Sunday, September 15, 2024

The Last Officer: 99-Year-old Major General John Raaen - 5th Ranger Battalion in France, Belgium, and Germany, until December 1944 - United States, Korea, Europe, and Vietnam

Viên chức cuối cùng:
Thiếu tướng 99 tuổi John Raaen là sĩ quan cuối cùng còn sống sót sau đợt D-Day đầu tiên.
Ông sinh ra tại Fort Benning, Georgia vào năm 1922, là một sĩ quan quân đội chuyên nghiệp và theo học tại Học viện Quân sự Hoa Kỳ tại West Point. Sau khi tốt nghiệp, anh được thăng cấp Thiếu úy.
Vào tháng 10 năm 1943, Raaen được bổ nhiệm vào Liên Đoàn 5 Biệt Động Quân Hoa Lỳ mới được bổ nhiệm và trải qua khóa huấn luyện ở Florida, Anh và Scotland.
Ông tham gia đợt tiến quân vào D-Day đầu tiên vào ngày 6 tháng 6 năm 1944, giữ chức vụ Đại đội trưởng của Biệt động quân số 5 trên Bãi biển Omaha. Trong lần đầu tiên tham chiến, Raaen, lúc đó là cấp bậc Đại úy, đã có mặt trên các bãi biển ở Normandy, Pháp. Anh đã được trao tặng Huy Chương Anh Dũng Bội Tinh với Ngôi Sao Bạc và Huy Chương Bộ binh chiến đấu vì hành động của mình vào ngày hôm đó.
Ông phục vụ trong Tiểu đoàn 5 Biệt động quân ở Pháp, Bỉ và Đức cho đến tháng 12 năm 1944 trong Trận chiến Bulge, khi ông bị thương vào một vụ tai nạn xe Jeep.
Ông được di chuyển trở lại Hoa Kỳ và được bổ nhiệm làm giảng viên tại Cục Quân khí ở West Point cho đến khi chiến tranh kết thúc.
Trong suốt những năm sau chiến tranh, Raaen nắm giữ nhiều quyền chỉ huy quan trọng trên khắp Hoa Kỳ, Nam Hàn, Châu Âu và Việt Nam. Tháng 4 năm 1979, ông về hưu với cấp bậc Thiếu tướng sau 36 năm phục vụ  cho Quân đội.

Các bạn mến,
Hãy cùng chúc mừng Sinh Nhật Cụ Ông này, một chiến binh Hoa Kỳ từng tham chiến trận D-Day Normandy năm 1944, mà Cụ Ông này là người cuối cùng còn sống cho đến hôm nay, quá lớn tuổi rồi. Điểm đặc biệt trong tấm hình dưới, Cụ Ông trân trọng ôm cái khung gắn nhiều huy chương, mà đáng kể là trong số đó có huy chương của Quốc Gia Việt Nam Cộng Hoà lá cờ Vàng Ba Sọc Đỏ. Tôi xúc động và hãnh diện khi thấy hình ảnh này. 🌷
Trích Wikipedia:
Trận Normandie
Cuộc đổ bộ của quân đội khối Đồng minh vào các bãi biển vùng Normandie ngày 6 tháng 6 1944, còn gọi là Trận chiến vì nước Pháp[10], là một trong những mốc lịch sử quan trọng của Thế Chiến thứ Hai. Đây là cuộc tấn công từ biển vào đất liền lớn nhất trong lịch sử[11], với hơn 150.000 quân lính của Hoa Kỳ, Anh Quốc, Canada cùng với quân kháng chiến Pháp, Tiệp Khắc, Ba Lan, Bỉ, Hà Lan, Na Uy, theo các chiến hạm lớn nhỏ từ miền nam Anh Quốc kéo vào đất Pháp lúc bấy giờ đang nằm dưới sự kiểm soát của quân Đức Quốc Xã. Ngay từ ngày đầu tiên, họ đã phá hủy các cầu và cắt đường liên lạc của quân Đức, và gặt hái thành công vang dội[12]. Sau nhiều ngày chiến đấu, quân lực Đồng Minh giành được lợi thế vào tháng 7 năm ấy[12], đẩy được quân Đức Quốc Xã ra khỏi các căn cứ quân sự tại Normandie và trên đà thắng lợi đã tiến hành cuộc giải phóng Paris nói riêng[10], và cuộc tiến chiếm giải phóng châu Âu nói chung cũng như sự chấm dứt thắng lợi của cuộc chiến. Bất chấp sự kháng trả mãnh liệt của mình, quân Đức bị tổn thất lớn lao, lâm vào một thảm họa choáng váng.[2][13] Thắng lợi quyết định này đã làm nên một bước ngoặt lớn cho cả cuộc Đại chiến thế giới lần thứ hai, góp phần dẫn tới sự sụp đổ của Nhà nước phát xít Đức và chấm dứt chiến tranh.[1][14][15] Để đạt được chiến thắng vang dội này, lực lượng Đồng Minh đã phải hứng chịu thiệt hại nặng nề,[13] và đại thắng cũng được xem là một trong những trận thắng vẻ vang và anh dũng nhất trong cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai.
Ngô Kỷ

The Last Officer: 
99-Year-old Major General John Raaen is the last surviving officer from the first wave of D-Day. 
 He was born at Fort Benning, Georgia in 1922, to a career military officer, and attended the United States Military Academy at West Point. Upon graduation, he received a commission as a Second Lieutenant. 
In October of 1943, Raaen was assigned to the newly activated 5th Rangers, and underwent extensive training in Florida, England, and Scotland. 
He participated in the first wave of the D-Day invasion on June 6, 1944, serving as Headquarters Company Commander of the 5th Rangers on Omaha Beach. During his first time in combat, Raaen, who was an Army Captain at the time, distinguished himself on the beaches of Normandy France. He was awarded the Silver Star and Combat Infantryman Badge for his actions on that day. 
He served with the 5th Ranger Battalion in France, Belgium, and Germany, until December 1944 during the Battle of the Bulge, when he was involved in a serious Jeep accident. 
He was evacuated back to the United States and was appointed as an instructor in the Department of Ordnance at West Point until the end of the war. 
Throughout the postwar years, Raaen held several important commands throughout the United States, Korea, Europe, and Vietnam. In April 1979, he retired at the rank of Major General after 36 years of devoted service to the Army. 
 
Major General John C. Raaen Jr.

Born on 22 April 1922 at Fort Benning, Georgia, John C. Raaen, Jr., graduated from the United States Military Academy in 1943. Commissioned as a 2nd. Lt. in the Corps of Engineers, he joined the newly activated 5th Ranger Battalion, landing on Omaha Beach on D-Day, 6 June 1944, where he earned a Silver Star. Injured in December 1944, Raaen was evacuated to the United States.

After recovering from his injuries, he was appointed as an instructor in the Department of Ordnance at West Point in 1945 and transferred to the Ordnance Corps in 1947. After attending the Naval Post Graduate School in Annapolis, Maryland from 1948 to 1949, he earned an MA in Nuclear Physics from Johns Hopkins University, Maryland, in 1951. Raaen next served as the Executive Officer in the Ammunition Development Branch of the Office of the Chief of Ordnance from 1951 to 1954, involved in the development of combustible cartridge cases, anti-tank projectiles, and armor-piercing small arms ammunition.

From 1955 to 1956, Raaen served in Korea, first as Executive Officer, 8th US Army Ordnance Section, where he expedited the flow of repair parts and new equipment, and then as commander of the 83d Ordnance Battalion, where he revamped the ammunition stock control system. He returned to the United States in 1957 to serve on the Ordnance Board at Aberdeen Proving Ground (APG ), Maryland. In 1959, as a member of the Military Liaison Committee to the Atomic Energy Commission, he was involved in developing artillery nuclear warheads and arming devices.

