Monday, January 28, 2013

Mùa Xuân cho những người lính cũ


Tác nhân của những đổi thay tại Việt Nam ngày nay
Ðến đây, một vài câu hỏi cần phải được nêu lên: Do đâu mà có những “đổi mới” và những tiến bộ trong các hoạt động kinh tế lẫn trong đời sống chính trị như vậy tại Cộng Sản Việt Nam ngày nay?

Phải chăng chủ nghĩa xã hội tại Việt Nam dưới tay các lãnh tụ như Hồ Chí Minh, Lê Duẫn, Nguyễn Văn Linh, Ðỗ Mười, Nông Ðức Mạnh... tự nó biết chuyển mình theo thời thế mà kịp thời thực hiện những bước thay đổi về kinh tế và chính trị để cho dân chúng được sung túc hơn, thoải mái hơn, tự do hơn? Câu trả lời sẽ là “không,” tuyệt đối “không,” nếu một tác nhân quan trọng là nếp sống dân chủ và nền kinh tế tự do của Miền Nam Việt Nam từ 1975 trở về trước không ảnh hưởng sâu đậm lên và tác động mạnh mẽ tới nếp suy nghĩ và hành động của Ðảng Cộng Sản Việt Nam và chính quyền của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.

Vậy thì, cái tác nhân quan trọng kia trong tiến trình thay da, đổi thịt của chủ nghĩa xã hội (Cộng Sản) tại Việt Nam ngày nay là gì? Xin thưa, đó chính là cái mầm mống tự do, dân chủ đã được ươm, cấy và trồng sẵn tại Miền Nam Việt Nam mà khi mới bước vào để “giải phóng” nơi đây thì những người Cộng Sản Việt Nam - những đảng viên, những chính ủy, những cán bộ, những bộ đội, những dân công, những công an, những tay nằm vùng, vân vân - đã không thể nào tránh khỏi bị nhiễm phải. Cái mầm mống tự do, dân chủ ấy rất đa dạng và được tìm thấy nhan nhản trên khắp mọi cơ sở, mọi tụ điểm, mọi nẻo đường, mọi hang cùng, ngõ hẻm của Miền Nam Việt Nam trong những ngày đầu Quốc-Cộng chính thức đối mặt nhau, đó là ngày 30 Tháng Tư năm 1975.

Mầm mống này có thể là nếp sống bình dị của người dân “Nam Bộ” tại Xóm Cái Tàu ở An Xuyên (Cà Mau), là cái lễ độ của các em học sinh trường Trung Học Phan Châu Trinh tại Ðà Nẵng, là sự uyên bác và tính chuyên nghiệp cao của các quân y sĩ Việt Nam Cộng Hòa đang bị đưa đi tập trung cải tạo tại Sông Bé (Phước Long), là nét vừa đa tình, lãng mạn vừa bình dị trong lời nhạc của bản “Duyên Kiếp” do nhạc sĩ Lam Phương sáng tác và được nữ ca sĩ Thanh Tuyền trình bày, là thói quen tự mình bỏ tiền ra mua sắm máy dò tìm cá biển để ra khơi đánh cá mà sinh sống của các ngư dân Phan Thiết, hay, cụ thể hơn một chút, là chuyện các vị dân cử tại Hạ Viện Việt Nam Cộng Hòa, tuy mang tiếng là bọn đào kép diễn tuồng cho “Nhà Hát Tây” ở Sài Gòn nhưng trong số đó vẫn có không ít người từng chống (Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu), chửi (nước bạn đồng minh) Mỹ thẳng thừng mà không hề bị bắt giam hay bách hại...

