực lượng này, theo như tài liệu sau đây:
“Chúng (QLVNCH) tăng cường các lực lượng bù nhìn, củng cố chính quyền bù
nhìn và thiết lập mạng lưới tiền đồn cùng các tổ chức Nhân Dân Tự Vệ bù nhìn ở
nhiều làng xã. Chúng cung cấp thêm trang bị kỹ thuật và tính lưu động cho lực
lượng bù nhìn, thiết lập những tuyến phòng vệ, và dựng ra cả một hệ thống phòng
thủ và đàn áp mới ở những khu vực đông dân cư. Kết quả là chúng đã gây nhiều
khó khăn và tổn thất cho lực lượng bạn (Việt Cộng).”
Sự kiện này không thể xảy ra trước năm 1968, khi lực lượng Nhân Dân Tự Vệ
được thành lập và trang bị bằng những vũ khí thời thế chiến thứ hai do các lực
lượng QLVNCH chuyển giao lại.
Tương tự như vậy, lực lượng Nghĩa Quân, Ðịa Phương Quân với sự trợ giúp của
các toán cố vấn Mỹ lưu động, được tuyển mộ thêm từ năm 1968 và trang bị vũ khí
tốt hơn, khởi sự tiến bộ, như Cố Vấn David Donovan thuộc một toán lưu động
chứng kiến trong một trận tấn công bộ binh năm 1970:
“Chúng tôi vừa vượt khỏi khu mìn bẫy chính thì bị hỏa lực từ một rặng cây
trước mặt bắn tới. Nước văng tung tóe xung quanh, đạn bay véo véo trên đầu,
trong tiếng súng nhỏ nổ giòn. Binh sĩ bây giờ phản ứng tốt lắm, không giống như
trước kia cứ mỗi khi bị bắn là họ gần như tê liệt. Trung Sĩ Abney chỉ huy cánh
đuôi của đội hình hàng dọc, bung qua bên phải, sử dụng như thành phần điều động
tấn kích, trong khi chúng tôi ở phía trước phản ứng lại hỏa lực địch. Khi toán
của Abney tới được chỗ địa thế có che chở thì họ dừng lại và bắt đầu tác xạ.
Dưới hỏa lực bắn che đó chúng tôi tràn tới một vị trí khác. Hai thành phần
chúng tôi yểm trợ nhau như vậy và tiến được tới hàng cây, sẵn sàng xung phong.
Ba người trong toán của tôi bị trúng đạn, không biết nặng nhẹ ra sao nhưng mọi
người đều xông tới. Chúng tôi đã hành động khá hay.”
Kinh nghiệm của Donovan không phải là độc nhất. Cố vấn John Cook nhắc lại
niềm lạc quan của ông vào năm 1970:
“Chúng tôi (tức Cook và sĩ quan đối tác phía Việt Nam) đang rất lên tinh
thần, cảm thấy như mình là ‘kim cương bất hoại.’ Tinh thần chiến đấu và hăng
hái chủ động tấn công trong quận hết sức cao, khiến chúng tôi truy kích quân
địch một cách gần như khinh suất, liều lĩnh.”
Những thành tích như vậy không phải mọi nơi đều có. Có những đơn vị không
đáp ứng được trong thời kỳ thay đổi và vẫn bị lãnh đạo chỉ huy kém cỏi, chẳng
thực hiện một cuộc hành quân lục soát với chiến thuật chủ động tấn công nào. Có
khi cố vấn Hoa Kỳ suýt bị giết hay bị dọa giết bởi những sĩ quan địa phương của
Việt Nam mà họ không hòa thuận được. Nhiều cố vấn Mỹ khác không gặp cảnh ngộ
khó chịu đó, nhưng cũng chẳng có ấn tượng tốt nào về hoạt động của những đơn vị
mà họ cố vấn. Dù sao thì những chuyện tích cực và thích thú do cố vấn Mỹ chứng
kiến cũng đầy rẫy, nhưng lại hoàn toàn vắng bóng trong những cuộc thảo luận
trên nước Mỹ hay trong ý tưởng của những người Mỹ bình thường, cũng như trong
những gì được dạy dỗ tại các trường học Hoa Kỳ.
Sự tiến bộ hay những tấm gương xuất sắc ngay trước mắt không phải chỉ hiển
hiện trong những lực lượng lãnh thổ và những Sư Ðoàn Bộ Binh VNCH, (là những
đơn vị) thường bị cho là không mấy nổi trội về chiến thuật chủ động tấn công.
Cố vấn về kế hoạch bình định của tỉnh Quảng Trị, Richard Stevens, trước đó từng
phục vụ trong Thủy Quân Lục Chiến Mỹ tại Việt Nam, tỏ ra ngạc nhiên trước thành
tích của một đơn vị thuộc Sư Ðoàn 1 Bô Binh Việt Nam trong trận tấn công một vị
trí phóng hỏa tiễn của quân Bắc Việt:
“Tôi có ấn tượng hoàn toàn tốt, và thực sự là kinh ngạc, về cách thức hành
quân và sự táo bạo của họ trong mọi việc… Ðây là cuộc hành quân thứ 13 như vậy
do vị Tiểu Ðoàn Trưởng này chỉ huy. Ta đang nói chuyện về những chuyên gia hết
sức tinh thục trong những gì họ làm, những người đã từng thực hiện những công
tác xởn tóc gáy và vẫn tiếp tục thực hiện… Các cố vấn của trung đoàn này luôn
luôn nói với tôi lúc tôi ra đó, rằng: ‘Anh đang làm việc với những người giỏi
nhất. Chúng ta không có điều gì để mà có thể nói cho những người này làm. Chúng
ta (các cố vấn) chỉ có việc yểm trợ hỏa lực mà thôi. Còn về sự hiểu biết trong
hành quân, thì họ là người dạy chúng ta.’ Chúng tôi có các cố vấn người Úc và
người Mỹ, họ đều nói y như nhau.” (tác giả trích luận án Master năm 1987 của
Howard C.H Feng, Ðại Học Hawaii).
Ở miền Nam, trong lãnh thổ tỉnh Ðịnh Tường thuộc Quân Khu IV, Sư Ðoàn 7 Bộ
Binh VNCH cũng thi hành nhiệm vụ không hề có khuyết điểm, theo lời xác nhận của
các cố vấn và các phi công Mỹ lái trực thăng chuyển quân cho các binh sĩ Sư
Ðoàn 7 trong những trận tấn công. Sư đoàn này từng bị mang tiếng là sư đoàn
“lùng và né” (thay vì “lùng và diệt,” search and destroy), có thể vì trận Ấp
Bắc hồi 1963, nhưng những ai trực tiếp công tác với họ không thể nói gì hơn là
những lời ca tụng, ngưỡng mộ về sự tinh thông chiến thuật và tinh thần hăng hái
xông xáo. Một cựu cán binh Bắc Việt xác nhận về sự dũng cảm của Sư Ðoàn 7 Bộ
Binh:
“Vùng giải phóng bị thu hẹp… Tôi mất thêm thời gian di chuyển quanh, cố
tránh xa các cuộc hành quân của quân đội VNCH.