From 1963 to 1965, Raaen served as Ordnance Officer then Deputy Chief of Staff, G-1, of the Berlin Brigade. In 1965, he took command of the Miesau ammunition depot in Germany. In September 1965, he headed up the US Army Research Office in Durham, North Carolina, overseeing programs being carried out by civilian researchers and scientists for the Army. Raaen then commanded, from 1967 to 1969, the Ballistics Research Laboratories, the Human Engineering Laboratories, and the Coating and Chemical Laboratory at APG and consolidated them with other agencies to form the Aberdeen Research and Development Center.

In 1969 Raaen served at Headquarters, United States Army Vietnam, as Chief of the G-4 Ammunition Division, then as Chief of the G-4 Supply Division, and finally as Deputy Assistant Chief of Staff, G-4. He then returned to the United States to serve as Director of Ammunition in the Office of the Deputy Chief of Staff for Logistics, Department of the Army, Washington, D.C. In 1971, he took command of the Mobility Equipment Command in St. Louis and in 1972 moved to Rock Island Arsenal to take command of the US Army Weapons Command. In 1973, Raaen organized and assumed command of the US Army Armament Command, merging three organizations responsible for 25 ammunition plants and seven arsenals. In 1975, Raaen served as Executive Deputy Director of the Defense Supply Agency, Alexandria, VA, and in 1976 took command of the Defense Fuel Supply Center in Washington, D.C. Maj. Gen. John C. Raaen, Jr., retired in 1979 after 36 years of devoted service.

LAST SURVIVING OFFICER D-DAY FIRST WAVE TURNS 99
Please join us in wishing WWII veteran Major General John Raaen a happy 99th birthday! In the early hours of D-Day, June 6, 1944, Raaen was among the first to land on Omaha Beach, serving as Headquarters Company Commander of the 5th Ranger Battalion. He is believed to be the last living officer who landed in the first wave at Bloody Omaha.
An Army Captain at the time, Raaen distinguished himself in combat across the European theater and was awarded the Silver Star and Combat Infantryman Badge for valorous actions in the face of the enemy. He served with the 5th Rangers in France, Belgium, and Germany, until December 1944 during the Battle of the Bulge, when he was involved in a serious Jeep accident.
He was evacuated to the United States and later taught as an instructor at the United States Military Academy at West Point until the end of the war. Throughout the postwar years, Raaen held several significant commands in the United States, Europe, and during the Korean and Vietnam wars. In April 1979, he retired at the rank of Major General after 36 years of devoted service to the US Army.
"Giving the Past a Future, One Story at a Time."
WWII Veterans History Project

Friday, September 6, 2024

Phải trút hết tội làm Mỹ thua trong chiến tranh VN cho cựu TT Nguyễn Văn Thiệu - Henry Kissinger

Miền Nam Tự do mất vào tay Việt cộng Miền Bắc, công của TNS trẻ Biden đối với CS không nhỏ khi phản đối tiếp tục viện trợ cho Miền Nam chống Việt cộng.
Không quên đọc những comments.

From: 'vi nguyen' via Văn Đàn TIẾNGQUÊHƯƠNG
[TiếngQuêHương] Phải trút hết tội làm Mỹ thua trong chiến tranh VN cho cựu TT  Nguyễn Văn Thiệu

Phải trút hết tội làm Mỹ thua trong chiến tranh VN cho cựu TT  Nguyễn Văn Thiệu

Cho đến năm 2024, cố Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã chết được 23 năm nhưng chưa có một ai hay một đoàn thể nào dám đứng ra kêu gọi trả lại danh dự cho ông, mặc dầu ngay khi ông vừa mới qua đời vào năm 2001 thì phóng viên chiến trường nổi tiếng nhất thế giới là Orihana Fallaci đã kêu gọi dư luận hãy trả lại danh dự cho ông.
Sở dĩ Orihana Fallaci phải kêu gọi bởi vì sau 1975 các phương tiện truyền thông của Mỹ trên khắp thế giới đã nhận được lệnh của Kissinger là phải trút hết tội làm Mỹ thua trong chiến tranh VN cho ông Nguyễn Văn Thiệu để cho sự thua của Mỹ tại Việt Nam “khả dĩ coi được” (đỡ quê).

Riêng các phương tiện truyền thông Việt gian
 trên đất Mỹ thì có bổn phận nguyền rủa NVT độc tài tham nhũng mới làm cho mất nước, nhằm hướng nỗi hận mất nước của nguòi Việt vào ông NVT mà quên đi nguyên do mất nước là bị Mỹ phản bội.

Ngày 29-9 năm nay đã là ngày giỗ thứ 23, 2001-2024 của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu.
Cho tới trước khi chết ông vẫn cúi đầu nhận chịu trách nhiệm đã làm cho mất nước,một lỗi lầm quá to lớn mà cá nhân một người không thể nào gánh vác. 
Nếu có một người nào đó đứng ra nhận chịu thì quả là vô lý, thế nhưng ông Nguyễn Văn Thiệu đã làm.

Frank Snepp là một nhân viên CIA làm việc tại chi nhánh CIA tại Sài Gòn năm 1975. 
Nhiệm vụ của ông là đọc báo và nghe đài phát thanh của CSVN và VNCH để trình cho Polgar, trưởng CIA tại Sài Gòn, những tin nào mà ông ta thấy đáng quan tâm.
Sau biến cố 1975 Frank Snepp quyết định viết thành sách về những gì ông chứng kiến trong vai trò một nhân viên CIA làm việc tại VN trong giai đoạn Hoa Kỳ cuốn cờ ra khỏi Việt Nam. 
Nhờ đó ông nhanh chóng trở thành nhân chứng sống duy nhất dám tiết lộ những bí mật mà một nhân viên CIA không được phép tiết lộ.
Theo Frank Snepp thì mọi chuyện đều bắt đầu từ khi ký kết Hiệp định Paris. Rồi 3 tháng sau khi ký kết hiệp định, Tổng thống Nixon cử Martin làm đại sứ Mỹ tại VN thay Bunker. 

Frank Snepp mô tả vai trò của Đại sứ Martin :
“Mỹ buộc phải bò ra khỏi Việt Nam trong tư thế đường hoàng, và muốn tạo được ấn tượng như vậy thì cần phải có một chuyên gia về ảo thuật và kịch nghệ mà Martin thuộc vào hạng sư phụ. 
(Trang 75, nguyên văn : “The United States was obliged to crawl out of Vietnam standing up, and to foster that illusion required the kind of conjuring and stagecraft at which Martin so adept”).
Như vậy màn kịch bỏ rơi Việt Nam đã được lên giàn từ tháng 4 năm 1973.

Hết đạn và hết nhiên liệu :
Tường trình của Tướng Cao Văn Viên :
“Một sự thực không thể chối cãi là quân đội VNCH sẽ hết đạn và nhiên liệu vào tháng 6 năm 1975…” (Tài liệu của Ngũ Giác Đài : Cao Văn Viên, The Final Collapse, bản dịch của Nguyễn Kỳ Phong trang 136).
Tài liệu của CIA : “Từ cuối tháng 12-1973 đến đầu tháng Giêng 1974 Tướng John Murray và ban tham mưu của ông đã làm việc ngày đêm để cố gắng tìm đáp số cho bài toán viện trợ quân sự. 
Nhưng mỗi lần họ tìm ra một giải pháp để giải quyết vấn đề thì lại phát sinh một vấn đề khác mà kết quả cũng chỉ đưa tới bí lối” (Frank Snepp, Decent Interval, trang 95).
Tướng Jhon Murray là Tư lệnh cuối cùng của quân đội Hoa Kỳ tại Nam Việt Nam. 
Ông đến Việt Nam sau Hiệp định Paris 1973, sang đầu năm 1974 ông và Bộ tham mưu Hoa Kỳ tại Việt Nam phải tính toán sổ sách về viện trợ quân sự cho Nam Việt Nam trong nửa cuối 1974 và đầu năm 1975. 
Tuy nhiên Ngũ Giác Đài đã cho ông biết trước là có thể dưới 700 triệu đô la; nhưng theo các chuyên viên tham mưu của John Murray thì 700 triệu chỉ đủ giữ được Vùng 4.