Chẳng bao lâu sau khi những người Cộng Sản từ Miền Bắc Việt Nam tiến vào làm chủ các căn cứ quân sự, đồn bót, công sở, trường học, xí nghiệp và cơ sở xã hội từ Bến Hải tới Cà Mau, những người dân Miền Nam Việt Nam - từng khờ khạo nghe theo những lời tuyên truyền, dụ gạt đường mật của Cộng Sản mà biểu tình, chống đối chính quyền Miền Nam đặng làm suy yếu sức chiến đấu của quân, dân, cán, chính Việt Nam Cộng Hòa để cho Cộng Sản dễ dàng và mau lẹ thôn tính Miền Nam - đã bắt đầu “sáng mắt ra” khi họ kinh hoàng nhận thấy bộ mặt thật của chủ nghĩa Cộng Sản ngày càng lộ rõ. Những biện pháp độc tài và vô nhân đạo như tập trung cải tạo hằng trăm nghìn sĩ quan và viên chức cũ của Việt Nam Cộng Hòa, xua đuổi hằng triệu dân chúng thất nghiệp và nghèo khó từ các thành thị đi khai khẩn đất hoang ở những vùng kinh tế mới khô cằn và đầy bệnh tật, tịch thu tài sản và tiền bạc làm ra từ mồ hôi và nước mắt của đám người bị gọi là bọn “tư sản mại bản” tại Miền Nam... đã được đem ra thi hành để trừ khử cho bằng được cái gọi là “tàn tích của Mỹ-Ngụy” còn sót lại tại Miền Nam Việt Nam. “Chủ nghĩa công thần” và phân biệt lý lịch được triệt để áp dụng để loại bỏ những tài năng của đất nước sinh ra từ các gia đình “ngụy quân, ngụy quyền” và đưa lên hàng thượng đẳng một giai cấp thống trị mới trong xã hội là giai cấp cán bộ nhà nước, bộ đội và anh hùng, liệt sĩ cách mạng.

Nhưng điều bất ngờ hơn hết là những ảnh hưởng về xã hội, kinh tế và chính trị trong cuộc tiếp xúc chính thức đầu tiên giữa hai kẻ đối nghịch nhau về ý thức hệ này lại mang tính hỗ tương, nghĩa là nếp sống và văn hóa của người chinh phục cũng bị nếp sống và văn hóa của kẻ bị trị chi phối. Nói cách khác, cách sống dễ dãi, phóng khoáng và tự do, dân chủ của người dân Miền Nam Việt Nam hiền hòa - hiện là gia cấp bị trị - cũng đã tạo ảnh hưởng mạnh mẽ lên nếp suy nghĩ và hành động đám người thuộc giai cấp cai trị từ Miền Bắc vào. Vì chủ nghĩa Cộng Sản vốn mang tính không tưởng, nghĩa là không thể nào đem ra áp dụng được, cho nên, theo thời gian, những nét đặc thù về kinh tế, văn hóa, xã hội và cả chính trị của Miền Nam Việt Nam bắt đầu tác động ảnh hưởng lên, trước hết là trên đám cán bộ thừa hành từ Bắc Bắc Phủ và sau nữa là trên các đảng viên Cộng Sản trung ương từ Hà Nội được bổ nhiệm vào cai trị trong Nam.

Miền Nam thắng ngược Miền Bắc

Năm 1985, nhân kỷ niệm 10 năm ngày Cộng Sản chiến thắng tại Việt Nam, lần đầu tiên, các nhà báo Tây phương - trong đó có các phóng viên và ký giả thuộc các đài truyền hình và báo chí Mỹ - được mời sang Việt Nam để quan sát những gì mà Cộng Sản Việt Nam quảng cáo là những thay đổi và tiến bộ to lớn mà họ đã thực hiện được tại Việt Nam, nhất là tại Miền Nam Việt Nam là vùng đất mà họ đã có công “giải phóng” khỏi tay “thực dân mới” là Mỹ.