Ở Bến Tre (tức tỉnh Kiến Hòa), Sư Ðoàn 7 VNCH là lực lượng chính gây nên
nhiều khó khăn. Hầu hết Sư Ðoàn được tuyển mộ ở vùng châu thổ sông Cửu Long nên
họ biết rành hết cả vùng. Họ thông thuộc vùng này cũng như chúng tôi” (tác giả
trích dẫn David Chenoff và Ðoàn Văn Toại, sách Chân Dung Kẻ Ðịch, Random House
ở New York xuất bản năm 1986).
Tình hình còn tồi tệ hơn khi các đơn vị quân đội Bắc Việt điền khuyết cho
các đơn vị “Việt Cộng,” không hiểu biết chút nào về vùng này và được trang bị
kém cho cuộc chiến kiểu các rặng cây ở phía bắc vùng châu thổ. Một tù binh cho
biết bị bắt sống không bao lâu sau khi tới, lúc anh ta và những người khác được
lệnh phục kích một cuộc hành quân càn quét của Sư Ðoàn 7 vào ngày hôm sau. Bố
trí xong trước bình minh, đội quân đáng lẽ phục kích người ta thì lại bị tấn
công từ phía sau do thành phần bên sườn của Sư Ðoàn 7, trước khi tới lượt lực
lượng chính. (tài liệu trích dẫn).
Kết quả của điều này thêm hiển nhiên trong thời gian giữa 1968 và 1971,
thời kỳ mà quân số lực lượng Hoa Kỳ giảm thiểu hơn một nửa, trong khi những
cuộc hành quân tấn công của Việt Cộng và quân Bắc Việt lại bị suy giảm rõ rệt:
(Bảng thống kê trong bài ở đoạn này cho thấy lực lượng Mỹ ở Việt Nam từ năm
1968 đến 1971 đã giảm 322 ngàn quân, tức 58%, các cuộc tấn công của Việt Cộng
và quân Bắc Việt cấp tiểu đoàn trở lên giảm 98%, chỉ còn 2 trận, những cuộc tấn
công lẻ tẻ của phía Cộng Sản cũng giảm, kể cả những vụ bắt cóc, khủng bố, trong
khi số xã ấp có an ninh tăng 56%, diện tích trồng tỉa lúa tăng 9,8%, thương
vong vì chiến tranh của dân và quân phía VNCH giảm 55%, quân số của Việt Cộng,
Bắc Việt trên toàn miền Nam giảm 21%).
Tỉ lệ về các cuộc tấn công lớn nhỏ của phía Cộng Sản giảm hơn là tỉ lệ giảm
quân số, cho thấy một sự sa sút toàn diện về khả năng quân sự, dưới tỉ lệ dự
đoán là 21% quân số sụt giảm. Ðiều này xảy ra trong khi quân số tham chiến của
Hoa Kỳ giảm tới 58%. Quân Cộng Sản Bắc Việt và Việt Cộng không những chỉ có mặt
ít hơn trên toàn lãnh thổ, mà còn kém khả năng tung ra những cuộc hành quân tấn
kích.
Nhiều con số thống kê của VNCH không chính xác, nhất là con số xã ấp có an
ninh thì lại còn kém xác thực hơn, nhưng biểu đồ khuynh hướng khá rõ ràng, và
không có bằng chứng dù về thống kê hay tin đồn vặt, mà nêu ra điều gì khác hơn
là sự xuống dốc thẳng đứng trong thời vận của quân Việt Cộng và quân đội Bắc
Việt trong khoảng thời gian từ 1968 đến 1971. Trong khi Việt Cộng, gọi như vậy
để phân biệt với quân Bắc Việt, không bị tiêu diệt hoàn toàn, và những ổ kháng
cự có ảnh hưởng mạnh do họ kiểm soát vẫn tồn tại ở những tỉnh như Chương Thiện,
Ðịnh Tường, Quảng Nam, Quảng Ngãi, thì Việt Cộng ở địa phương cũng không còn là
một lực lượng chiến lược. Nếu không có sự xâm nhập đại quy mô của quân Bắc Việt
và sự cung cấp vũ khí hiện đại, thì chiến tranh đã dần dần tự tàn lụi. Những
đơn vị và khu vực của Việt Cộng tồn tại được cũng hoàn toàn không phụ thuộc vào
quân đội Bắc Việt để sống còn.
Tác giả “phản chiến” Frances Fitzgerald của cuốn “Lửa Trong Hồ” (thật khôi
hài, là cuốn sách bị đả kích bởi cả người chỉ đạo về tư tưởng của Hà Nội,
Nguyễn Khắc Viện, lẫn người ủng hộ Mặt Trận Giải Phóng và Hà Nội, Ngô Vĩnh
Long), nhìn nhận rằng khả năng sinh tồn của cả Việt Cộng lẫn QLVNCH hồi năm
1966 là mỗi bên 50%, nhưng đến 1969 thì cơ hội sống còn của Việt Cộng chỉ còn
10%, trong khi tỉ lệ này phía QLVNCH lên hẳn 90%. Nguyễn Văn Thành, sau 23 năm
theo Việt Cộng, hồi chánh năm 1970, cho rằng cứu cánh của Mặt Trận Giải Phóng
là vô vọng. Ông ta nêu ra những cuộc hành quân gia tăng của QLVNCH, sự phát
triển những đơn vị Nghĩa Quân xã quận và các chương trình Nhân Dân Tự Vệ, cùng
với kế hoạch cải tổ về ruộng đất của chính phủ VNCH, coi đó là những việc không
thể đối phó được nữa. Stanley Karnow khẳng định thẳng thừng trong cuốn sách
được đánh giá cao quá đáng của ông, không cần giải thích nguyên do, rằng đến
năm 1971, thì “riêng phía Việt Cộng không phải là đối thủ của quân đội chính
quyền Sài Gòn.”