Tình hình thực sự vào tháng 3 năm 1975 :
Năm 1975, ngày 7-1. 
Sau khi mất Phước Long, Mỹ tuyên bố : 
“Tổng thống Pho không có ý vi phạm những điều cấm chỉ (của Quốc hội) về việc sử dụng lực lượng quân sự Hoa Kỳ tại Việt Nam” (Hồi ký của Tướng CSVN Hoàng Văn Thái, trang 161)
Ngay sau khi nhận được tin, Lê Duẩn chỉ thị cho Đại tướng Tổng tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái tiến hành kế hoạch tiến chiếm miền Nam :
“Một tháng sau chiến thắng Phước Long, ngày 5 tháng 2, anh Văn Tiến Dũng lên đường vào Tây Nguyên” (Hoàng Văn Thái, trang 172).
- Tuần đầu của tháng 3 năm 1975. Trong một cuộc họp đầu tuần của Bộ Ngoại giao HK, Kissinger đã giải thích hành động viện trợ “lấy có” cho Cam Bốt: “Chính phủ Lon Nol đang trên đà sụp đổ, đây là nguyên do chính khiến chúng ta phải tiếp tục viện trợ để cho sau này không ai có thể trách chúng ta vô trách nhiệm”.
(Frank Snepp, Decent Interval, trang 175).
*(Nguyên văn : “…he say, the Lon Nol Government was on the brink of collapse, it was essential to keep open the aid pipeline so no one could later blame the United States for the disaster”).
- Ngày 7-3-1975, Kissinger chỉ thị cho các viên chức Ngoại giao HK trước khi ông ta lên đường đi Trung Đông : “Hãy làm mọi cách để Quốc hội tiếp tục duy trì viện trợ (lấy có) cho Cam Bốt và Việt Nam. 
Không phải để cứu vãn hai nước đó, mà vì không thể nào cứu vãn được hai nước đó” (Frank Snepp, Decent Interval trang 176).
*(Nguyên Văn : Do every thing possible to ensure that Congress lived up our aid commitments to Cambodia and Vietnam- not because the two countries were necessarily salvageable, but precisely because they might not be). 
Hai ngày sau khi Kissinger nói cậu này thì Văn Tiến Dũng ra lệnh tấn công Ban Mê Thuột.

Thế bắt buộc của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu :
Năm 1975, ngày 11-3, một ngày sau khi mất Ban Mê Thuột. Tướng Thiệu mời các Tướng Khiêm, Viên, Quang ăn sáng tại dinh Độc Lập và sau đó trình bày ý định muốn cắt bỏ bớt lãnh thổ cho vừa với mức viện trợ quân sự của HK vào năm 1975. 
Tướng Viên ghi lại cảm nghĩ của ông lúc đó :
“Quyết định của Tổng thống Thiệu cho chúng tôi thấy đây là một quyết định ông đã suy xét thận trọng. Hình như Tổng thống Thiệu đã ngần ngại về quyết định đó, và bây giờ ông chỉ thổ lộ cho ba người chúng tôi trong bữa ăn sáng…”
“… Tổng thống Thiệu phác họa sơ : …
Một vài phần đất quan trọng đang bị Cọng sản chiếm, chúng ta sẽ cố gắng lấy lại bằng mọi giá… …Ban Mê Thuột quan trọng hơn hai tỉnh Kontum và Pleiku nhập lại… …” (Cao Văn Viên, The Final Collapse, bản dịch của Nguyễn Kỳ Phong, trang 129-131).
“Ngay sau khi Phước Long bị tấn công, Hoa Kỳ không có một phản ứng nào … . Một thực tế gần như hiển nhiên là Hoa Kỳ không muốn cuộc chiến tiếp tục, và biều quyết viện trợ để VNCH đánh tiếp là chuyện sẽ không xảy ra. 
Đối với Hoa Kỳ cuộc chiến Việt Nam đã kết thúc”  trang 132).
Các đoạn trích dẫn trên đây đã giải thích vì sao Tổng thống Thiệu phải bỏ Vùng 1 cũng như Vùng 2.

Cuối cùng, sau 30-4-1975 Mỹ mở chiến dịch đổ tội làm mất nước cho Tổng thống Thiệu để cho người ta không oán hận Mỹ đã bỏ rơi VNCH... Giờ đây đã 49 năm trôi qua, nếu người Mỹ không lên tiếng giải oan cho ông Nguyễn Văn Thiệu, thì cũng nên trả lại sự thật cho lịch sử.

BÙI ANH TRINH



@vanloinguyen2593
2 years ago
cách đây 50 năm mà nguyên thủ quốc gia đã giỏi ngoại ngữ rồi ,còn bây giờ nó chửi tưởng nó khen cứ gật đầu

@joejo1220
2 years ago (edited)
Nhờ mạng Internet , mọi người mới có dịp thấy khả năng nói lưu loát cả tiếng Anh ( Mỹ ) và tiếng Pháp trong một cuộc phỏng vấn khác của Tổng Thống NGUYỄN VĂN THIỆU với một ký giả người Pháp . Chúng tôi , người dân miền Nam hãnh diện có một vị Tổng Thống thật đáng ngưỡng mộ !

@Thuy_nguyen84
5 months ago
Không cần nhìn giấy, phong thái rất tự nhiên, tự tin, gương mặt hiền hậu khôi ngô, thời đó mà nói tiếng anh thông thạo như vậy thì phải biết nền giáo dục VNCH đã tuyệt vời như thế nào, mãi kính mến ông, VNCH mãi trong tim

@chauvo818
2 years ago
Một người lãnh đạo mà thông thạo 2 thứ tiếng Anh và Pháp lưu loát phát biểu ko e dè tự tin ko cần giấy, có sẵn văn kiện trong đầu, xứng đáng là nhà lãnh đạo, ngưỡng mộ và kính trọng.

@TravisHiep
2 years ago
Nghe ông TT Thiệu nói và Thủ Tướng Dũng và chủ tịch Phúc nói thì đủ biết nền giáo dục của VNCH như thế nào rồi. Đó là niềm tự hào của 1 thể chế Tự Do.

@sonba9363
2 years ago
Bây giờ tôi mới thấy cố TT Nguyễn Văn Thiệu , rất tuyệt vời và xứng đáng là TT VNCH .

@thihangnguyen8407
5 months ago
Nhìn TT .Thiệu lịch sự, văn minh ,trình độ văn hoá, nghiêm trang ,nhưng khi nói chuyện cũng dí dỏm. Miền Nam VN hãnh diện có một vị nguyên thủ quốc gia văn võ song toàn .

@loanhuynh7635
5 months ago
Đây mới đúng là nguyên thủ quốc gia mà người dân cần, ông tự tin , diễn đạt lưu loát, ông quá giỏi thật đáng nể

@dungdo146
2 years ago
Phát biểu tự nhiên không cần giấy không cần soạn trước ,quá hay

@vankim4181
2 years ago
Phong cách đỉnh đạc ... Ngoại ngữ trôi chảy. Xứng đáng 1 nguyên thủ quốc gia.