Kurt Andrsen, trong bài báo ngày 15 Tháng Tư, 1985 nhan đề “Một Xứ Sở Bị Kềm Kẹp và Bưng Bít”(A Pinched and Hermetic Land) trên tạp chí Time, tường thuật như sau về tình hình 10 năm sau ngày Cộng Sản chiếm được Miền Nam Việt Nam:
Việt Nam là một trong những nước nghèo nhất thế giới... Cuộc khủng hoảng (kinh tế và chính trị) đã buộc nhà cầm quyền phải đưa ra những biện pháp cải cách. Hiện tại, một hệ thống kinh tế tự do có giới hạn đang được áp dụng, cho phép nông dân và ngư dân được bán ra các sản phẩm thặng dư [vượt chỉ tiêu] để kiếm lời. Vì thế, có trường hợp một nhà trồng tỉa giàu óc kinh doanh tại Miền Bắc đã kiếm tiền nhiều gấp năm lần người con trai của bà đang làm công nhân viên nhà nước tại Hà Nội. Năm 1983, sau nhiều năm đói kém, lần đầu tiên Việt Nam có đủ lương thực nuôi sống chính dân mình. Mặc dù tại Hà Nội chuyện nuôi lợn riêng là bất hợp pháp, nhiều cư dân tại thủ đô của Việt Nam vẫn tìm cách chăm sóc một đàn lợn con tại nhà; gia chủ chỉ cần bán ra một con lợn thịt không thôi cũng có thể thu vào lợi tức tương đương với lương cả một năm trời của một công nhân viên cấp cao...”
So sánh cuộc sống của dân chúng Việt Nam ở hai miền Nam, Bắc, Andersen viết:
Hai miền của Việt Nam được chính thức thống nhất với nhau vào năm 1976, nhưng sự khác biệt vẫn rõ nét. Nhìn chung, cuộc sống tại Miền Bắc dường như bị kềm kẹp nhiều hơn, hàng hóa không có mấy... Ðồng thời, thỉnh thoảng vẫn có tình cảm ganh tị với Miền Nam đang được sống thoải mái hơn. Tại thành phố Hồ Chí Minh (Sài Gòn), nhà cầm quyền đã triệt hạ hầu hết nếp sống say sưa và trụy lạc, nhưng đô thị này vẫn buôn bán cuồng nhiệt... 'Một đất nước nhưng nằm dưới hai hệ thống cai trị,' vẫn là lời giải thích đầy nuối tiếc và mang tính tuyên truyền cho những khác biệt Nam-Bắc đó. Ấy vậy mà một số nếp sống Tây phương vẫn xâm nhập được ra tới ngoài Bắc. Các băng nhạc pop của Mỹ được đem chơi khắp nơi. Và điều lạ lùng hơn hết là các du khách người Mỹ hiếm hoi, dù đến bất cứ nơi đâu, cũng đều được dân chúng đối đãi với lòng kính phục và ngay cả với thiện cảm rõ rệt nữa.”

Một thập niên sau khi cuộc chiến tranh Việt Nam chấm dứt, cảm tưởng chung của các nhà báo Tây phương và các du khách sau những chuyến viếng thăm Việt Nam, ngoài những điều khác, là nhận định rằng miền Bắc Việt Nam đã thắng Miền Nam về quân sự, nhưng Miền Nam Việt Nam đã thắng ngược lại Miền Bắc về kinh tế, và không chừng sẽ còn thắng luôn về chính trị nữa - ý nói tới phong trào đổi mới tư duy và hành động đang chớm nở tại Cộng Sản Việt Nam vào thời điểm đó.

Trong lịch sử nhân loại, không thiếu gì trường hợp mà văn hóa và nếp sống của lớp người bị chinh phục đã làm thay đổi văn hóa và nếp sống của lớp người đến chinh phục. Chẳng cần nhìn đâu cho xa, trên đất nước Trung Hoa thời phong kiến, người Mông Cổ và người Mãn Thanh đã bị Hán hóa gần như hoàn toàn khi họ đem binh mã sang chiếm đóng Trung Nguyên và lập ra các triều đại Nguyên và Thanh tại Trung Quốc. Ngày nay, từ Miền Nam Việt Nam ngược trở ra Miền Bắc, chủ nghĩa xã hội tại Việt Nam đã thay hình, đổi dạng. Ðại Hội Ðảng Cộng Sản Việt Nam lần Thứ Sáu năm 1986 đánh dấu một khúc quanh lịch sử trong tiến trình “đổi mới” của chế độ Cộng Sản tại Việt Nam, một mặt là để theo đuôi phong trào perestroika do Tổng Bí Thư Mikhail Gorbachev đề xướng tại Liên Xô, nhưng mặt khác cũng chính là vì ảnh hưởng ngày một mạnh của nếp sống tự do, dân chủ mà nhân dân Miền Nam Việt Nam trước đây từng được hưởng. (9)