Don Colin trải qua nhiều năm ở Việt Nam, được nhiều người biết đến qua lối
bày tỏ thô lỗ, phản bác thô bạo và quá đáng, cộng với lối rủa sả om sòm những
gì mà ông ta coi là tào lao nhảm nhí. Ông này đã phải chịu đựng những khó khăn
trở ngại, những khởi đầu sai lạc cùng những vấn đề tương tự, bị coi như toàn
những điềm gở. Nhưng năm 1971 Don Colin cũng thấy những kết quả tích tụ hiển
hiện ở vùng châu thổ:
“Ba mươi tháng trước, con số những cấp chỉ huy giỏi ở Quân Khu IV chỉ đếm
được trên một bàn tay. Ngay cả tư lệnh Quân Ðoàn, một cấp chỉ huy tốt, trong
sạch và tương đối có khả năng, cũng nhút nhát, thiếu óc sáng tạo và không đủ
sức kích động thuộc cấp vào những hoạt động xông xáo và tích cực. Cấp tư lệnh
sư đoàn thì phần lớn thiếu khả năng, hầu hết các tỉnh trưởng cũng kém cỏi và
tham nhũng. Các cấp chỉ huy thuộc quyền của họ thì chẳng những noi gương xấu mà
nhiều khi còn phạm khuyết điểm quá hơn cấp trên nữa. Nhưng nay thì chuẩn mực
chung về tài năng, sự trong sạch và tận tâm đã tăng lên tới mức mà trước kia tôi
cho là không thể tưởng tượng được. Sự thay đổi đặc biệt này khiến tôi thêm lạc
quan tin tưởng ở khả năng tối hậu của chính phủ trong việc kiểm soát được Việt
Nam và thành lập một chính quyền ổn định.”
***
Rồi tới cuộc tấn công 1972 của Hà Nội, một cuộc tấn công tốc chiến phối hợp
phương tiện cơ khí kiểu cổ điển (a classical blitzkrieg), với đặc điểm là những
vũ khí hạng nặng và những vũ khí chết người được đưa ra sử dụng như hỏa tiễn
tầm nhiệt phòng không SA-7, hỏa tiễn công phá điều khiển bằng dây AT-3, những
đoàn chiến xa T-54 được yểm trợ bằng mấy trăm khẩu đội hỏa tiễn 122 ly, đại bác
130 ly, hơn hẳn tất cả mọi thứ từng được Hoa Kỳ cung cấp cho lực lượng pháo
binh QLVNCH.
QLVNCH bị đánh tơi bời, có lúc đã gần tới kết cuộc, và sự đổ vỡ hiển hiện
rõ ràng. Nhưng cái Quân Lực đang nằm đo ván đã đứng dậy ở tiếng đếm thứ 8, hồi
phục sức lực và bẻ gãy cuộc tấn công nặng nề nhất ở Việt Nam, tính tới lúc đó.
Không ai khác hơn là học giả hàng đầu của Hoa Kỳ về Việt Nam, Douglas Pike, đã
tuyên bố cuộc xâm lược của Hà Nội thất bại là vì “…Nam Việt Nam chiến đấu hơn
hẳn quân đội xâm lăng đến từ phương Bắc.”
Nhiều nhà bình luận, kể cả Tướng Ngô Quang Trưởng, nói tới không lực Hoa Kỳ
như một yếu tố quyết định, thì đó đúng là yếu tố chính. Nhưng những điều ngụ ý
nói là QLVNCH không thể chiến đấu nếu như không có không lực Mỹ, thì đã thiếu
sót hai điều căn bản:
– Thứ nhất, quân đội Mỹ cũng chỉ được yểm trợ bằng không lực giống như
QLVNCH đã được.
– Thứ hai, là điểm người ta ít nhìn ra: không lực Hoa Kỳ là một yếu tố bổ sung
để cân bằng với hai lực lượng vượt trội của Bắc Việt là thiết giáp và, lợi hại
hơn cả, là lực lượng pháo binh hơn hẳn, hỏa tiễn 122 ly chính xác và đại pháo
130 ly gây tàn phá quy mô ở tầm tối đa 19 dặm (32 km). Hoa Kỳ không cung cấp
cho đồng minh của họ, VNCH, những vũ khí lợi hại ngang bằng, nhất là về pháo
binh, như Liên Xô và Trung Cộng cung cấp cho Hà Nội. Hà Nội có hằng trăm hỏa
tiễn 122 và đại pháo 130. QLVNCH không đủ đại bác để phản pháo, chỉ có 24 khẩu
175 ly, không chính xác bằng, bắn chậm hơn các loại 122 ly và 130 ly. Cả pháo
đài kiên cố cũng không chịu nổi đạn 130 ly khoan hầm, nổ chậm.
Các vũ khí phòng không và xe tăng của khối Cộng Sản bị
QLVNCH tịch thu.
Tựu trung, trở lại đề tài không lực, thì Không Quân Việt Nam đã thi hành
nhiệm vụ một cách đáng kính phục trong các trận chiến năm 1972, nhưng vẫn bị
giới bình luận Hoa Kỳ hoàn toàn quên lãng. Một chuyên viên điều không tiền
tuyến của Hoa Kỳ tỏ ra ngưỡng mộ một phi công A-37 của Việt Nam mà anh ta cùng
thi hành một vụ tấn công không lục vào vị trí quân Bắc Việt:
“Anh ta đâm chúc đầu chiếc máy bay xuống tới tầm vũ khí liên thanh, và quả
nhiên tôi thấy nhiều lằn đạn lửa vạch đường sáng bao quanh Pepper dẫn đầu. Tôi
la lên báo động, thì đã thấy anh thả bom ở độ cực thấp và ghi một bàn tuyệt hảo
trúng ngay bức tường. Trong những lần oanh kích tiếp theo ngay đó, các phi công
của Không Quân Việt Nam cũng ghi bàng hoàng hảo mỗi lần đâm xuống, cũng là mỗi
lần họ bị đạn phòng không bắn lên xối xả… Hỏa lực từ mặt đất vô cùng mạnh mẽ.
Quân Bắc Việt có vẻ như biết rằng đối thủ của họ là người Nam Việt Nam.”
“Tôi tin chắc là hai chiếc A-37 sẽ bị bắn rơi, nhưng cả hai đều xả hết bom
đạn của họ trúng đích, không hề hấn gì. Hai phi công Không Quân Việt Nam đã
trình diễn một màn tuyệt vời, và tôi ngưỡng phục lòng can đảm của họ trên cả sự
thông minh. Trong giây phút đó lòng can đảm ấy đã vượt hẳn sự khôn ngoan trong
những tính toán hơn thiệt về sự an toàn của cá nhân họ.”
Ðây không phải là một sự kiện riêng lẻ, theo như một quan sát viên Không
Quân của Mỹ chứng thực:
“Không Quân Việt Nam tự chứng tỏ sự trưởng thành trong cuộc tấn kích 1972…
Trong trận phòng thủ Kontum, KQVN thật cừ khôi, hết sức tuyệt diệu.”