Saturday, August 31, 2024

Đ/tá Hồ Ngọc Cẩn- Người vợ lính ở Thủ Đức

Mùa xuân năm 1959. Họ đạo Thủ Đức có đám cưới nhà quê. Cô dâu Nguyễn Thị Cảnh mỗi tuần giúp lễ và công tác thiện nguyện cho nhà Thờ. Chú rể là anh trung sĩ huấn luyện viên của trường bộ binh Thủ Đức.
Cha làm phép hôn phối. Họ Đạo tham dự và chúc mừng. Bên nhà gái theo đạo từ thuở xa xưa. Bên nhà trai cũng là gia đình Thiên Chúa Giáo. Cô gái quê ở Thủ Đức, 18 tuổi còn ở với mẹ. Cậu trai 20 tuổi xa nhà từ lâu. Cha cậu là hạ sĩ quan, gửi con vào thiếu sinh quân Gia Định từ lúc 13 tuổi. Khi trưởng thành, anh thiếu sinh quân nhập ngũ. Đi lính năm 1956. Mấy năm sau đeo lon trung sĩ.
Quê anh ở Rạch Giá, làng Vĩnh Thanh Long, sau này là vùng Chương Thiện. Ngày đám cưới, ông già từ quê lên đại diện nhà trai. Đứng trước bàn thờ, cha xứ hỏi rằng anh quân nhân này có nhận cô gái làm vợ không. Chú rể đáp thưa có. Cha hỏi cô gái có nhận anh trung sĩ này làm chồng. No đói có nhau. Gian khổ có nhau. Cô gái Thủ Đức vui mừng thưa có. Anh trung sĩ Rạch Giá phục vụ trường bộ binh đi lễ nhà thờ gặp cô gái xóm đạo Thủ Đức nên kết nghĩa vợ chồng. Cô gái thề trước nhà Chúa, có cả họ Đạo chứng kiến.
Cô đã giữ trọn đời làm vợ người lính. Từ vợ trung sĩ trại gia binh cho đến phu nhân đại tá trong dinh tỉnh trưởng. Cô theo chồng đi khắp 4 phương suốt 16 năm chinh chiến để rồi 30 tháng 4 năm 75 trở thành vợ người tử tội.
Cô đem con trở về Thủ Đức lánh nạn chờ ngày chồng bị xử bắn. Dù thăng cấp, dù thắng hay bại, dù sống hay chết, chồng cô vẫn là người anh hùng. Cô mãi mãi vẫn là người vợ lính. Anh lính đầu đời chinh phu của cô lúc lấy nhau đeo lon trung sĩ và khi ra đi đeo lon đại tá. Thủy chung cô vẫn sống đời vợ lính. Chồng của cô là đại tá Hồ Ngọc Cẩn.
Hiện nay cô vợ lính gốc Thủ Đức, sau khi tìm đường vượt biên, đem con trai duy nhất qua Bidong, Mã Lai rồi vào Mỹ sống ở Nam Cali. Cô may thuê. Bán quán nuôi con. Con trai lập gia đình có 2 cháu. Người vợ lính năm xưa từ 75 đến nay, ở vậy thờ chồng đã trở thành bà nội ở chung một nhà với con cháu. Suốt đời vẫn nghèo, nghèo từ trung sĩ mà nghèo lên đại tá. Nghèo từ Thủ Đức mà nghèo qua Chương Thiện. Nghèo từ Việt Nam mà đem theo cái nghèo qua Mỹ. Bởi vì suốt đời chỉ là người vợ lính.
Một đời chinh chiến. Chuyện người chồng.
Hồ Ngọc Cẩn sinh ngày 24 tháng 3 năm 1938. Xuất thân thiếu sinh quân Gia Định rồi nhập ngũ và lên cấp trung sĩ huấn luyện viên vũ khí tại trường bộ binh. Sau khi lập gia đình có 1 con thì anh trung sĩ tìm cách tiến thân xin vào học lớp sĩ quan đặc biệt tại Đồng Đế. Từ anh sinh viên sĩ quan Đồng Đế 1960 cho đến 15 năm sau Hồ Ngọc Cẩn trở thành đại tá tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng Chương Thiện, hầu hết cấp bậc đều lên tại mặt trận. Ông đã từng mang mầu áo của Biệt động quân và các sư đoàn bộ binh. Huy chương và chiến công nhiều vô kể.
Suốt một đời chinh chiến từ trung đội trưởng lên đến trung đoàn trưởng, Hồ ngọc Cẩn tung hoành khắp Hậu giang và Tiền giang. Năm 1972 ông Thiệu cho lệnh toàn thể sư đoàn 21 từ miền Tây lên tiếp tay cho quân đoàn 3 giải tỏa An Lộc. Lại cho lệnh tăng cường thêm 1 trung đoàn của sư đoàn 9. Tư lệnh quân khu, ông Trưởng nói với ông Lạc sư đoàn 9 đưa 1 trung đoàn nào coi cho được.
Trung tá Hồ ngọc Cẩn dẫn trung đoàn 15 lên đường. Trung đoàn ông Cẩn phối hợp cùng nhẩy dù đánh dọc đường 13 tiến vào An Lộc. Anh đại úy đại đội trưởng của trung đoàn suốt mấy tuần dằng co với địch trước phòng tuyến của tướng Hưng tư lệnh An Lộc, nhưng chưa vào được. Lính hai bên chết đều chôn tại chỗ. Thiết vận xa M113 của ta còn phải lui lại phía sau. Chỉ có bộ binh của trung đoàn 15 nằm chịu trận ở tiền tuyến. Anh sĩ quan kể lại, chợt thấy có một M113 của ta gầm gừ đi tới.
A, tay này ngon.
Chợt thấy một ông xếp từ thiết vận xa bước ra, phóng tới phòng tuyến của đại đội. Nhìn ra ông trung đoàn trưởng Hồ Ngọc Cẩn. Ông quan sát trận địa rồi hô quân tiến vào. Cùng với tiền đạo của nhẩy dù, trung đoàn 15 bắt tay với lính phòng thủ An Lộc. Sau khi Bình Long trở thành Bình Long Anh Dũng, ông Thiệu hứa cho mổi người lên 1 cấp.
Trung tá Hồ Ngọc Cẩn ngoài 30 tuổi đeo lon đại tá trở về trong vinh quang tại bản doanh Sa Đéc. Rồi ông được đưa về làm tiểu khu trưởng Chương Thiện. Vùng đất này là sinh quán của ông ngày xưa. Cho đến 30 tháng 4-1975 Sài Gòn đã đầu hàng, nhưng Chương Thiện chưa nhận được lệnh Cần Thơ nên Chương Thiện chưa chịu hàng.
Chiều 29 sang 30 tháng 4, tiểu khu trưởng vẫn còn bay trực thăng chỉ huy. Khi radio Sài Gòn tiếp vận về tin buông súng, các đơn vị bên ta rã ngũ. Lính tráng từ tiểu khu và dinh tỉnh trưởng tan hàng, đại tá tiểu khu trưởng Hồ Ngọc Cẩn bị lính cộng sản vây quanh khi còn ngồi trên xe Jeep với vũ khí, quân phục cấp bậc đầy đủ. Câu chuyện về giờ phút cuối cùng của người chồng, đã được người vợ kể lại cho chúng tôi. Thực là một kỷ niệm hết sức bi thảm.
Giây phút cuối của Chương Thiện,
Bà Cẩn với âm hưởng của miền quê Thủ Đức kể lại qua điện thoại. Cô Cảnh nói rằng suốt cuộc đời chưa ai hỏi thăm người thiếu phụ Thủ Đức về một thời để yêu và một thời để chết. Bà nói:
“Kể lại cho bác rõ, những ngày cuối cùng nhà em vẫn hành quân. Đánh nhau ngay trong tiểu khu. Anh Cẩn vẫn còn bay hành quân. Nhà bị pháo kích. Tuy gọi là dinh tỉnh trưởng nhưng cũng chỉ là ngôi nhà thường. Chiều 30 tháng 4 mẹ con em theo các chú lính chạy ra ngoài. Đi lẫn vào dân. Ở Chương Thiện không ai biết em là vợ tỉnh trưởng. Ai cũng tưởng là vợ lính. Từ xa ngó lại mẹ con em thấy anh Cẩn bị chúng bắt giải đi. Bà con kéo mẹ con em tìm đường chạy về Cần Thơ. Chú lính nói rằng bà không đem con chạy đi chúng nó bắt thì khổ. Em dẫn thằng con nhỏ chạy bộ. Mẹ con vừa đi vừa khóc. Hình ảnh cuối cùng thằng con hơn 10 tuổi nhìn thấy bố ngồi trên xe Jeep, Việt cộng cầm súng vây quanh. Bước xuống xe, anh không chống cự, không vùng vằng, không nói năng. Đưa mắt nhìn về phía dân ở xa, giơ tay phất nhẹ. Như một dấu hiệu mơ hồ cho vợ con. Chạy đi. Đó là hình ảnh cuối cùng đã gần 40 năm qua.
Từ đó đến nay mẹ con không bao giờ gặp lại. Thân nhân bên anh Cẩn, mẹ và các chị giữ không cho em và con trai ra mặt. Sợ bị bắt. Được tin anh ra tòa nhận án tử hình. Rồi tin anh bị xử bắn. Thời gian anh bị giam gia đình bên anh có đi tiếp tế nhưng không thấy mặt. Chỉ giao tiếp tế cho công an rồi về. Hôm anh bị bắn ở sân vận động Cần Thơ, gia đình cũng không ai được báo tin riêng, nhưng tất cả dân Tây Đô đều biết. Mỗi nhà được loan báo gửi một người đi coi. Bà chị họ đi xem thằng em bị bắn. Chị kể lại là không khí im lặng. Từ xa, nhìn qua nước mắt và nín thở. Chị thấy chú Cẩn mặc quần áo thường dân tỏ ý không cần bịt mắt. Nhưng bọn cộng sản vẫn bịt mắt. Bác hỏi em, bà chị có kể lại rõ ràng ngày xử bắn 14 tháng 8 năm 1975.
Mỗi lần nói đến là chị em lại khóc nên cũng không có gì mà kể lại. Chúng bịt mồm, bịt mắt nên anh Cẩn đâu có nói năng gì. Suốt cuộc đời đi đánh nhau anh vẫn lầm lì như vậy. Vẫn lầm lì chịu bị bắt, không giơ tay đầu hàng, không khai báo, không nói năng gì cho đến chết. Anh làm trung đội trưởng, đại đội trưởng, tiểu đoàn trưởng, trung đoàn trưởng rồi đến tiểu khu trưởng. Báo chí, anh em nói gì thì nói, anh Cẩn chả nói gì hết. Bác hỏi em là mồ mả ra sao. Em và con về nhà mẹ ở Thủ Đức. Gia đình không cho em ra mặt. Bà chị và mẹ anh Cẩn đi xin xác không được. Chúng đem chôn ở phía sau Trung tâm nhập ngũ Cần Thơ. Mấy năm sau mới xin được đem về Rạch Giá.
Rồi đến khi khu này bị giải tỏa nên lại hỏa thiêu đem tro cốt về nhà ông chú bên Long Xuyên. Ngày nay, em nói để bác mừng là sau khi vượt biên qua Mỹ em đã đưa di hài anh Cẩn qua bên này. Anh Cẩn bây giờ cũng đoàn tụ bên Mỹ với gia đình. “
“Cô đi năm nào”, tôi hỏi bà Cẩn.
“Mẹ con em ở Thủ Đức ba năm sau 75. Đến 78 thì vượt biên qua Pulo Bidong. Ở trại 8 tháng thì bà con bảo trợ qua Mỹ. Qua bên này mình chả biết ai, không ai biết mình. Cũng như bao nhiêu thuyền nhân, mẹ con ở với nhau. Em đi làm nghề may, rồi đi bán quán cho tiệm Mỹ. Bây giờ cháu trai duy nhất của anh Cẩn đã có gia đình sinh được 2 con.”
Chuyện đời người vợ lính thời chinh chiến với kết thúc bi thảm và anh hùng, tôi nghe kể lại thấy lòng xót xa lắng đọng.Tôi bèn quay qua hỏi chị Cẩn sang đề tài khác. “Nãy giờ nói toàn chuyện buồn, cô nhớ lại xem suốt đời từ đám cưới cho tới 75, cô có những kỷ niệm nào vui không.”
Bà Cẩn ngừng lại suy nghĩ.
“Em thấy năm nào tháng nào cũng vậy thôi. Toàn lo việc nhà, nội trợ nuôi con. Anh Cẩn đi đâu thì mẹ con cũng đi theo. Từ trại gia binh đến cư xá sĩ quan. Chúng em không có nhà riêng, không có xe hơi, không có xe gắn máy. Từ Sa Đéc trung đoàn 15 qua đến tiểu khu Chương Thiện, toàn là ở trại lính”.
Tôi hỏi tiếp:
“Cô có đi dự tiệc tùng, mừng lên lon, thăng cấp, dạ hội gì không?”.
“Không, em chả có đi đâu. Ở Chương Thiện em cũng không đi chợ. Dân chúng cũng không biết em là ai. Mua bán gì em về Cần Thơ, đông người, cũng chả ai biết em là ai. Em cũng không có nhà cửa nên cũng không mua sắm đồ đạc. Lương nhà binh cũng chẳng có là bao. Em cũng không ăn diện nên chẳng có nhiều quần áo.
Năm 1972 ở An Lộc về, anh Cẩn mang lon đại tá không biết nghĩ sao anh nói với em, vợ chồng chụp được một tấm hình kỷ niệm. Đây là tấm hình gần như duy nhất. Xin bác dùng tấm hình này của nhà em mà để lên tấm bia lịch sử”.
Tôi nói rằng, tấm hình của cô và anh Cẩn rõ ràng và đẹp lắm. Hoàng Mộng Thu có đưa cho tôi xem. Chúng tôi sẽ dùng hình này. Nhưng tôi vẫn gặng hỏi. “Thế bao nhiêu lần anh thăng cấp cô có dự lễ gắn lon không?”.
” Em đâu có biết. Chỉ thấy anh Cẩn đi về đeo lon mới rồi cười cười. Cũng có thể gọi là những giây phút hạnh phúc của đời nhà binh”.
“Thế cô chú ở Thủ Đức có khi nào đi chơi Vũng Tàu tắm biển không?”.
Bà Cẩn thật thà nói rằng.
“Khi anh Cẩn học ở Đồng Đế thì em và con có ra thăm Nha Trang nên thấy biển. Còn chưa bao giờ được đi với anh Cẩn ra Vũng Tàu. Sau này đến khi vượt biên thì mẹ con em mới thấy biển Vũng Tàu…”
Trong số một triệu chiến binh Việt Nam Cộng Hòa, dường như sĩ quan, anh nào cũng có 1 lần đi với vợ con hay người yêu trên bãi biển Vũng Tàu. Chỉ có hàng binh sĩ, chỉ những người lính là chưa có dịp. Hồ Ngọc Cẩn ở Rạch Giá suốt đời chưa đem vợ Thủ Đức đi Vũng Tàu. Vì vậy chị Cẩn suốt đời vẫn chỉ là vợ lính.
Trong quân đội, dù là tướng tá hay sĩ quan, anh nào mà chả có thời làm lính. Sau đó mới làm quan. Chỉ riêng cô Nguyễn thị Cảnh, vợ đại tá Hồ Ngọc Cẩn là người đóng vai vợ lính suốt đời. Những ngày vui nhất của chị là thời gian được làm vợ anh trung sĩ hiền lành của trường bộ binh Thủ Đức.
Ngày đó đã xa rồi hơn nửa thế kỷ, ở bên kia địa cầu, trên ngọn đồi Tăng Nhơn Phú, có vợ chồng anh lính trẻ mỗi sáng chủ nhật cầm tay nhau để đi lễ nhà thờ.
Tác giả: Giao Chỉ, San Jose