Hồi mới vào Nam, những người Cộng Sản tuy bề ngoài vẫn lộ vẻ coi thường những người Miền Nam chiến bại, nhưng bên trong họ vẫn thầm thán phục và kính nể nếp sống văn minh và phồn thịnh tại vùng đất mà họ vẫn cho là mình có sứ mạng phải tiến vào “giải phóng” vì cứ tưởng lầm rằng dân chúng tại đây thật sự đang bị kềm kẹp, bóc lột và khổ đau dữ lắm. (Nhạc sĩ Cộng Sản Huỳnh Minh Siêng, trong nhạc phẩm “Tiến Về Sài Gòn,” chẳng đã mô tả dân chúng tại thủ đô Miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ là đang “rên xiết đêm ngày” đó sao?) Ðây chính là hậu quả tai hại của hơn hai thập niên tuyên truyền, nhồi sọ và phỉnh gạt con người mà Cộng Sản Việt Nam đã dùng để lừa dối chính mình và kẻ khác, cho nên phần lớn chiến thắng vừa rồi trong cuộc Chiến Tranh Việt Nam của họ chẳng qua chỉ là do người Cộng Sản đã biết khéo léo tự lừa dối mình và sau đó lừa dối được dân chúng Miền Nam Việt Nam và các đồng minh khờ khạo của Việt Nam Cộng Hòa trên khắp thế giới.

Hai ông Bùi Tín và Vũ Thư Hiên, những người Cộng Sản cũ của Việt Nam, có thể là những người biết rõ hơn ai hết cái tác động ghê gớm của những trò lừa dối này. Những tên tuổi của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam cỡ Bác Sĩ Dương Quỳnh Hoa, Luật Sư Nguyễn Hữu Thọ và Luật Sư Trương Như Tảng cũng biết rõ điều này. Các chính khách, trí thức và văn nghệ sĩ của Miền Nam Việt Nam trước đây có cảm tình với Cộng Sản và mong ước Việt Nam Cộng Hòa chóng “tiêu diêu” cỡ Trịnh Công Sơn, Ðoàn Văn Toại và Linh Mục Chân Tín cùng một số tăng, ni Phật Giáo chuyên chống chính phủ ắt hẳn phải thấm điều này. Ngay như ở bên Mỹ, Joan Baez, và về sau - trong một chừng mực nào đó - là cả Jane Fonda cùng một số cựu chiến binh phản chiến nữa, cũng đã thấy cái đó. Mà nếu không thấy cái đó thì không thể giải thích được tại sao mà sau năm 1975 hằng triệu người Việt Nam đã phải liều chết ra đi trên những con thuyền gỗ mong manh và lậu nước để mong được tới những bến bờ tự do vừa xa xôi vừa bấp bênh như thế.
Ai đã mở mắt cho dân chúng Miền Nam Việt Nam? Ai đã mở mắt cho dân chúng Miền Bắc Việt Nam? Ai đã mở mắt cho dân chúng Mỹ, dân chúng Pháp, dân chúng Anh, dân chúng Thụy Ðiển...? Ai đã mở mắt cho Tổ Chức Khoa Học, Giáo Dục và Văn Hóa Liên Hiệp Quốc (UNESCO)? Và sau cùng, ai đã mở mắt cho Ðảng Cộng Sản Việt Nam từ cấp cán bộ quèn cho tới cấp cán bộ Trung Ương Ðảng? Xin thưa: kẻ đó chính là nền dân chủ và nếp sống tự do của Miền Nam tự do mà Quân, Dân, Cán, Chính của Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh biết bao nhiêu xương máu trong suốt gần ba thập niên để gìn giữ cho tới khi tài nguyên cạn kiệt mới chịu buông xuôi. Mà hễ đã nói đến máu xương, đã nói đến hy sinh này nọ thì phải nói tới những công lao to lớn và hy sinh cao cả của những người lính Cộng Hòa, kể cả những người đã để lại danh thơm trong quân sử cũng như những anh hùng không tên tuổi của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Một chút lịch sử: Bước thăng trầm của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa

Từ năm 1950 cho tới năm 1975, Quân Ðội Quốc Gia Việt Nam, Quân Ðội Việt Nam Cộng Hòa và Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã có những thời điểm và giai đoạn lịch sử tưởng chừng như là nguy kịch đến nơi rồi, nhưng họ vẫn đứng vững cho tới năm 1975 để hà hơi, tiếp sức cho cái mầm dân chủ, tự do của đất nước mà giờ đây đang trở thành mầm sống và nguồn hy vọng của dân tộc Việt Nam thống nhất. Hồi năm 1954, sau khi quân đội Liên Hiệp Pháp (trong đó có Quân Ðội Quốc Gia Việt Nam) bị bại trận tại Ðiện Biên Phủ, Quân Ðội Quốc Gia Việt Nam đã có nguy cơ bị tan rã nếu ông Ngô Ðình Diệm không kịp thời về chấp chánh, nắm giữ quyền thủ tướng chính phủ.

Sau Hiệp Ðịnh Geneva, trong hai năm 1954 và 1955, Quân Ðội Quốc Gia Việt Nam cũng đã gặp phải nguy cơ bị chia năm, xẻ bảy nếu chính quyền Ngô Ðình Diệm không đánh dẹp được quân đội riêng của các lực lượng, phe nhóm bất hợp tác khác trong nước mà Thực Dân Pháp đã dung dưỡng nhằm thao túng chính trường Miền Nam sau khi họ phải rút về.
Kể từ cuộc khủng hoảng Phật Giáo vào mùa Hè năm 1962, Quân Ðội Việt Nam Cộng Hòa cũng đã gặp phải nguy cơ suy sụp - nhưng rồi vẫn đứng vững - vì du kích quân thuộc cái gọi là Mật Trận Giải Phóng Miền Nam đã thừa lúc dân chúng tại các thành thị Miền Nam Việt Nam mải mê xuống đường đánh phá chính phủ Ngô Ðình Diệm mà tăng cường những vụ tấn công trực diện vào các tỉnh lỵ, quận lỵ tại Miền Nam, tràn ngập nhiều chi khu và chiếm đóng nhiều quận lỵ trên toàn quốc.

Sau khi Tổng Thống Diệm bị các tướng lãnh trong quân đội Miền Nam - có sự giật dây của chính quyền Kennedy vì Mỹ vẫn đổ lỗi cho chính phủ của Ông Diệm là đã gây ra cuộc khủng hoảng Phật Giáo làm suy yếu cuộc chiến đấu chống Cộng tại Miền Nam Việt Nam - đảo chánh rồi ám sát vào cuối năm 1963, Quân Ðội Việt Nam Cộng Hòa cũng đã thật sự phải đối diện với nguy cơ sụp đổ trước các cuộc tấn công gia tăng ác liệt của Cộng quân. Các bản tin chiến sự cho hay Cộng quân, lợi dụng tình trạng hỗn quan, hỗn quân tại Miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ, đã gia tăng các cuộc tấn công lấn chiếm trên toàn quốc, khiến cho lãnh thổ quốc gia tại Miền Nam Việt Nam ngày càng bị thu hẹp, với nhịp độ thất thủ có lúc lên đến chóng mặt là mỗi tuần mất đi một quân lỵ và mỗi tháng mất đi một tỉnh lỵ.