QLVNCH lãnh cú mạnh nhất của Hà Nội năm 1972, mạnh hơn nhiều so với trận
Tết Mậu Thân 1968, về khía cạnh quân số và hỏa lực. Ước lượng có khoảng gần 150
ngàn quân Bắc Việt đã tham chiến trong giai đoạn 1, và thêm 50 ngàn quân khác
bổ sung khi trận chiến tiếp diễn. Mặt khác, trong trận Tết ’68 chỉ có 84 ngàn
quân Việt Cộng và Bắc Việt tham chiến, với pháo binh và xe tăng rất hạn chế
(ngoại trừ ở Quân khu I).
QLVNCH tiếp tục hoạt động tốt đẹp sau khi Hiệp Ðịnh Paris gian lận được ký
kết và bị vi phạm lập tức. Cuối Tháng Mười Một năm 1973, một lực lượng đặc
nhiệm VNCH đã đánh đuổi Sư Ðoàn 1 Bắc Việt ra khỏi căn cứ Thất Sơn, gây tổn
thất nặng tới nỗi Sư Ðoàn 1 này của Bắc Việt phải giải thể, số quân sống sót
phải gia nhập các đơn vị khác. Ít tháng sau, Sư Ðoàn 7 VNCH tung ra cuộc hành
quân lớn để quét các đơn vị Bắc Việt khỏi mật khu Tri Pháp ở vùng giáp ranh ba
tỉnh Ðịnh Tường, Kiến Tường, Kiến Phong, gây tổn thất nặng cho địch. Tri Pháp
chưa bao giờ bị xâm phạm trong suốt cuộc chiến tranh, có đặc điểm là những vị
trí phòng thủ kiên cố; cuộc thất trận gây hổ thẹn tới mức nhà cầm quyền Cộng
Sản cảnh cáo các cấp là phải dấu sự thất bại đừng để bộ đội của họ biết, sợ bộ
đội xuống tinh thần.
Các phái đoàn Ba Lan và Hungary trong cái Ủy Ban Liên Hiệp Quân Sự Bốn Bên
bất lực, chỉ là gián điệp cho Cộng Sản Hà Nội. Nhưng một trong những báo cáo
của họ năm 1973 xác định là không có đơn vị Việt Cộng nào ngang sức với QLVNCH,
và cả những đơn vị thiện chiến nhất của Bắc Việt cũng không sánh được với các
đơn vị Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến của VNCH.
***
Tuy nhiên đến giữa 1974 thì việc Hoa Kỳ cắt giảm viện trợ bắt đầu từ từ
“siết cổ” QLVNCH, và đạo quân này chỉ còn nước xuống dốc dần dần từ khi ấy. Ðến
1975 cấp số cung ứng có sẵn (Available Supply Rate- ASR) dành cho đạn đại bác
đã giảm nhanh tới mức không thể chấp nhận, như theo bảng dưới đây, cho mỗi khẩu
đội bắn trong một ngày:
|
Năm 1972
|
Năm 1975
|
Tỉ lệ giảm
|
Ðạn 105 ly:
|
180 viên
|
10 viên
|
94%
|
Ðạn 155 ly:
|
150 viên
|
5 viên
|
97%
|
Ðạn 175 ly
|
30 viên
|
3 viên
|
90%
|
Mọi thứ bị cắt đến tận xương, rồi tận tủy. Nhiều binh sĩ bộ binh được cấp
số đạn căn bản là 60 viên M16 cho một tuần lễ. Nhiều đơn vị cấm binh sĩ bắn M16
liên thanh, chỉ được bắn phát một. Các đơn vị chạm địch có khi bị giới hạn chỉ
còn được bắn yểm trợ hai trái đạn đại bác, ngoại trừ khi bị tràn ngập. Thiếu cơ
phận thay thế, xe tăng, tàu giang tuần, máy bay,… nằm ụ chờ rỉ sét (“cho mối
mọt ăn”). Tệ hơn nữa, binh sĩ QLVNCH và gia đình họ phải chịu thiếu thốn khi
nền kinh tế bị lạm phát 50%, và 25% thất nghiệp. Một bản nghiên cứu của cơ quan
DAO thực hiện năm 1974 tiết lộ 82% binh sĩ VNCH không có đủ thực phẩm cho nhu
cầu của gia đình. Ðói kém và suy dinh dưỡng làm xuống tinh thần cùng khả năng
chiến đấu.
Tình hình những tháng sau đó càng xuống dốc, và người ta đau lòng chứng
kiến một cái chết chắc chắn sẽ đến vì hằng ngàn vết thương. Một năm sau, khi
chính phủ Việt Nam cuối cùng sụp đổ, và, theo như những sách gọi là sách sử,
thì nhiều người Mỹ ngạc nhiên, tự hỏi tại sao mọi thứ có thể sụp đổ nhanh chóng
như vậy. Lẽ ra câu hỏi đáng chú ý hơn phải là tại sao QLVNCH đã có thể chiến
đấu dài lâu sau thời gian giữa năm 1974, với sự thiếu thốn về vũ khí, trang bị,
đạn dược, nhiên liệu, thuốc men, với những cái bụng lép kẹp, và gia đình cũng
đói khát không kém?
Khi bắt đầu sự đổ vỡ tan hoang, và đám đông hỗn độn theo lệnh ông Thiệu rút
khỏi vùng cao nguyên, thì khủng hoảng và kinh hoàng xảy đến, phần nào tăng thêm
vì những lệnh lạc trái ngược phát xuất từ dinh Tổng Thống. Nhưng trong sự sụp
đổ nhục nhã sau cùng, vẫn có không ít những trận “Alamo” nhỏ của những người
lính VNCH chiến đấu đến phút cuối. Sư Ðoàn 18 BB đứng vững ở Xuân Lộc là một
trận anh hùng ca, nhưng sự có mặt và vai trò của của Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù trong
trận này không hề được biết đến. Khi Quân Khu II đổ vỡ và kết cuộc đã gần, Sư
Ðoàn 7 VNCH vẫn đánh bại một nỗ lực của quân Bắc Việt muốn cắt quốc lộ 14, con
đường quốc lộ duy nhất nối vùng châu thổ Cửu Long với Sài Gòn.