Wednesday, August 28, 2024

Cố Hải-Quân Trung Tá HỒ QUANG MINH Một Sĩ Quan Can Trường, Đảm Lược của Các Đơn Vị Tác Chiến H.Q./ V.N.C.H.

HQ Minh.Khi viết hoặc đề cập đến bất cứ nhân vật nào – dù là một nhân vật lịch sử – người ta cũng thường tùy vào cảm tính để đề cập hoặc viết về phương diện tích cực hay tiêu cực của nhân vật đó.

Hôm nay, viết về Cố Hải-Quân Trung Tá Hồ Quang Minh, tôi xin được nhìn Minh ở bình diện tích cực để nhận ra những nét hào hùng và đức tính gan dạ, liều lĩnh cũng như lòng thương Lính của một sĩ quan mà, kể từ khi mãn khóa 8 Sĩ Quan Hải-Quân Nha Trang cho đến ngày cuối của cuộc chiến, chỉ đảm nhận những đơn vị tác chiến. Tôi cũng chỉ xin viết về những trận đụng độ có tôi tháp tùng mà thôi.

Đơn vị đầu tiên mà tôi biết, sau khi làm vợ của Minh, là Duyên Đoàn 26, đóng tại Bình Ba, trong vịnh Cam Ranh.

Duyên Đoàn là một đơn vị của Hải-Quân, có nhiệm vụ bảo vệ những làng xã dọc theo bờ biển Nam Việt-Nam và trà trộn vào dân làng để tìm các nguồn tin tình báo ngõ hầu khám phá và ngăn chận những chuyến chuyển vũ khí của đối phương từ Bắc vào Nam.

Khi mới thành lập, phương tiện hành quân và di chuyển của Duyên Đoàn là ghe Chủ Lực và ghe Di Cư. Ghe Di Cư chạy bằng buồm màu nâu; ghe Chủ Lực chạy bằng máy. Nhân viên mặc bà ba đen và đều tự nguyện xâm vào lồng ngực bên trái hai chữ “Sát Cộng”.

Thời gian Minh chỉ huy Duyên Đoàn 26, gia đình tôi ngụ tầng trên của một trong mấy căn nhà lầu; tầng trệt làm văn phòng. Các sĩ quan khác, hạ sĩ quan và đoàn viên chia nhau mấy ngôi nhà lầu do Pháp để lại. Mỗi ngày, ngoại trừ Thứ Bảy, Chủ Nhật, tôi đi bộ xuống làng Bình Ba để dạy các em học sinh – miễn phí. Hè và những ngày Lễ, tôi theo đoàn ghe đi kích hoặc hành quân.

Duyên Đoàn 26 thường có những đụng độ nhỏ với du kích Việt Cộng trong vùng trách nhiệm. Ít nhất là hai lần, Duyên Đoàn 26 bắt được hai ghe loại lớn của Trung Cộng giả ghe đánh cá nhưng dưới lòng ghe toàn là vũ khí. Hai chiếc ghe được neo trong vịnh Bình Ba một thời gian ngắn để điều tra rồi được dẫn độ về Nha Trang, giao cho Duyên Khu II khai thác thêm. Duyên Khu II – về sau được đổi thành Vùng II Duyên Hải – dưới quyền chỉ huy của Hải-Quân Thiếu Tá Hồ Văn Kỳ Thoại.

Tôi không nhớ ngày tháng và giờ nhưng tôi nhớ dường như năm 1964, Duyên Đoàn 26 mở cuộc tấn công vào Vĩnh Hy – một “ổ” Việt Cộng. Trên chiếc Chủ Lực, Hải-Quân Thiếu Tá Hồ Văn Kỳ Thoại đứng một bên, Hải-Quân Trung Úy Hồ Quang Minh đứng giữa và Hải-Quân Đại Úy cố vấn Graham đứng một bên. Cả ba sĩ quan đều không mặc áo giáp, không đội nón sắt và đứng gần mũi ghe Chủ Lực khi đạn của Việt Cộng từ sườn núi bắn xối xã ra đoàn ghe. Đoàn ghe vừa ủi bãi tấn công vừa bắn trả dữ đội. Bất ngờ Đai Úy cố vấn Graham trúng đạn, quỵ xuống trong khi Thiếu Tá Thoại và Trung Úy Minh vẫn đứng thẳng để chỉ huy. Khi nhận ra Đại Úy Cố Vấn Graham bị thương, Thiếu Tá Thoại chỉ thị Minh cho lệnh ghe Chủ Lực rút lui để tản thương.

Thời gian đang là Chỉ Huy Phó Giang Đoàn 23 Xung Phong tại Vĩnh Long, Minh được lệnh về Saigon thành lập Giang Đoàng 30 Xung Phong; hậu cứ trong Trại Cữu Long, Thị Nghè. Chỉ sau một thời gian ngắn được thành lập, Giang Đoàn 30 Xung Phong trở thành một trong những đơn vị tác chiến Hải-Quân tạo được nhiều chiến công trên sông rạch – nhất là Cuộc Hành Quân Tam Giác Sắt.

Địa thế Tam Giác Sắt là sự nối liền của xã An Điền, xã An Tây và xã An Phú, thuộc tỉnh Bình Dương. Tam Giác Sắt là chiến khu D – còn gọi là chiến khu Dương Minh Châu – của Việt Cộng.

Hành Quân Tam Giác Sắt là những cuộc hành quân hỗn hợp, quy mô và được chia ra nhiều đợt khác nhau. Giang Đoàn 30 Xung Phong tham dự Cuộc Hành Quân Tam Giác Sắt thứ II, khởi động ngày 09 tháng 01 năm 1967.

Lực lượng Hải-Quân sau đây được đặt dưới sự chỉ huy của – sĩ quan thâm niên hiện diện – Hải-Quân Đại Úy Hồ Quang Minh:

Giang Đoàn 30 Xung Phong, Chỉ Huy Trưởng là Hải-Quân Đại Úy Hồ Quang Minh.

10 chiến đỉnh và một sĩ quan do Giang Đoàn 24 Xung Phong tăng phái

8 giang đỉnh và một sĩ quan do Đại Đội Tuần Giang tăng phái

Các đơn vị Hoa-Kỳ tham chiến:
Một Lữ Đoàn của Sư Đoàn 1
Một Lữ Đoàn của Sư Đoàn 25
Lữ Đoàn 173 Nhảy Dù
Thiết Đoàn 11
Với sự tham dự của pháo đài bay B-52. (1)

Việt Cộng có ưu thế hơn quân V.N.C.H. vì địa đạo hiểm trở và bờ sông cao hơn mặt nước rất nhiều. Chính từ những bờ sông quá cao này, Việt Cộng bắn ra đoàn giang đỉnh một cách thuận lợi trong khi những nòng súng cối trên chiếc Combat (chiến đấu đỉnh) hoặc trên chiếc Commandement (soái đỉnh) và Fom (truy kích đỉnh) không thể ngẫng cao hơn để bắn cầu vòng!

Thế nhưng, bằng vào sự chủ động gan dạ, quyền biến và sự liều lĩnh đầy mưu lược của một sĩ quan ngành chỉ huy, Minh đã chuyển đơn vị Hải-Quân từ thế thủ sang thế công và đem chiến thắng vẻ vang về cho quân bạn và Giang Đoàn 30 Xung Phong.

Sau chiến thắng Hành Quân Tam Giác Sắt II, đích thân Tổng Thống V.N.C.H. Nguyễn Văn Thiệu viếng thăm, ủy lạo và gắn huy chương cho binh sĩ Giang Đoàn 30 Xung Phong cũng như binh sĩ của 10 chiến đỉnh thuộc Giang Đoàn 24 và binh sĩ của 8 giang đỉnh của Đại Đội Tuần Giang. Riêng Minh được gắn Bảo Quốc Huân Chương – một huy chương cao quý nhất của Q.L./V.N.C.H. Từ đó Minh được tặng danh xưng “Người Hùng Tam Giác Sắt” (2)

Khi anh Nguyễn Công An đọc điếu văn đến đoạn trên, tôi chợt nhớ là thời gian đó Minh bảo mấy anh Lính khiên chiếc xa-lông một chỗ ngồi, từ phòng khách nhà tôi, đem xuống chiếc Commandement để Tổng Thống Thiệu ngồi.

Sau lễ gắn huy chương, Minh được đài phát thanh Quân Đội phỏng vấn. Minh đáp lời nữ xướng ngôn viên: “Việt Cộng chết đếm không xuể. Xác nổi lềnh bềnh. Phải khó khăn lắm, khi di chuyển, đoàn chiến đỉnh mới không đụng vào xác người!”

Qua những giờ phút mừng vui chiến thắng, Minh và tất cả sĩ quan, hạ sĩ quan và đoàn viên thuộc Giang Đoàn 30 Xung Phong phải trực diện với nỗi buồn chung của đơn vị. Đó là vấn đề lo hậu sự cho những quân nhân đã đền nợ nước.

Để thể hiện tình đồng đội, Minh ra lệnh tất cả quân nhân thuộc Giang Đoàn 30 Xung Phong phải cạo đầu để tang cho những chiến hữu đã hy sinh trong Cuộc Hành Quân Tam Giác Sắt. Ngày cử hành tang lễ, nhân viên Giang Đoàn 30 Xung Phong đều không đội mũ, ngồi trên mấy chiếc GMC đến viếng quan tài các bạn đồng đội. Đến địa điểm hành lễ, mọi người tham dự đám tang và gia đình tử sĩ đều xúc động, bồi hồi khi thấy một đoàn dài quân nhân Hải-Quân đầu cạo nhẵn và nghe Chỉ Huy Trưởng Hồ Quang Minh – đầu cũng cạo nhẵn – đọc điếu văn và xác định rằng tất cả quân nhân thuộc Giang Đoàn 30 Xung Phong đều cạo đầu, để tang cho những quân nhân đã gục ngã trong Cuộc Hành Quân Tam Giác Sắt!

Những quân nhân từng phục vụ cùng đơn vị với Minh không ai có thể phủ nhận lòng thương Lính của Minh. Lòng thương Lính của Minh khiến tôi nghĩ đến sự dã man và tàn bạo của Đại Tướng Cộng Sản Việt-Nam Võ Nguyên Giáp.

Trong cuộc chiến tranh Việt-Nam, cũng như trận Điện Biên Phủ với Pháp, Đại Tướng Việt Cộng Võ Nguyên Giáp đã bắt chước chiến thuật biển người của Trung Cộng để xua thanh niên Việt-Nam vào chỗ chết! Điểm đáng lưu ý là: Trong số không biết bao nhiêu thanh niên Việt-Nam bị Tướng Giáp xua vào trận địa để thực hiện chiến thuật biển người, không ai thấy hoặc biết có con, cháu hoặc người bà con nào của Tướng Giáp cả! Đại Tướng Võ Nguyên Giáp đã xây đắp đời binh nghiệp của Ông bằng cách bắt chước một chiến thuật đầy man rợ! Vì vậy, một danh Tướng của Hoa Kỳ, Tướng William Childs Westmoreland – Tư Lệnh Bộ Chỉ Huy Cố Vấn quân sự Mỹ tại miền Nam Việt-Nam – nhận xét về Đại Tướng Võ Nguyên Giáp như sau: “Of course, he was a formidable adversary. By his own admission, by early 1969, I think, he had lost, what, a half million soldiers? He reported this. Now such a disregard for human life may make a formidable adversary, but it does not make a military genius…”.

Tôi đồng ý với nhận xét của Tướng Westmoreland. Một sĩ quan biết quý trọng mạng sống của thuộc cấp mà vẫn đem chiến thắng về cho đơn vị thì đó là một sĩ quan có mưu lược và nghệ thuật chỉ huy cao. Cố Hải-Quân Trung Tá Hồ Quang Minh là một trong những sĩ quan này!

Năm Mậu Thân, 1968, Giang Đoàn 30 Xung Phong tăng cường cho quận Bảy, giữ an ninh thủy lộ và yểm trợ Biệt Động Quân trong vùng Bình Điền, Bình Chánh và Chợ Lớn. Thời gian này Giang Đoàn 30 cũng có những đụng độ với Việt Cộng; nhưng những đụng độ này không đủ tầm cỡ để thỏa mãn tính năng động của Minh.

Mãi cho đến khi thuyên chuyển về Giang Đoàn 26 Xung Phong, hậu cứ tại Long Xuyên, Minh mới có cơ hội “vẫy vùng” trở lại trên những dòng sông quyện phù sa và máu – máu của thanh niên hai miền Nam Bắc Việt-Nam – tại Vùng IV Sông Ngòi.

Chính tại Vùng IV Sông Ngòi tôi mới thấy rõ lòng quý mến và tin tưởng của quân nhân Địa Phương Quân đồn trú trong các đồn rải rác dọc những bờ sông hoang vắng dành cho quân nhân thuộc các đơn vị tác chiến Hải-Quân. Tình cảm của Địa Phương Quân cộng với tinh thần “huynh đệ chi binh” và lòng quả cảm của Minh đã thúc đẩy Minh – đôi khi – bất chấp cả lệnh của Tỉnh Trưởng, tự động đưa đoàn giang đỉnh đến giải cứu các đồn Nghĩa Quân khi nghe lời kêu cứu của họ!

Trong khi đoàn chiến đỉnh giang hành đến đồn đang kêu cứu, Minh tiên liệu trước, và ra lệnh những khẩu đại pháo trên Monitor, Commandement 01 và fom sẵn sàng – hễ địch quân khai hỏa là tất cả hỏa lực của chiến đỉnh đáp trả ngay.

Những khi đạn của hai bên xé không gian và đạn của địch rơi quanh đoàn chiến đỉnh, tôi thấy Minh vẫn trầm tĩnh đứng thẳng – không áo giáp, không nón sắt – gần mũi chiếc Commandement 01 để chỉ điểm và ra lệnh cho đoàn chiến đỉnh phản công. Đối với tôi, hình ảnh đẹp nhất và in đậm nét trong tâm tưởng tôi là mấy chiếc fom hoặc PBR (River Patrol Boat – Giang Tốc Đỉnh) – khi Minh là Chỉ Huy Trưởng Liên Giang Đoàn Tuần Thám hoặc Liên Giang Đoàn Ngăn Chận – từ cuối đoàn chiến đỉnh, rẻ nước, vượt nhanh lên, vừa lướt “vèo vèo” trên mặt sông vừa thi hành khẩu lệnh của Minh: “Cho ‘gà cồ’ của mày ‘gáy’ hướng 3 giờ” Hoặc “Cho ‘gà cồ’ của mày ‘gáy’ hướng 10 giờ”, v. v…

Nhân viên Giang Đoàn 26 thường bảo nhau: “Đi hành quân tụi mình đừng đứng gần ổng. Mạng ổng lớn, mình đứng gần ổng, đạn ‘né’ ổng là tụi mình lảnh đủ!” Tôi không hiểu nhận xét của mấy anh Lính đúng được bao nhiêu phần trăm. Nhưng tại kinh Trèm Trẹm, buổi chiều, Minh rời vùng hành quân, giao đơn vị cho Chỉ Huy Phó là Đại Úy Trần Kim Hoàn thì tối đó chiếc Commandement 01 bị người nhái Việt Cộng gài mìn, nổ, chìm, mang vào lòng sông những người Lính đã từng sống chết với Minh!

Nhận được tin chiếc Commandement 01 bị chìm, Minh tức tốc trở lại vùng hành quân bằng đường bộ.

Vài hôm sau, tôi thấy Người Nhái Hải-Quân lặn xuống, vớt lên những xác người đã phồng to, căn cứng trong quân phục Hải-Quân! Tôi khóc! Và tôi thấy Minh mím môi, nét mặt của Minh đanh lại và ánh mắt của Minh trông hoang vắng lạ thường!

Thời gian Giang Đoàn 26 Xung Phong được lệnh chuyển vùng hành quân về quận Gò Quau, Chương Thiện, tôi phải trở về Saigon lo việc gia đình. Minh điện thoại cho tôi hay rằng Minh đã gặp Thiếu Tá Phép, Quận Trưởng quận Gò Quau và Phó Quận Hành Chánh mà tôi không nhớ tên. Khi nói chuyện, ông Phó Quận Hành Chánh hỏi Minh rằng có phải tên thật của Điệp Mỹ Linh là Thanh Điệp hay không? Nếu đúng thì ngày trước ông Phó Quận Hành Chánh cùng học với tôi tại trường trung học Võ Tánh Nha Trang và ông Phó Quận Hành Chánh biết tôi chơi đàn Accordéon. Vậy là hai ông yêu cầu Minh bảo tôi đem Accordéon theo khi tôi trở lại vùng hành quân để chung vui với dân làng và mọi người trong dịp Tết.

Chiều 30 Tết, dân làng tề tựu tại vuôn sân rộng ngay trước Quận Đường để thưởng thức văn nghệ “cây nhà lá vườn” thì Việt Cộng pháo kích ào ạt! Mọi người chạy tán loạn. Kẻ chạy về làng, người trở về vị trí phòng thủ, kẻ trở ra giang đỉnh. Minh cho lệnh đoàn giang đỉnh phân tán mỏng để tránh tổn thất và cũng để tìm vị trí của địch mà phản công.

Khi bị hỏa lực hùng hậu của Giang Đoàn 26 phản pháo, Việt Cộng ngưng pháo kích để khỏi lộ mục tiêu.

Lúc giang hành trở lại văn phòng quận Gò Quau, Minh hỏi các chiến đỉnh xem “Thủy Thủ không số quân” đang ở trên chiếc nào? Không ai thấy tôi cả! Thấy Minh có vẻ lo, anh truyền tin pha trò để Minh cười cho vui: “Chắc Thủy Thủ của Chỉ Huy Trưởng…đào ngũ rồi!” Minh cười gượng: “Mẹ, Bả mà đào ngũ, ai nuôi con tao, mày!” Rồi Minh liên lạc vô tuyến với Thiếu Tá Phép để hỏi về tổn thất nhân mạng và cũng để tìm tôi. Thiếu Tá Phép cho biết “tụi nó pháo trật lất” và “Thủy Thủ không số quân” bình yên, đang ngồi trên nền xi-măng vì không nỡ bỏ cây đàn Accordéon!

Sự việc kể trên cho thấy, khi đụng trận, Minh lo cho đơn vị và thuộc cấp trước!

Trong thời gian hành quân dài hạn tại Kinh Ngang để yểm trợ cho Sư Đoàn 21 Bộ Binh, Giang Đoàn 26 Xung Phong thường bị phục kích từ hai bên bờ sông. Mỗi khi bị phục kích, Giang Đoàn vừa bắn trả vừa ủi thẳng vào nơi xuất phát tiếng súng của địch quân. Trước hỏa lực như vũ bão của Giang Đoàn, địch quân đành “chém vè”. Những cuộc đụng độ này tuy không lớn như những cuộc chạm súng tại kinh Trèm Trẹm, Neak Loeung – biên giới Miên Việt – hoặc xã Hộ Phòng, quân Gia Rai, Bạc Liêu (3) nhưng an ninh vùng Kinh Ngang được bảo đảm tối đa. Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh – Chuẩn Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi – rất hài lòng.

Một buổi trưa, cũng tại King Ngang, tin từ Sư Đoàn 21 Bộ Binh cho Minh biết, tối đó, Sư Đoàn 21 sẽ làm lễ mừng Chuẩn Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi được vinh thăng Thiếu Tướng. Ban tổ chức mời Minh, vài sĩ quan và tôi đến tham dự.

Tối đó, khi được yêu cầu một tiết mục văn nghệ, tôi hát tình khúc Only You; vì tôi biết, nếu hát nhạc Việt, không thể nào tôi “qua mặt” được những ca sĩ nhà nghề như Elvis Phương, Giao Linh, Thanh Tuyền, Phương Dung, v. v… đang giúp vui hôm đó.

Sáng sớm hôm sau, trên đường trở lại vùng hành quân, Minh được tin một chiếc LCM (Langding Craft Mechanized – Quân Vận Đỉnh) của Giang Đoàn 26 vừa trúng thủy lôi, chìm! Minh bảo tài xế tăng tốc độ tối đa và Minh chỉ thị cặp fom đón Minh tại một bờ sông mà tôi không nhớ tên!

Trong khi cặp fom đưa trở lại vùng hành quân, tôi cũng thấy Minh mím môi, nét mặt đanh lại và ánh mắt của Minh cũng hoang vắn lạ thường!

Tôi không nhớ khi chiếc Commandement 01 và chiếc LCM bị chìm, Minh có ra lệnh cho toàn nhân viên Giang Đoàn 26 Xung Phong cạo đầu hay không. Nhưng tôi nhớ, mỗi khi “quá giang” các giang đoàn khác để vào vùng hành quân của Giang Đoàn 26, tôi – dù đang mặc quân phục Thủy Thủ – cũng “bị” Chỉ Huy Trưởng hoặc Thuyền Trưởng của đơn vị đó bắt ngồi bên trong chiến đỉnh.

Đến vùng hành quân, sau khi từ chiến đỉnh của Giang Đoàn bạn bước sang chiến đỉnh của Giang Đoàn 26, nếu thấy Minh, tôi đứng nghiêm, đưa tay chào: “Thủy Thủ không số quân Điệp Mỹ Linh ‘trình diện’ Chỉ Huy Trưởng!” Minh cười lớn, nói với bất cứ quân nhân nào thấy cảnh này: “Bả trình diện tao! Mày thấy tao ‘ngon’ không, mày?” Rồi mọi người cười vang.

Những kỷ niệm về sự “trình diện” của “Thủy Thủ không số quân” tưởng đã chìm sâu trong quá khứ; vì tôi hoàn toàn không nhớ được. Nhưng, trong tang lễ của Minh, khi các cựu quân nhân thuộc Hội Hải-Quân Houston, mặc quân phục đại lễ, đến chào tiễn biệt Minh và trao lá cờ Việt-Nam Cộng Hòa cho tôi thì những kỷ niệm xưa cuồn cuộn dâng trào trong hồn tôi! Tôi khóc nhiều và nhận ra những kỷ niệm đó tươi đẹp, trắng xóa và sôi nổi không khác chi những lượn sóng do những chiếc fom hoặc PBR rẻ nước, lướt “vèo vèo” trên những dòng sông xưa, tạo nên.

Vì hồn tôi đang dậy sóng, cho nên, khi cảm tạ Hội Hải-Quân Houston và quan khách, tôi đã quá xúc động, đứng nghiêm trước di ảnh của Minh và tức tửi lập lại câu nói xưa – chỉ thay đổi động từ: “Thủy Thủ không số quân Điệp Mỹ Linh xin chào vĩnh biệt Chỉ Huy Trưởng Hồ Quang Minh!” Sau đó, anh Võ Công Mạnh, cựu sĩ quan thuộc Giang Đoàn 30 Xung Phong nói với tôi: “Thấy chị chào vĩnh biệt Ổng, tôi khóc!”Anh Lưu Đức Huyến, trong Hội Hải-Quân Houston, cũng bảo: “Thấy chị chào ảnh anh Minh, tôi chịu không được! Tôi muốn khóc!”

Tôi nhìn Minh ở khía cạnh tốt đẹp nhất của một sĩ quan tác chiến. Dù Minh có khuyết điểm – đã là người, ai không có khuyết điểm – thì những khuyết điểm đó, xin quý vị nam giới cũng nên tự hỏi, đã có vị nào, dù ít hay nhiều, không vướng phải?

Điều quan trọng nhất là: Khi nước nhà nguy biến, Quân Lực cần những sĩ quan gan dạ, liều lĩnh, mưu lược và biết quý trọng mạng sống của thuộc cấp – như Cố Hải-Quân Trung Tá Hồ Quang Minh – để chỉ huy chứ Quân Lực không cần và cũng không muốn đưa những nhà hiền triết hoặc tu sĩ ra chiến trận!

Viết đến đây, lòng tôi không còn những rung động lãng mạn như thời mới lớn để ru hồn bằng thơ của Hàn Mạc Tử:
Người đi một nửa hồn tôi mất,
Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ!

Nhưng, kể từ hôm Minh qua đời đến nay, lúc nào trong tâm thức tôi cũng văng vẳng tiếng hát xưa: “… Về đâu, tâm hồn này bềnh bồng. Về đâu, thân này mòn mỏi trông! Về sau và nhiều năm sau nữa, có buồn nhưng sẽ không bao giờ bằng hôm nay!…”(4)

ĐIỆP MỸ LINH.
Thủy Thủ không số quân.