Nhưng, từ năm 1965 trở đi, sau khi mọi xáo trộn đã qua và kể từ lúc phe quân nhân thực sự nắm giữ quyền chính trị và quân sự tại Miền Nam Việt Nam - với danh xưng mới là Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa - thì quân đội Miền Nam Việt Nam đã phục hồi lại phần lớn năng lực đã mất để có thể mở các chiến dịch hành quân tảo thanh Việt Cộng và bình định nông thôn trên bốn vùng chiến thuật. Cũng trong khoảng thời gian này, Hoa Kỳ đã trực tiếp can dự vào cuộc Chiến Tranh Việt Nam qua việc các đơn vị Thủy Quân Lục Chiến, Không Vận, Bộ Binh, Không Quân và Hải Quân Mỹ cùng quân đội các nước đồng minh khác như Ðại Hàn Dân Quốc, Úc Ðại Lợi, Tân Tây Lan,... tham gia chiến đấu chống lại Cộng quân bên cạnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.

Biến cố Tết Mậu Thân đầu năm 1968 là một đòn nữa giáng vào quân đội Miền Nam Việt Nam khi hằng chục sư đoàn Cộng quân gồm quân chính quy Cộng Sản Bắc Việt và quân du kích của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam đồng loạt mở cuộc “tổng tấn công, tổng nổi dậy” bất ngờ trong thời gian hưu chiến nhân dịp Tết, đánh vào nhiều tỉnh lỵ và thành phố tại Miền Nam Việt Nam, kể cả thủ đô Sài Gòn và cố đô Huế. Nhưng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã đứng vững và lần lượt tái chiếm hết những phần đất bị Cộng quân tạm chiếm, kể cả cố đô Huế, và xóa tên nhiều đại đơn vị của Cộng quân.

Quân đội này lại còn hùng mạnh hơn lên khi đồng minh Hoa Kỳ quyết định tăng cường võ trang các chiến cụ tối tân cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa để họ có thể tự mình chiến đấu bảo vệ Miền Nam Việt Nam đặng quân Mỹ có thể yên lòng và có thêm chính danh mà rút về nước trong một chiến lược mới được gọi là “kế hoạch Việt Nam Hóa chiến tranh” do Tổng Thống Richard Nixon và cố vấn an ninh quốc gia lúc bấy giờ là Tiến Sĩ Henry Kissinger đề xướng.

Rồi cuộc tổng tấn công Mùa Hè năm 1972 của Cộng quân lại diễn ra sau khi Bộ Chính Trị Trung Ương Ðảng Cộng Sản Việt Nam tại Hà Nội quyết định rằng Cộng quân phải lấn cho bằng được càng nhiều đất càng tốt, giành cho bằng được càng nhiều dân càng hay để họ có thể chiếm lợi thế trên bàn hội nghị bốn bên lâm chiến đang diễn ra tại Paris, Pháp, nhằm “chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình” tại Miền Nam Việt Nam. Dù bị tấn công bất thình lình và bước đầu bị mất đi thành phố Quảng Trị tại Vùng 1 Chiến Thuật và quận (chi khu) An Lộc tại Vùng 3 Chiến Thuật, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, một lần nữa, lại cả thắng trong “mùa Hè đỏ lửa” ấy, lấy lại hầu hết những đất đai và dân chúng đã mất vào tay Cộng quân trước đó.

Hội nghị hòa bình tại Paris kết thúc với Hiệp Ðịnh Paris (Ba Lê) 1973, theo đó chính quyền Nixon, vì quá nóng lòng muốn lấy lại các tù binh đang bị Cộng Sản Bắc Việt giam giữ cũng như để thỏa mãn đòi hỏi phải chấm dứt chiến tranh và rút quân đội về nước của các nhóm phản chiến đang lên cao tại Mỹ, đã ép buộc chính phủ Việt Nam Cộng Hòa phải nhân nhượng nhiều điều hết sức thất lợi cho sự sống còn của Miền Nam Việt Nam sau này qua bản văn chung cuộc của Hiệp Ðịnh Paris 1973.
Cái chết của Miền Nam Việt Nam và cái chết của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa là hậu quả tất yếu của một cuộc chiến tranh trong đó cả hai bên lâm chiến đều không ai có đủ điều kiện - quân sự và chính trị - một mình đứng ra đảm đương cuộc chiến mà phải nhờ đến các thế lực bên ngoài. Rồi khi một trong hai bên nào đó thình lình bị đồng minh bỏ rơi - như trường hợp của Việt Nam Cộng Hòa - thì kẻ bị bỏ rơi đương nhiên phải thua trận.