Vào ngày cuối, gọi là “Ngày Quốc Hận” (tác giả viết bằng tiếng Việt), một
máy bay AC-119 trang bị liên thanh sáu nòng do các Trung Úy Thanh và Trần Văn
Hiền (hay Thành, Hiển?) còn bay quanh Sài Gòn yểm trợ hỏa lực cho những đơn vị
VNCH lâm chiến sau cùng. Hết xăng, hết đạn, họ đáp xuống đổ xăng và lấy thêm
đạn, sĩ quan hành quân biểu họ không cần cất cánh nữa, tất cả đã mất hết rồi.
Nhưng các trung úy Thanh và Hiền vẫn vững chí, nhận nhiên liệu và đạn dược, và
được hai chiếc A1H-Skyraider tháp tùng do Thiếu Tá Trương Phụng và Ðại Úy Phúc
lái, họ tiếp tục lại một trận chiến tuyệt vọng. Sau cùng chỉ còn Ðại Úy Phúc
sống sót, oanh kích đến khi hết đạn. Hai Trung Úy Thanh, Hiền và Thiếu Tá
Trương Phùng đều bị SA-7 bắn rơi, tử trận. Họ đã chiến đấu đến mãi tận giây
phút cuối cùng!
Một cách tổng quát, cứ bị đói như QLVNCH đã bị thì không một quân đội nào
có thể chống lại cuộc tấn công cuồng bạo của quân đội Bắc Việt, với thừa ứ
những khẩu pháo, xe tăng, vũ khí, nhiên liệu, xe tải quân, đạn dược, do khối
Cộng Sản cung cấp. Trước một đạo quân VNCH bị rút ruột vì cắt viện trợ như vậy,
quân đội Bắc Việt đã phải tung ra tất cả những gì họ có. Chừng 400 ngàn quân
Cộng Sản, gần 90% là bộ đội miền Bắc, được đưa ra trận để đánh bại QLVNCH. Hà
Nội chưa bao giờ từng tung ra một lực lượng khổng lồ và hiện đại như họ đã ném
vào trận chiến năm 1975. Hà Nội chưa từng rút ra tất cả các đơn vị từ Lào,
Cambodia. Về lượng, quân số 400 ngàn là gần gấp 5 số quân Việt Cộng và Bắc Việt
lâm chiến hồi Tết 1968, trong khi về phẩm, còn có hằng trăm đại bác tầm xa,
hằng trăm xe tăng, hằng ngàn xe tải, và nguyên một kho vũ khí hiện đại, Ðoàn
quân viễn chinh năm 1975 có hơn gấp năm lần khả năng chiến đấu của lực lượng
Cộng Sản hồi Tết Mậu thân 1968.
Xem xét sự việc từ một khía cạnh khác, có thể phán đoán mà không sợ sai lầm
rằng giả sử quân đội Bắc Việt bị yếu đi vì cắt giảm mức cung ứng như QLVNCH đã
gánh chịu, thì họ không bao giờ có thể tung ra một cuộc tổng công kích sau
cùng, mà hẳn đã yếu kém hơn thế nhiều. Ưu thế hỏa lực quyết định chiến trường,
chẳng phải là điều gì mới lạ trong lịch sử quân sự. Vào lúc cuối, QLVNCH chịu
sự tổn thất khoảng 275 ngàn tử trận, không kể con số bị ám sát, trong một quốc
gia mà dân số trung bình khoảng 17 triệu. Nước Mỹ với dân số 200 triệu, nếu
chịu tổn thất với tỉ lệ tương đương trong cùng khoảng thời gian ấy, con số tử
vong sẽ là 3 triệu 200 ngàn, cần dựng thêm 56 bức tường đá đen nữa mới đủ ghi
tên tử sĩ. Ðiều này không lọt qua mắt của một số nhà quan sát. Sir Robert
Thompson, tuy biết rõ những nhược điểm của QLVNCH, cũng kết luận:
“Quân đội và chính phủ VNCH vượt qua những cuộc khủng hoảng quốc gia và cá
nhân mà có thể đã nghiền nát hầu hết mọi người, và mặc dù mức tổn thất có thể
gây kinh ngạc và làm sụp đổ Hoa Kỳ, VNCH vẫn duy trì được một triệu quân dưới
cờ sau hơn 10 năm chiến tranh. Vương Quốc Anh cũng làm được như thế, theo tỉ lệ
tương đương, trong năm 1917, sau ba năm chiến tranh, nhưng không bao giờ làm
được nữa. Hoa Kỳ chưa bao giờ làm được điều này.” (được nhấn mạnh và thêm vào)
Ký giả Peter Kann, sáng suốt hơn rất nhiều so vói những đồng nghiệp, cũng
nhập cuộc, sau khi Sài Gòn thất thủ:
“Nam Việt Nam quả đã phấn đấu để kháng chiến trong nhiều năm ròng rã, không
phải lúc nào cũng được Hoa Kỳ giúp đỡ dồi dào. Ít có quốc gia hay xã hội nào mà
tôi cho là có thể chiến đấu được lâu dài đến thế.”
***
Kế hoạch Việt Nam hóa có hiệu quả không? QLVNCH có trưởng thành nên một lực
lượng chiến đấu có khả năng?
Có thể biện luận rằng kế hoạch Việt Nam Hóa có hiệu quả, nhưng lại bị moi
ruột vì cắt giảm viện trợ chí tử. Năm 1974, có cuộc thăm dò các Tướng lãnh Hoa
Kỳ từng phục vụ tại Việt Nam, nhằm tìm hiểu chương trình Việt Nam hóa thành
công tới mức nào. Các câu hỏi và trả lời như sau:
1. QLVNCH là lực lượng chiến đấu rất đáng chấp nhận?: 8% đồng ý.
2. QLVNCH xứng đáng và cơ may hơn 50% đứng vững trong tương lai: 57% đồng
ý.
3. Có nghi ngờ khả năng QLVNCH có thể đẩy lui một cuộc tấn công mạnh của
lực lượng Việt Cộng – Bắc Việt trong tương lai: 25% nghi ngờ.
4. Ý kiến khác và không ý kiến: 10%
Như vậy 65% các tướng lãnh chỉ huy của Hoa Kỳ dành cho QLVNCH tỉ lệ phiếu
thuận, tuy nhiên những câu trả lời này có thể đã mang khuynh hướng lệch theo
chiều xuống. Không biết bao nhiêu vị Tướng phục vụ trong khoảng 1966-1967, trước
khi QLVNCH thực hiện những đổi thay to lớn nhất. Chức vụ mà các sĩ quan này đảm
trách là gì, họ làm việc với ai, và họ quen thuộc với Quân đội VNCH ở mức độ
nào, sự tăng tiến hiệu năng của lực lượng Ðịa Phương Quân, Nghĩa Quân, vân vân…
cũng không được tiết lộ. Câu hỏi cũng không hỏi: “Nếu quân đội Mỹ cũng bị cắt
giảm cung ứng như QLVNCH vào năm 1974-1975 thì còn đứng vững được bao lâu?”
Huấn luyện Nhân Dân Tự Vệ.
Ðiều có thể nói chắc chắn, là QLVNCH từ 1968 trở đi đã hoàn thành nhiệm vụ
tốt đẹp hơn nhiều so với những gì được biết đến một cách chung chung, rằng các
đơn vị QLVNCH đã thi triển tài năng để có thể đứng vững và đánh bại quân xâm
lược Bắc Việt trong năm 1972, thường là không cần tới sự yểm trợ hỏa lực ồ ạt
của pháo binh và không quân chiến thuật, như trong trường hợp của Nghĩa Quân và
Ðịa Phương Quân. Ðiều có thể nói chắc chắn nữa là sự hiểu biết của người Mỹ về
việc này thấp kém đến kinh tởm, thấp tít mù xa như vực thẳm không đáy.
Một yếu tố rất quan trọng nữa mà nhiều nhà bình luận bỏ qua và tới nay vẫn
không biết gì hơn, là thế hệ các Sĩ Quan, Hạ Sĩ Quan QLVNCH trẻ trung hơn, hết
lòng hết dạ vì mục tiêu một nước Việt Nam không Cộng Sản. Họ cởi mở, ngay thật,
biết lẽ phải, trong sạch, biết nhìn nhận phải trái, ví dụ như họ cho là người
Thượng không nên được đối xử thấp kém hơn, rằng tham nhũng cần bị công kích,
rằng một quốc gia Việt Nam mới cần được tạo thành, bung ra khỏi mọi xích xiềng
quá khứ. Nhiều người trong số này có thể có vị trí tốt để tránh quân dịch hay
giữ một chỗ an toàn, không ra trận; nhưng họ không cần cả hai thứ đó, đã có mặt
trong hàng ngũ phục vụ tại những vị trí chiến đấu đầy nguy hiểm, với tư cách
những người tình nguyện. Thái độ của họ được một sĩ quan trẻ của QLVNCH bày tỏ:
“Những người ở cỡ tuổi tôi vào quân đội vì chúng tôi có một lý tưởng, chúng
tôi hiểu được cuộc sống trong một thế giới tự do ra sao, và sống trong thế giới
Cộng Sản ra sao. Không phải như người ta nói, rằng những ai vào quân đội thì
chỉ vì đến tuổi lính và không có lý tưởng gì riêng cho mình. Nhưng người Mỹ
không bao giờ có vẻ hiểu ra điều đó.”
Trần Quốc Bửu là chủ tịch Liên Ðoàn Lao Công Nam Việt Nam, tương đương với
AFL-CIO của Hoa Kỳ. Ông có ảnh hưởng và có thể xếp đặt cho con trai ông tìm một
chỗ an toàn, an toàn hơn nhiều so với vị trí của anh này là một sĩ quan Bộ Binh
VNCH. Trong những tuần lễ sau cuối của VNCH, lúc bị Bắc Việt dập pháo tơi bời,
tuyệt vọng trong cảnh thiếu đạn, con ông Bửu viết cho ông một lá thư:
“Ba phải giải thích cho người Mỹ hiểu sự nghiêm trọng của tình hình chúng
ta… Họ phải cung cấp viện trợ quân sự và kỹ thuật như họ đã hứa. Con xin ba, ba
à, hãy can thiệp với họ. Nếu không, chúng ta sẽ bị đè bẹp và thất trận. Tụi con
không hèn nhát. Tụi con không sợ chết… Trong mọi tình huống, con sẽ giữ vững vị
trí và không rút lui.”
Con ông Bửu hy sinh tại chiến trường.
Bác Sĩ Phan Quang Ðán là Quốc Vụ Khanh về định cư và tị nạn, một cựu đối
lập với ông Ngô Ðình Diệm, nổi tiếng nhờ trong sạch. Ông có đủ quyền lực và ảnh
hưởng để giữ con trai là Phan Quang Tuấn khỏi bị nguy hiểm. Cả hai cha con đều
không chọn điều đó, và Tuấn tình nguyện lái A-1E Skyraider, chỉ dùng để yểm trợ
chiến thuật gần cho các đơn vị dưới đất. Sau khi tiêu diệt 7 xe tăng quân Bắc
Việt tại khu vực ngưng chiến, trong trận tấn công 1972 của Hà Nội, Ðại Úy Tuấn
bị hỏa lực phòng không địch bắn rơi, tử trận. Những cá nhân ấy không phải là
duy nhất. Người viết bài này hằng ngày gặp những phi công trực thăng võ trang
trẻ tuổi, những sĩ quan trẻ trong Biệt Ðộng Quân, Thủy Quân Lục Chiến, Nhảy
Dù,… tất cả đều tình nguyện lãnh nhiệm vụ tác chiến nguy hiểm, bị “lưỡng đầu
thọ địch,” với hệ tư tưởng về một nước Việt Nam Cộng Sản, và với nạn tham nhũng
trở thành thông lệ hằng ngày ở Sài Gòn.
Mời độc giả xem chương trình dạy tiếng Anh “ESL Garage: Bài học về âm tiết”
Một trong những tấm gương gây xúc động hơn nữa về lòng tận tụy với chính
nghĩa Quốc Gia, là cảnh các sinh viên sĩ quan trường Võ Bị Quốc Gia Ðà Lạt
chuẩn bị cho trận đánh sau cùng của họ, mà ký giả Pháp Raoul Coutard chứng
kiến, vào lúc họ tiến ra để chặn các đơn vị quân đội Bắc Việt đang tiến tới:
“- Anh sắp bị giết đó!
– Vâng. -Một sinh viên sĩ quan trả lời.
– Sao vậy? Ðã kết thúc rồi mà!
– Tại vì chúng tôi không ưa Cộng Sản.
Và, lòng đầy can đảm, những sinh viên trẻ tuổi trong bộ quân phục mới
toanh, tuyệt đẹp, giày bóng loáng, tiến ra để chờ chết.”
Trường Thiếu Sinh Quân ở Vũng Tàu, là trường nội trú, trong học trình có
dạy quân sự cho các thiếu niên Việt Nam có cha tử trận. Khi đến lúc cuối, những
em trai 12-13 tuổi đuổi các em Thiếu Sinh Quân nhỏ hơn về nhà, lập chướng ngại
vật bảo vệ trường và đối đầu với các đơn vị quân Bắc Việt:
“Họ tiếp tục chiến đấu sau khi tất cả mọi người khác đã đầu hàng!… Nhiều
người trong số họ bị giết. Và khi quân Cộng Sản tiến vào, các Thiếu Sinh Quân
đánh trả. Cộng Sản không vào được ngôi trường ngay lúc đó.”
Những con người tương tự (lúc đó) đang gia tăng trong mọi cấp bực của
QLVNCH, và nhu cầu cấp bách của tình hình buộc sự thăng thưởng phải dựa trên
khả năng, không dựa trên quan hệ chính trị hay quan hệ gia đình.
Giới truyền thông Hoa Kỳ đã thất bại tại Việt Nam, thua bại hoàn toàn và
thê thảm hơn nhiều so với các lực lượng quân sự của VNCH, Hoa Kỳ và các đồng
minh. Họ thường lên án bằng những lối can thiệp đầy tự phụ và tự mãn. Một cuộc
thăm dò 9.604 chương trình truyền hình của NBC, CBS và ABC từ 1963 đến 1977 cho
thấy rõ những sự thiếu sót của những cái gọi là bài tường thuật truyền hình.
0,7% chương trình nói về việc huấn luyện QLVNCH. 0.8% về bình định. 2.7% về
chính quyền hay Quân Lực VNCH hay Cambodia. Tổng cộng chỉ có 392 chương trình,
tức 2.7% toàn bộ các chương trình tin tức truyền hình Mỹ, tường trình về Việt
Nam. Không có một lời nào về hơn 200 ngàn hồi chánh viên, không một lời về
QLVNCH thiện chiến. Không có gì về những phi công Ong Chúa lừng danh của trực
thăng Việt Nam cứu mạng cho những toán Lực Lượng Ðặc Biệt Hoa Kỳ chạm địch dọc
đường mòn Hồ Chí Minh. Hầu hết người Mỹ, nếu không phải là tất cả, đều nhớ hình
ảnh bi hùng của một người Trung Hoa đứng trước đoàn xe tăng ở quảng trường
Thiên An Môn, nhưng không ai biết Trung Sĩ Thủy Quân Lục Chiến Việt Nam Huỳnh
Văn Lượm đứng trên cầu Ðông Hà chặn đứng đoàn xe tăng Bắc Việt, tác xạ bằng
khẩu súng chống tăng LAW của anh:
“Cảnh tượng anh lính TQLC nặng có 95 cân Anh trụ ngay trên đường tiến của
40 xe tăng không có ý nào muốn dừng lại, trên một khía cạnh thì là dại dột một
cách khó tin. Trên khía cạnh khác, quan trọng hơn, hình ảnh này mang đầy niềm
phấn khích đối với một lực lượng phòng thủ mỏng manh đến thê thảm, và với nhiều
người tị nạn, ít ai trong số đó từng chứng kiến một hành động thách đố dũng cảm
đến thế… Sự anh dũng lạ thường của người lính Thủy Quân Lục Chiến Nam Việt Nam
này đã khiến đợt tấn công bằng xe tăng, tới lúc đó chừng như chắc chắn phải
thắng lợi, đã bị mất đà tấn kích.”
Trong một khoảnh khắc mà giới truyền thông mang tật cận thị lên tiếng, thì
phóng viên Donald Kirk tuyệt đối không tỏ ra sự quan tâm nào khi đến thăm Sư
Ðoàn 7 Bộ Binh VNCH, nơi đã trở nên một đơn vị có hiệu năng cao tuyệt dưới tài
lãnh đạo của Tướng Nguyễn Khoa Nam. Quân nhân trong sư đoàn nhận thức rõ giá
trị những nông trại của sư đoàn do Tướng Nam thiết lập để giảm bớt gánh nặng
kinh tế cho binh sĩ của Sư Ðoàn 7. Nhưng khi Kirk và các phóng viên khác bị giữ
lại ở một điểm chắn đường của quân đội Bắc Việt rồi được thả ra sau đó, thì
Kirk lại thất vọng vì anh ta không có cơ hội để nói chuyện với bộ đội Bắc Việt:
“Tôi cứ nghĩ mãi về việc trông họ như vừa bước ra khỏi cuốn phim… Họ có vẻ
là những tay chính quy, vậy đó. Tôi chỉ mong sao chúng tôi đã có thể ở lại thêm
và nói chuyện với họ lâu hơn.”
Ông Kirk có thể yên tâm rằng quân sĩ Sư Ðoàn 7 đều là “những tay chính
quy,” rất đáng để nói chuyện, và học hỏi nơi họ. Anh chàng này, cũng như đông
đảo trong giới truyền thông làm tin tức, đã không để ý gì đến việc đó, cho nên
không có gì kỳ bí về nguyên nhân vì sao hầu hết những người Mỹ từng phục vụ tại
Ðông Nam Á đều nhìn cái giới truyền thông tin tức này với sự khinh miệt gay
gắt.
Phải chi giới này chịu khó quan hệ với quân dân Việt Nam mà họ gặp gỡ, như
tôi đã làm nhiều lần, thì đám ký giả hẳn đã biết trong mắt những người Việt ấy
chủ nghĩa Cộng Sản của Hà Nội là điều đáng khinh bỉ và kinh tởm, như một loại
phản bội văn hóa và truyền thống Việt Nam. Không phải những người Việt này
chiến đấu và hy sinh để bảo vệ “chế độ tham nhũng của Thiệu,” mà là để gìn giữ
một cuộc sống tốt đẹp hơn cho người dân, cho con cái, và cho đất nước của họ.
Một Thủy Quân Lục Chiến Việt Nam diễn giải và lột tả chân xác nhất về điều này,
khi anh ta nói với tôi rằng sau khi quân đội VNCH giải quyết xong với quân đội
miền Bắc, họ sẽ quay súng lại chống đám tham nhũng ở Sài Gòn. Những sự kiện
thảm thiết bi thương sau năm 1975 đã chứng thực tính thuận lý và giá trị của
điều quyết tâm ấy.
***
Giới truyền thông giải trí và giới giáo dục ở Hoa Kỳ cũng chẳng khá gì hơn,
mà còn mãn nguyện khi lặp lại, nếu không phải là thêm mắm thêm muối vào cái
chuyện thần thoại do truyền thông dựng lên. Một cuốn sách sử trung học được sử
dụng rộng rãi ở Mỹ có chương sử về Việt Nam không hề nói đến QLVNCH, chỉ viết
rằng: “Việt Nam hóa thất bại,” ngoài ra còn gom góp hơn 200 điều khẳng định có
thể được chứng minh là sai trái và mang hoàn toàn tính chất dẫn dắt lạc hướng,
trong 13 trang bài học. Có nói đến vụ tấn công sang Cambodia, nhưng không nói
gì về việc quân VNCH tham dự đông đảo hơn lực lượng Hoa Kỳ, 29 ngàn quân so với
19,300 quân Mỹ tham chiến. Sách cũng không nói lên rằng trước khi chính thức mở
chiến dịch, quân đội VNCH đã tấn công trước vào các vị trí phòng thủ của quân
đội Bắc Việt ở Cambodia. QLVNCH đã hoàn toàn vô hình, như một đề tài sẽ được
trình bày nơi đây (trong cuộc hội thảo).