Vì bị Hoa Kỳ bỏ rơi nửa chừng sau khi dân chúng và chính phủ của nước đồng minh này không chịu đựng nổi những tổn thất kéo dài về nhân mạng và tiền bạc trong cuộc chiến, Việt Nam Cộng Hòa - hay Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa - đành phải chết đi một cách tức tưởi. (Ở đây, người viết thấy cần phải nói lên cảm nghĩ rằng phần đông những người lính Cộng Hòa cũ, sau nhiều năm suy nghĩ về sự bỏ rơi kia, đã thôi không còn oán hận gì người bạn chiến đấu Mỹ năm xưa. Ðại đa số dân chúng Miền Nam Việt Nam bây giờ đều hiểu rằng một dân tộc giàu có và đáng sống như dân tộc Mỹ mà dám hy sinh cả trên 50,000 mạng người - hầu hết là những thành phần trẻ ưu tú - trong cuộc chiến tranh bảo vệ tự do, dân chủ cho Miền Nam Việt Nam thì ngần ấy những hy sinh là đã quá đủ rồi.) (10)

Lẽ ra, những thanh niên Mỹ kia phải được quyền vui hưởng cuộc đời đầy ắp tương lai xán lạn nơi quê nhà thay vì phải rời bỏ mái ấm gia đình để rồi bỏ thân trên những chiến trường đèo heo, hút gió trong một cuộc chiến bị phần lớn thế giới vì lầm mê mà lên án như thế. Hơn nữa, như bức tượng tại đài kỷ niệm chiến binh Việt-Mỹ tại Little Sài Gòn ở Orange County, Miền Nam California, đã cho thấy, chính nhờ những hy sinh xương máu cao cả và sự yểm trợ đắc lực của hằng trăm nghìn chiến binh Mỹ trong hơn một thập niên dài chiến đấu mà người lính Cộng Hòa đã có thể giữ vững tay súng đặng bảo vệ cái mầm dân chủ, tự do kia cho được vẹn toàn.) Nhưng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa - hay những người lính Cộng Hòa - khi chết đi, đã để lại một di sản vô giá cho toàn thể dân tộc Việt Nam, đó là mầm mống dân chủ, tự do ngay trong lòng người dân Việt và trên khắp các ruộng đồng, phố xá, vườn tược, đường sá, cầu cống, chợ búa, nhà thương, học đường, chùa chiền, thánh đường, nhà thờ... tại Miền Nam Việt Nam.

Chính cái nếp sống tự do, dân chủ của dân chúng Miền Nam Việt Nam đã làm cho người dân trong Nam, ngay từ những ngày đầu Sài Gòn sụp đổ, không ngần ngại bác bỏ chủ nghĩa Cộng Sản từ ngoài Bắc đem vào bằng cách hễ ăn gạo thì nói ăn gạo, ăn bo-bo thì nói ăn bo-bo, chứ không tìm cách dùng những mỹ từ để che đậy cái đói, cái khổ của mình cho vừa lòng quân thống trị. Chính cái nền kinh tế thị trường theo kiểu tư bản của Miền Nam Việt Nam đã đánh gục hầu hết những mô thức kinh tế theo kiểu công trường, hợp tác xã, xí nghiệp quốc doanh, bù lỗ, bao cấp... của Cộng Sản Việt Nam. (11) Và, trên một chừng mực nào đó, chính các sinh hoạt tự do, dân chủ đa đảng của Miền Nam Việt Nam từ trước năm 1975 đã dạy cho một số không nhỏ cán bộ, viên chức Cộng Sản Việt Nam dần dần biết thản nhiên từ bỏ Ðảng tịch, từ bỏ chức vụ để đứng về phía dân chúng đối kháng chế độ Cộng Sản độc đảng, đòi tự do, dân chủ đa nguyên trên cả hai miền Nam, Bắc như hiện nay.