Phim ảnh và truyền hình lại càng tệ hơn, mặc dù có được một số phim tài
liệu lịch sử. Cả cuốn phim “Bat 21,” nhằm miêu tả cuộc tìm cứu Trung Tá Iceal
Hambleton năm 1972, không thể hiểu được tại sao đã loại hẳn sự kiện là một
chiến sĩ Người Nhái Việt Nam, Nguyễn Văn Kiệt, người cùng thi hành công tác tìm
cứu đó với người nhái Hoa Kỳ Tom Norris, được tặng thưởng huy chương US Navy
Cross do sự dũng cảm và anh hùng của Kiệt. Làm sao công chúng có thể trông mong
được biết bất kỳ điều gì khi mà chế độ “kiểm duyệt” trên thực tế đã bôi xóa tất
cả và từng dấu vết của sự hoạt động gương mẫu của QLVNCH?
***
Sau cùng, cần phải nhìn nhận rằng QLVNCH đã bị đè bẹp bởi một gánh nặng
trầm kha không thể nào vượt thắng: đó là một đồng minh bất xứng, ngu dốt và gây
rối một cách đáng kinh ngạc, dưới hình thức cái chính phủ Hoa Kỳ.
Một hội nghị chuyên đề toàn diện nên được tổ chức về đề tài này, và cần
phải có hội nghị đó. Những chiến lược giả hiệu phát xuất từ Washington, về bản
chất, phải bị coi là cẩu thả mang tính cách tội ác. Không một hành động nào
được tung ra để chặn và giữ đường mòn Hồ Chí Minh. Không có con đường này thì
cuộc chiến tranh của Hà Nội đã không thể nào tiến hành được. Không một việc gì
được thi hành để giao chiến với chiến tranh thông tin tuyên truyền-phản tuyên
truyền dưới hình thức gọi là địch vận, một trong những chiến lược quan trọng
của Hà Nội, được thi hành với những sự lừa gạt quỷ quyệt xuất chúng. Không làm
một việc gì mãi đến khi cơ quan CORDS được thành lập để ra kế hoạch và phối hợp
những hoạt động quân sự và bình định về mặt tình báo. Không làm một việc gì để
khai triển một liên minh rộng lớn như một chiến trường chung của người Việt,
người Lào, người Cambodia và Thái Lan, chống lại kẻ thù chung. Trong khi Hà Nội
đã làm y như vậy: thiết lập một cấu trúc chỉ huy chiến trường Ðông Dương nhằm
kết hợp mọi yếu tố vào một chiến lược gắn bó cho toàn khu vực. Lý cớ về lãnh
đạo của Hoa Kỳ là mù lòa, lần mò vụng dại như con heo trên tảng băng, như một
con cóc vàng, rất giàu có nhưng cũng rất ngu độn.
Những kế hoạch, những đề nghị đi ngược dòng lịch sử khó có thể được chứng
minh hoàn toàn chắc chắn, và có thể chiến tranh (Việt Nam đã qua) là một cuộc
chiến không thể nào thắng được.
Có thể như vậy. Tuy nhiên những người Mỹ, người Úc đã phục vụ sát cánh
những chiến hữu của họ trong QLVNCH, “những chiến hữu, bạn bè, giống như anh em
ruột,” (viết tiếng Việt trong nguyên bản) mang trong lòng họ nỗi buồn sâu xa vì
đã thua cuộc, hay đã mất biết bao bạn bè tận tụy, mất cả niềm vinh dự lớn lao
cho việc đã cố gắng đạt cho kỳ được một thế giới tốt đẹp hơn cho những người
dân thường của Việt Nam, Lào, Cambodia và Thái Lan. Họ không bị thúc đẩy vì
những quan niệm tinh vi về địa lý chính trị thế giới, nhưng đúng hơn, là do sự
kính trọng và ngưỡng mộ đối với nhiều người Ðông Nam Á đã biết yêu quý xứ sở,
những con người đã “thề bảo vệ giang sơn quê hương.”
Nhiều trang lịch sử còn chưa được lật ra, phản ảnh sự tiếp nối cái khuynh
hướng của Hoa Kỳ chỉ toàn nhìn qua con mắt người Mỹ, bị lọc qua định kiến của
người Mỹ. Một số sách vở nói đến Việt Nam như một “giai đoạn thử thách đầy khổ
đau của Hoa Kỳ,” mà chưa từng một lần hỏi xem người Ðông Nam Á đã trải qua loại
thử thách khổ đau nào. Ðầy rẫy những dữ kiện lịch sử quý giá và những nét quan
sát sắc sảo nằm trong những cuốn sách được viết do người Việt Nam (và cả người
Lào). Thiếu những sách đó, không thể nào có được sự hiểu biết toàn diện.
Những tác phẩm của Lý Tòng Bá, Hà Mai Việt, Phan Nhật Nam, Trần Văn Nhựt,
và nhiều người khác, đang kêu gào đòi được dịch thuật, cũng như hằng chục bài
phổ biến hằng năm trên sách báo tạp chí quân sự và các ấn bản khác. Nhiều bài
trong đó mô tả những trận đánh, những diễn tiến và những nhân cách, không hề
được các sử gia Hoa Kỳ biết đến. Không tham khảo những nguồn đó thì chắc chắn
là chiến tranh Việt Nam, cũng là chiến tranh Ðông Dương của Hà Nội, sẽ mãi là
những bí ẩn không thể giải đoán, và lịch sử chân thực của QLVNCH sẽ mãi bị chôn
vùi dưới tầng lớp này qua tầng lớp nọ của những chuyện hoang đường, của sự
không thông hiểu, và của sự giả định vô căn cứ.
AUDIO
Quân lực VIỆT NAM CỘNG HÒA 1968 –
1975 (Phần 1)
https://www.youtube.com/watch?v=3ucpdXgqYJI
Quân lực VIỆT NAM CỘNG HÒA 1968 -1975
(Phần 2)
https://www.youtube.com/watch?v=csl_783_mY0
Tình Báo Mỹ Tại Việt Nam 1071-1975 – Bill Lautie
https://www.facebook.com/groups/1051752364862874/posts/5063924846978919/