Mây ngậm ngùi xuống thấp, Hồn kiêu hãnh dâng cao.
Các anh là những người chiến binh “bất tử.”
“Anh không chết đâu anh” trong lòng một Việt Nam tự do, dân chủ
Những gì sẽ xảy ra nếu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và tiền thân của quân đội này không hiện hữu hay quân đội này phải bị tan rã ngay từ các thời điểm 1954, 1963, 1965, 1968, hoặc ngay cả vào năm 1972? Ðiều kỳ diệu là, ngay cả trong những giờ phút khó khăn nhất của Miền Nam Việt Nam khi cuộc chiến tranh xâm lược và phá hoại của Cộng Sản đang lên tới cao điểm với những cuộc tấn công liên tục ngoài chiến trường và những chiến dịch gây xáo trộn cùng bất ổn triền miên trong quần chúng ở hậu phương, dân chúng Miền Nam, dưới sự bảo vệ vững chắc và nhờ những hy sinh vô bờ bến của người lính Cộng Hòa nơi tuyến đầu khói lửa cũng như trên khắp các mặt trận khác, vẫn có được cái xa xỉ là tiếp tục sinh hoạt bình thường, tiếp tục mua bán, kinh doanh làm giàu, và tiếp tục ăn học thành tài để trở thành những chuyên gia rường cột của đất nước mai sau.

Và điều may mắn lớn lao nhất cho dân tộc là sự thể quân đội này đã thoát hiểm và sống còn đến trên hai thập niên, cũng vừa đủ thời gian cho mầm tự do, dân chủ đâm chồi và bén rễ trên quê hương Việt Nam khiến cho Cộng Sản Việt Nam ngày nay chỉ còn là một cái vỏ trống không, và tất cả những giáo điều cùng lý luận của chủ nghĩa Cộng Sản đều lâm vào ngõ bí khi các vị “thánh tổ” của chủ nghĩa này từ bên trời Âu lần lượt lăn đùng ra chết. Dĩ nhiên là Cộng Sản Việt Nam vẫn còn giữ lại một điều duy nhất, đó là nguyên tắc độc đảng, mà nếu họ lại bỏ đi nữa thì cái câu “trong bụng mỗi người dân An Nam đều có một ông quan” - vốn do một quan chức thực dân Pháp nham hiểm thốt lên từ hồi đầu thế kỷ trước - hóa ra chẳng có ý nghĩa gì hết hay sao? (12)

Dẫu sao, ba thập niên sau ngày Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ, khi nghĩ về Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và cái chết tuy đầy uất ức nhưng cũng đầy hào hùng của quân đội này vào ngày 30 Tháng Tư năm 1975, người ta vẫn thấy rằng cái tinh thần mà quân đội đó mang theo vào mỗi trận đánh, mỗi chiến trường trên khắp các nẻo đường đất nước từ Nam chí Bắc - xin đừng quên những Phạm Phú Quốc, Trần Thế Vinh, Nguyễn Văn Ðương, Nguyễn Ðình Bảo, Phạm Văn Phú, Nguyễn Khoa Nam, Nguyễn Văn Hưng, Lê Nguyên Vỹ, Trần Văn Hai, Hồ Ngọc Cẩn... vẫn còn sống mãi trong lòng dân tộc và sẽ là mầm phục sinh cho một đất nước và một dân tộc đã trải qua gần hết mọi cuộc bể dâu trong đời. Hay, nói như Nhật Trường Trần Thiện Thanh, một người lính Cộng Hòa và cũng là một ca, nhạc sĩ tài hoa của nền âm nhạc Việt Nam hiện đại qua nhạc phẩm “
Anh Không Chết Ðâu Anh”: “Không, anh không chết đâu anh. Chưa, anh chưa chết đâu anh...”


Vann Phan

No comments: