Nhằm  kỷ niệm 50 năm cái gọi là “cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 
Mậu Thân 1968”, đảng và nhà nước CSVN đã đồng loạt tổ chức hội thảo khoa
 học cấp quốc gia với đề tài “Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu 
Thân 1968 – Bước ngoặt quyết định và bài học lịch sử”, và  tung ra 2 bài
 viết ca tụng cái gọi là “chiến thắng” trong chiến dịch Mậu Thân 1968 
của chủ tịch nước Trần Đại Quang và của đại tướng bộ trưởng quốc phòng 
Ngô Xuân Lịch.
Tại cuộc Hội thảo do bộ quốc phòng, ban tuyên giáo trung ương và 
thành ủy TPHCM đã phối hợp tổ chức ngày 29-12-2017 tại TPHCM, nơi có các
 mục tiêu quan trọng bị tấn công như Dinh Độc Lập, Tòa Đại sứ Mỹ và Đài 
Phát thanh Sàì Gòn, các diễn gỉa đã tận lực khoe khoang cho điều gọi là 
“giá trị của cuộc tổng tiến công và nổi dậy ; khẳng định chủ trương đúng
 đắn, sáng suốt của trung ương đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh ; tái hiện 
diễn biến và những nét độc đáo của nghệ thuật quân sự Việt Nam trong 
cuộc tổng tiến công, trình độ chỉ huy, khả năng cơ động và phối hợp 
chiến đấu giữa các lực lượng trên chiến trường miền Nam…”.
Nhưng mục đích Hội thảo để làm gì, ngoài mớ lý thuyết phô trương như 
thế ?  Các báo Việt Nam trích lời Thượng tướng Lê Chiêm, Ủy viên Trung 
ương Đảng, Ủy viên Quân ủy Trung ương, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, cho 
biết mụch đích: “Hội thảo lần này là một trong những hoạt động quan 
trọng góp phần tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ 
trang (LLVT) và nhân dân, nhất là thế hệ trẻ phát huy truyền thống cách 
mạng, hun đúc tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội (CNXH), lòng tự 
hào, tự tôn dân tộc, truyền thống đại đoàn kết trong sự nghiệp xây dựng 
và bảo vệ Tổ quốc.”
À thì ra thế ! Nhưng có ai biết từ nội dung Hội thảo đến 2 bài viết của 
Quang và Lịch đã chứa đựng những dối trá để che đậy tội ác chiến tranh 
của quân đội nhân dân (miền Bắc) và của lực lượng tay sai được gọi là 
“lực lượng võ trang giải phóng” (của Mặt trận Giải phóng miền Nam do 
đảng CSVN dựng lên) đã gây ra cho đồng bào miền Nam nói chung, và đặc 
biệt đồng bào ở Cố đô Huế trong 25 ngày đềm Cộng sản chiếm đóng chỉ để 
thảm sát dân lành  ?
Do đó, Tướng Ngô Xuân Lịch đã không ngần ngại khoe đạt chiến thắng ở Huế
 bằng máu người dân vô tội. Lịch viết:”Đặc biệt, với 25 ngày đêm làm chủ
 thành phố Huế đã khẳng định sức mạnh của lực lượng vũ trang (LLVT) ba 
thứ quân, góp phần quan trọng vào thắng lợi cuộc Tổng tiến công và nổi 
dậy Xuân Mậu Thân 1968 của quân và dân miền Nam anh hùng.”
Lịch viết bố láo như thế là bôi nhọ lịch sử và chà đạp lên những vong
 hồn của các nạn nhân bị quân đội cộng sản thảm sát, chôn sống và hành 
quyết  rồi đẩy  xuống các hố mồ tập thể khắp nơi trong Thành phố Huế. 
 Bởi vì trong suốt thời gian của biến cố Mậu Thân và ngay tại Thành phố 
Huế khi bị chiếm đóng, không nơi nào có “nổi dậy” của nhân dân như Cộng 
sản tuyên truyền từ trước khi tiềng súng nổ  đêm Giao Thừa Mậu Thân (31 tháng 1 năm 1968). Và cũng chẳng có nơi nào dân bỏ vùng Quốc gia chạy vào rừng với Quân Cộng sản.
Như vậy rõ ràng Lịch và guồng máy tuyên truyền của CSVN đã  “bịa đặt 
một”  chưa dủ còn  tranh thủ “ nói dối hai” mà mặt vẫn cứ trơ ra như đá !
Nhưng không chỉ có thế, Lịch còn bịa thêm rằng:”Nhận thức rõ vai trò 
quan trọng của lực lượng vũ trang trong chiến tranh cách mạng, Đảng ta 
và Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên coi trọng xây dựng LLVT ba thứ 
quân, nhất là xây dựng bộ đội chủ lực từng bước phát triển lớn mạnh. 
Theo đó, đến cuối năm 1967, lực lượng bộ đội chủ lực toàn miền Nam đã 
phát triển lên 278.000 người , được tổ chức thành 190 tiểu đoàn chiến 
đấu, bố trí bí mật trên khắp các chiến trường. Đây là một trong những 
nhân tố tạo sức mạnh trực tiếp, quyết định thắng lợi cuộc Tổng tiến công
 và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968; đồng thời, thể hiện tầm nhìn và sự chỉ 
đạo chiến lược sắc sảo của Đảng ta về xây dựng LLVT nhân dân trong chiến
 tranh giải phóng dân tộc.”
Làm gì có cái gọi là “lực lượng bộ đội chủ lực toàn miền Nam”  do chính 
người miền Nam lập ra ? Có chăng là đa số trong đội ngũ này là của miền 
Bắc được đào tạo đưa vào Nam rồi nhập chung vào với du kích miền Nam để 
cùng đội mũ tai mèo, mặc quần xà lỏn, đi chân đất trông rất tồi tệ.  Đi 
đâu cũng khoe là “quân giải phóng” ! Trong khi bộ đội chính quy từ miền 
Bắc được đi dép râu bằng vỏ xe hơi và mặc quần áo do Tầu Cộng cung cấp 
để cầm súng của Nga, các nước Cộng sản Đông Âu và Trung Cộng cung cấp.
Sự thể bộ đội miền Bắc vào Nam xâm lược Việt Nam Cộng hoà và gây ra 
chiến tranh máu đổ thịt rơi từ 1955 đến 1975 thì ai không biết. Ngoài số
 quân “vượt Trường Sơn theo đường mòn Hồ Chí Minh’’ xuyên qua Lào và Cao
 Miên xâm nhập miền Nam từ 1960 thì trước đó, khỏang từ 30 ngàn đền 40 
ngàn Bộ đội Cộng sản được giữ lại trong Nam mà không tập kết ra Bắc theo
 điều kiện của Hiệp định Geneve 1954.
Chính đạo quân “nằm vùng” này là lực lượng nồng cốt để đảng CSVN 
thành lập cái gọi là Quân đội Giải phóng và Mặt trận Giải phóng miền Nam
 tay sai do đảng CSVN thành lập ra đời ngày 10 tháng 12 năm 1960.
Nhưng đến khi xe tăng và bộ đội kéo vào các thành phố và Thủ đô Sài Gòn 
trước và trong ngày 30/04/1975 thì đâu đâu cũng mang cờ của Mặt Trận 
Giài Phóng miền Nam : Hình chữ nhật, mầu đỏ trên và mầu xanh dưới. Ở 
giữa có ngôi sao Vàng, thay vì “cờ Đỏ Sao Vàng” của Đảng CSVN.
Vì vậy, ngay sau khi vào Dinh Độc Lập trưa ngày 30/4/1975, quân CS 
miền Bắc đã hạ lá Cờ Vàng 3 Sọc đỏ của VNCH xuống và thay vào lá Cờ của 
MTGPMN, ngụy trang là cờ của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền 
Nam Việt Nam (!)
Nhưng sau ngày chính thức thống nhất đất nước tháng 7/1976, lá cờ của
 MTGPMN đã bị dẹp bỏ không kèn không trống để chỉ còn lại lá cờ Đỏ Sao 
Vàng của miền Bắc CS chiếm ngự  trên cả nước !
BÀI TRẦN ĐẠI QUANG
Về phần mình. Chủ tịch nước Trần Đại Quang góp phần tuyên truyền gỉa dối
 trong bài “Phát huy tinh thần quyết chiến, quyết thắng của cuộc tổng 
tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 trong sự nghiệp đổi mới, xây 
dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Quang ba hoa rằng:”Cách đây tròn 50 năm, đúng vào dịp Tết Mậu Thân 
1968, dưới sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam 
quang vinh và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, quân và dân ta đã đồng loạt 
mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy trên khắp chiến trường miền Nam. Đây 
là sự kiện có ý nghĩa lịch sử trọng đại, tạo ra bước ngoặt quyết định 
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, viết thêm trang sử hào hùng 
trong lịch sử đấu tranh cách mạng vẻ vang của dân tộc ta…..
“….  Đêm Giao thừa Tết Mậu Thân 1968, quân và dân ta đã bất ngờ đồng 
loạt tiến công và nổi dậy trên toàn miền Nam, đánh vào các cơ quan đầu 
não của địch ở Sài Gòn, Huế, các căn cứ quân sự của Mỹ – ngụy, các thành
 phố, thị xã, đồng thời đánh địch khắp các vùng nông thôn bị tạm chiếm…”
SỰ THẬT KHÓ XÓA ĐI
Như vậy, tất cả nội dung dành tung hô cho biến cố Mậu Thân đã không có 
một chữ hay con số nào nói lên sự thật tổn thất lớn lao của Bộ đội miền 
Bắc và Quân Việt Cộng trong Nam.
Vì vậy, mãi đến năm 2013, cuốn phim tài liệu dài 12 tập “Mậu Thân 
1968” của nhà đạo diễn (bà) Lê Phong Lan, chủ Hãng phim Bản sắc Việt, 
mới bắt đầu chiếu trên đài Truyền hình Việt Nam từ ngày 25 tháng 01 năm 
2013.
Lý do làm phim trễ vì chính quyền cộng sản và bộ quốc phòng coi vụ Mậu Thân là “vấn đề nhậy cảm” không ai muốn nói đến.
Nhưng tại sao lại cho là “nhạy cảm”, Lê Phong Lan nói : “Vì sao mọi 
người phía ta tránh nhắc đến Mậu Thân, đó là vì sự tổn thất của quân đội
 nhân dân Việt Nam ở sự kiện này quá nhiều. Tâm sự với tôi khi trả lời 
phỏng vấn, nhiều chỉ huy các sư đoàn dạn dày chiến trận còn khóc nức lên
 vì thương lính. Đó là lý do duy nhất”.
Qủa nhiên về phương diện quân sự thì cả quân miền Bắc và du kích trong 
Nam đã thiệt hại rất nặng. Theo các ước tính quân sự thì trong cuộc tấn 
công Mậu Thân, CSVN đã vận động từ 323,000 đến 595,000 quân chính quy và
 địa phương trong Nam để thực hiện kế họach chống lại khỏang 1 triệu 200
 quân VNCH và Hoa Kỳ với dự kiến chiếm đóng nhiều vùng lãnh thổ của 
VNCH.
Tuy nhiên kế họach hồ hởi của Hà Nội đã bị quân và dân VNCH được sự yểm 
trợ của quân đội Hoa Kỳ đánh bại. Khỏang từ 85,000 đến 100,000 quân Cộng
 sản bị loai khỏi vòng chiến, so với thiệt hại của đồng minh có trên 
6,000 tử thương, ngót 30,000 bị thương và trên 1,000 quân bị mất tích.
Thương vong thường dân, tính riêng tại Huế cũng đã có từ 5,000 đến 6,000
 người chết và mất tích, đa số bị quân Cộng sản thảm sát bằng nhiều hình
 thức, kể cả chôn sống hay đập đầu cho chết vì muốn tiết kiệm đạn để 
chiến đấu.
Nhưng phiá cộng sản đã liên tiếp phủ nhận trách nhiệm và đổ lỗi cho bom đạn của Mỹ và quân đội Việt Nam Cộng hoà gây ra.
Vì vậy, theo tường thuật của báo chí Việt Nam thì bà Lê Phong Lan cho 
rằng: “Thấy trên mạng có quá nhiều thông tin sai lệch về sự kiện lịch sử
 này, tới nỗi các thế hệ sinh sau 1975 không còn biết đâu là thông tin 
sai, đâu là thông tin đúng vì vậy lại càng quyết tâm để làm phim.”
Nhà văn Hòang Phủ Ngọc Tường, thành viên của Liên Minh Các Lực Lượng Dân
 Tộc Dân Chủ Và Hòa Bình Thành Phố Huế đi theo Cộng sản trong vụ Mậu 
Thân, còn đối đáp vớ Nhà báo Thụy Khuê của Đài Phát thanh Quốc tế Pháp 
(Radio  France International, RFI) trong cuộc phỏng vấn gần 30 năm sau 
Mậu Thân như sau :
“Thụy Khuê: Nhìn từ phía những dữ kiện lịch sử mà anh nắm bắt được, diễn biến Mậu Thân đã xẩy ra trong một trình tự như thế nào?
HPNT: Huế Mậu Thân đã xẩy ra cách đây gần 30 năm. Sách vở, tài liệu đã 
được công bố từ nhiều phía của cuộc chiến, khá đầy đủ, có thể làm cơ sở 
cho những phân tích khoa học để giải phẫu một cuộc chiến mà thật ra, 
không thể đơn giản tách riêng ra trong biến cố Mậu Thân. Điều quan trọng
 còn lại tôi xin ngỏ bầy ở đây, với tư cách là một đứa con của Huế, đã 
ra đi và trở về, ấy là nỗi thống thiết tận đáy lòng mỗi khi tôi nghĩ về 
những tang tóc thê thảm mà nhiều gia đình người Huế đã phải gánh chịu, 
do hành động giết oan của quân nổi dậy trên mặt trận Huế năm Mậu Thân. 
Đó là một sai lầm không thể nào biện bác được, nhìn từ lương tâm dân 
tộc, và nhìn trên quan điểm chiến tranh cách mạng.
Nhưng tôi tin rằng đây là một sai lầm có tính cục bộ, từ phía những 
người lãnh đạo cuộc tấn công Mậu Thân ở Huế, chứ không phải một chính 
sách toàn cục của cách mạng. Bởi vì tình trạng giết chóc bừa bãi như 
vậy, đã không xẩy ra ở những địa phương khác trong Mậu Thân, ngay cả 
trên một địa bàn rộng lớn với tình trạng xen kẽ giữa những lực lượng đối
 địch rất phức tạp như ở Sài Gòn thời ấy.
Thụy Khuê: Vậy, theo anh, ai trách nhiệm những thảm sát ở Huế?
HPNT: “Tôi không đủ thẩm quyền để phán xét bất cứ cá nhân nào. Xin trích
 dẫn theo trí nhớ một ý tưởng trong hồi ký của chính ông Lê Minh, tư 
lệnh chiến dịch Huế Mậu Thân: Dù bởi lý do nào đi nữa, thì trách nhiệm 
vẫn thuộc về những người lãnh đạo mặt trận Mậu Thân, trước hết là trách 
nhiệm của tôi. Qua bài hồi ký tâm huyết này, đã được công bố trên tạp 
chí Sông Hương, Huế, và sau đó, nếu tôi không nhớ lầm, đã được dịch và 
in toàn bộ trên báo Mỹ Newsweek, tác giả, Lê Minh (lúc đó đã nghỉ hưu), 
còn nhắc nhở rằng, điều quan trọng có thể làm, và phải làm bây giờ, là 
những người lãnh đạo kế nhiệm ở Huế, phải thi hành chính sách minh oan 
cho những gia đình nạn nhân Mậu Thân, trả lại công bằng trong sáng và 
những quyền công dân chính đáng cho thân nhân của họ.”
NHỮNG TIẾNG NÓI KHÁC
Ông Đinh Lâm Thanh, trong Bài thuyết trình trong dịp tưởng Niệm 40 năm 
biến cố Mậu Thân tổ chức tại Paris ngày 02.03.2008, nói : “Tại Huế, CS 
lùng bắt thành phần quân-cán-chính, tập trung dân để tổ chức đấu tố, bắn
 giết, chôn sống tại chỗ một số và dẫn những người còn lại theo làm tù 
dân – tôi nói tù dân, vì tù là những người dân vô tội – trước rút lui 
tháo chạy trước sức tấn công mãnh liệt của QLVNCH và Đồng Minh.
Nếu tính nạn nhân tại Huế, ngoài số quân nhân, cảnh sát, nhân viên cán 
bộ hành chánh về nghỉ Tết cũng như những người sống tại địa phương làm 
việc cho chính quyền Sài Gòn bị Cộng sản bắn ngay tại chỗ là 1.892 
người. Ngoài ra người ta còn tìm được 2326 tử thi thường dân trong 22 hố
 chôn tập thể tại những địa điểm như Trường Gia Hội, Chùa Theravada, Bãi
 Dâu, Cồn Hến, Tiểu Chủng viện, Quận tả ngạn, Phía đông Huế, Lăng Tự 
Đức, Lăng Đồng Khánh, Cầu An Ninh, Cửa Đông Ba, Trường An, Ninh Hạ, 
Trường Vân Chí, Chợ Thông, Chùa Từ Quang, Chùa Từ Đàm, Lăng Gia Long, 
Đồng Di, Vịnh Thái, Phú Lương, Phú Xuân, Thượng Hòa, Thủy Thanh, Vĩnh 
Hưng và Khe Đá Mài.
Mỗi hố chôn tập thể từ 5, 7 người đến trên 400 nạn nhân như ở Khe Đá 
Mài. Những nạn nhân nầy bị thảm sát một cách dã man như : Cột chùm nạn 
nhân lại với nhau và đốt cháy bằng xăng, bắt ngồi trên mìn rồi cho nổ 
tan xác, chặt đầu, bắn vào ót, đập chết bằng bá súng, đóng cọc từ dưới 
bàn tọa lên đến cổ, trói tay chân thành từng chùm rồi xô xuống hố chôn 
sống. Nạn nhân là thường dân vô tội tuổi từ 15 trở lên, gồm có sinh viên
 học sinh, 6 linh mục là các cha Bửu Đồng, Hoàng Ngọc Bang, Lê Văn Hộ, 
cha Guy và cha Urbain (dòng Thiên An), và cha Cressonnier (Hội Thừa sai 
Paris), 5 thầy dòng gồm 3 sư huynh dòng Thánh Tâm là thầy Hec-Man, thầy 
Mai Thịnh và thầy Bá Long, 2 sư huynh dòng Lasan là thầy Agribert và 
thầy Sylvestre. Hai thầy dòng Lasan bị bắt và bị chôn sống chung một hố 
với linh mục Bửu Đồng tại Sư Lỗ, quận Phú Thứ. Ngoài ra Cộng sản còn 
giết các giáo sư đại học người nước ngoài trong lúc họ đang dạy ở đại 
học Y khoa Huế và thân nhân họ hàng của những người phục vụ dưới chế độ 
VNCH. Người ta ước lượng tại thành phố Huế có gần 5.000 người bị Cộng 
sản giết trong vòng mấy tuần lễ.
Những người lớn tuổi còn sống tại Huế là những nhân chứng sống. Trong đó
 có hai thanh niên nguyên là học sinh trung học, nay đã 56 tuổi, trả lời
 phỏng vấn của các nhà báo ngoại quốc. Người thứ nhất tên Tuấn cùng với 
những học sinh khác đã bị CSBV bắt đào lỗ chôn sống 5 người tại Gia Hội 
ngay trong ngày đầu tiên khi CS vừa chiếm Huế. Học sinh thứ hai, xin 
giấu tên, ở Phủ Cam bị bắt đi theo đoàn tù dân đưa chôn sống ở Khe Đá 
Mài. Cả hai học sinh nầy nhờ một phép nhiệm mầu nào đó họ đã thoát được 
và sống sót đến ngày hôm nay.” (Khối 8406Tự do Dân chủ cho Việt Nam, 
01-2009)
Hai Linh mục Phan Văn Lợi và Nguyễn Hữu Giải hiện còn sống ở Việt Nam kể lại như sau:
“…tại núi Ba Tầng (núi Bân), phía Nam thành phố Huế. Ngôi mộ này lưu giữ
 hơn 400 bộ hài cốt chủ yếu bốc từ Khe Đá Mài nhưng đã bị chính quyền 
cộng sản phá đổ trụ bia và để cho hoang phế suốt 32 năm trời…
“Trong toàn bộ biến cố Tết Mậu Thân, có lẽ những gì xảy ra tại Huế là 
đau thương và đánh động hơn cả, có lẽ cuộc thảm sát tại Khe Đá Mài là 
rùng rợn, dã man và thê thảm nhất. Tiếc thay, theo sự am hiểu của chúng 
tôi, hình như người ta chỉ biết đến kết cục của nó là hàng trăm bộ hài 
cốt dồn lại một đống dưới khe sau khi thịt thối rữa bị nước cuốn đi lâu 
ngày, từ đó suy diễn ra sự việc hơn là biết rõ diễn tiến của toàn bộ sự 
việc kể từ lúc nạn nhân bắt đầu bị dẫn đi đến chỗ hành quyết”. (Đối 
Thọai online, 17-01-2008)
Hai linh mục Lợi và Giải cho biết họ họ gặp một nhân chứng sống lúc bấy 
giờ ông ta mới 17 tuổi cũng bị bắt theo đoàn người bị đưa đi giết ở Khe 
Đá Mài nhưng may mắn lợi dụng lúc đêm tối nên ông đã trốn thoát và hiện 
còn sống ở trong nước đã kể lại :
“Hồi ấy, tôi mới 17 tuổi, đang là học sinh trung học đệ nhị cấp. Vì tình
 hình bất an, gia đình tôi đã từ quê chạy về thành phố, cư ngụ tại giáo 
xứ Phủ Cam, thôn Phước Quả, xã Thủy Phước, tỉnh Thừa Thiên (nay gọi là 
phường Phước Vĩnh, thành phố Huế) từ mấy năm trước… Khuya mùng Một rạng 
mùng Hai Tết, tôi nghe tiếng súng nổ khắp nơi và được tin Việt Cộng đã 
chiếm nhiều nơi trong thành phố Huế… Cả gia đình tôi cũng như nhiều giáo
 dân ở Phủ Cam đều chạy đến ẩn núp trong nhà thờ để tránh bom đạn. Lính 
Nghĩa quân của xã và một số quân nhân về phép chiến đấu bên ngoài để bảo
 vệ đồng bào. Sau mấy ngày, không có tiếp viện nên chiều mùng 5 Tết (3 
tháng 2/1968) phải rút chạy… Khuya mùng 5 Tết, Việt Cộng tràn vào nhà 
thờ bắt những người từ 15 tuổi đến ngoài 50 tuổi bất kể là học sinh hay 
thường dân … và tuyên bố cho đi học tập trong vòng 3 ngày sẽ trở về 
trong đó có tôi… Sáng hôm sau, chúng tôi bị dẫn đi theo đường xe lửa từ 
Phủ Cam ra Bến Ngự và đến chùa Từ Đàm… Tại đây tôi thấy Việt Cộng rất 
đông vừa du kích địa phương vừa bộ đội miền Bắc… Ngôi nhà 5 gian thì 4 
gian đã đầy người bị bắt từ mấy ngày trước, còn một gian để giam giữ 
những người mới bị bắt… Tôi gặp những người quen như ông Tín (thợ chụp 
ảnh), ông Hồ (thợ hớt tóc), anh Trị (con ông Ngọc người đánh đàn trong 
nhà thờ), ông Hoàng (Đông y sĩ ở Chợ Xép), hai người con trai ông Thắng 
(làm nghề nấu rượu nuôi heo), hai người con trai ông Vang (nhạc sĩ thổi 
kèn đồng), anh Thịnh (con ông Năm), hai anh em Bình và Minh (con ông 
Thục), anh Minh 16 tuổi, con ông Danh nhân viên Công Ty Thủy Điện Huế) 
đều là học sinh… Chúng tôi ngồi tại chùa Từ Đàm suốt cả một ngày từ sáng
 tới tối không được ăn uống gì cả… Họ đưa cho chúng tôi mỗi người một tờ
 giấy để viết bản khai lý lịch tên, nghề nghiệp, tên cha mẹ, sinh quán ở
 đâu… Ai khai gian sẽ bị đem ra bắn… Tôi thấy một số người bị trói vào 
gốc cây bồ đề và bị đem ra bắn chôn ngay trong sân chùa, trong đó có anh
 Hoàng Sự (Cảnh Sát) mà tôi biết tên. Họ cho một vài người về nhắn với 
gia đình tiếp thế lương thực và quần áo, thuốc men cho những người đang 
bị giam giữ… Khi trời sẩm tối, họ bắt chúng tôi ra ngồi xếp hàng giữa 
sân chùa. Một anh cán bộ tuyên bố:
– Anh em yên tâm, Cách Mạng sẽ đưa anh em đi học tập trong 3 ngày rồi sẽ cho về với gia đình! Bây giờ chúng ta lên đường!.
Rồi họ dùng dây điện thoại trói tay chúng tôi ra phía sau lưng từng 
người một, rồi dùng dây kẽm gai nối 20 người làm một toán. Tôi đếm được 
trên 25 toán như thế (tất cả 500 người). Một người địa phương đi nhìn 
mặt anh em chúng tôi và nói với nhau:
– Không thấy Trọng Hê và Phú Rỗ trong số giáo dân Phủ Cam ở đây.
(Anh Trọng con ông Hê và anh Phú là hai thanh niên ở Phủ Cam có võ nghệ 
mà giới du đãng ở Huế biết tiếng. Hai anh đã chạy theo lính Nghĩa Quân 
xã rút lui khi Việt Cộng vào nhà thờ! Những người bị bắt đến đây đều là 
dân lành vô tội).
Họ dẫn chúng tôi đi vào đường bên trái Đàn Nam Giao, vòng qua Dòng Thiên
 An, đến lăng Khải Định, vòng phía sau trụ sở Quận Nam Hòa, ra đến bờ 
sông Tả Trạch (Thượng nguồn sông Hương)… Đến bờ sông, Việt Cộng cho chặt
 cây lồ ô (nứa) làm bè để tất cả đoàn người vượt qua sông (khu vực lăng 
Gia Long), thuộc vùng núi Đình Môn, Kim Ngọc (vùng núi tranh). Từ đó, 
chúng tôi bắt đầu đi sâu vào rừng, ban đêm, trời lạnh lắm, khi lên đồi, 
lúc xuống lũng, lúc lội qua khe… Khoảng 30 bộ đội miền Bắc dẫn chúng tôi
 đi, họ dùng đèn pin hay đuốc để soi đường, chúng tôi đi trong rừng tre 
nứa và cây cổ thụ dày đặc… Khoảng nửa đêm, chúng tôi được dừng lại để 
nghỉ và mỗi người nhận được một vắt cơm. Chúng tôi đoán đã đi được trên 
10 cây số rồi! Chúng tôi ngồi gục đầu dưới cơn mưa, cố gắng ngủ một chút
 để lấy sức còn phải đi tiếp… Bỗng như có linh tính báo trước, người tôi
 run lên bần bật… Tôi nghe hai tên bộ đội nói nhỏ với nhau:
– Trong vòng 15-20 phút nữa sẽ thủ tiêu hết bọn nầy!
Tôi liền ghé miệng vào tai thằng bạn bị trói ngay trước mặt:
– Tụi mình ráng mở dây trốn đi! Mười lăm phút nữa là bị bắn chết hết đó!
Trời mưa, dây điện trơn trợt, lát sau, chúng tôi mở được giây nhưng vẫn ngồi yên sợ chúng biết. Tôi nói nhỏ:
– Hễ tao vỗ nhẹ sau lưng là tụi mình chạy nghe!
Bọn Việt Cộng đánh thức chúng tôi dậy, một tên nói lớn cho mọi người nghe:
– Chúng ta sắp đến trại học tập rồi. Ai có vàng, tiền, đồng hồ, bật lửa…
 thì đem nộp, không được giữ trong người… Học tập xong sẽ được trả lại…”
Thế là bọn chúng lột sạch và cho tất cả vào mấy cái ba lô vải. Tên bộ 
đội đứng gần chúng tôi còn mang trên vai cả chục cái radio mà chúng đã 
cướp được của dân ở thành phố… Một tay mang súng, một tay mang các thứ 
vừa cướp được, hắn đi chậm lại cách xa mấy tên kia một quãng… Chúng tôi 
bắt đầu xuống dốc, nghe tiếng nước chảy róc rách… Tôi vỗ nhẹ vai thằng 
bạn và cả hai chúng tôi vung tay và nhanh nhẹn phóng ra khỏi hàng. Tôi 
đá mạnh và tên bộ đội mang nhiều radio… Hắn ngã nhào! Hai chúng tôi lao 
vào rừng…
Trời tối, rừng già chúng không giám đuổi theo… Khi nghe tiếng đoàn người
 đi khá xa, chúng tôi mới bò ra khỏi chỗ ẩn núp và đi ngược trở lại… 
Chừng 15-20 phút sau, chúng tôi bỗng nghe từ phía dưới vọng lên tiếng 
súng AK, rồi lựu đạn nổ vang rền… Một góc rừng rực sáng! Chen vào đó 
tiếng khóc la khủng khiếp… không hiểu sao lúc đó, tai tôi nghe rất rõ 
ràng… Lúc đó khoảng 12-12 giờ 30 khuya… đầu ngày 8 Tết(6/2/1968). Về sau
 tôi mới biết chỗ đó là Khe Đá Mài…” (Bài thuyết trình của cựu Dân biểu 
VNCH Nguyễn Lý Tưởng tại cuộc hội thảo về chiến tranh Việt Nam tổ chức 
tại Việt Nam Center (Lubbock, Texas) từ ngày 13 đến 15/3/2008).
NHÂN CHỨNG CỦA SỰ THẬT
Ông Võ Văn Bằng, Trưởng Ban Cải táng Nạn nhân Cộng sản Tết Mậu Thân nói 
với đài Á Châu Tự Do (RFA) năm 2008 : ““Các hố cách khoảng nhau. Một hố 
vào khoảng 10 đến 20 người. Trong các hố, người thì đứng, nào là nằm, 
nào là ngồi, lộn xộn. Các thi hài khi đào lên, thịt xương đã rã ra. Trên
 thi hài còn thấy những dây lạc trói lại, cả dây điện thoại nữa, trói 
thành chùm với nhau. Có lẽ, họ bị xô vào hố thành từng chùm. Một số 
người đầu bị vỡ hoặc bị lủng. Lủng là do bắn, vỡ là do cuốc xẻng…”
Vẫn theo RFA thì Nhà báo Vũ Ánh (đã qúa cố), nguyên phóng viên mặt trận 
hệ thống Truyền thanh quốc gia VNCH, đã có mặt tại Huế từ ngày 5 đến 29 
Mậu Thân và đi theo nhiều nhóm tìm hầm chôn tập thể kể lại cảm giác của 
ông: “Vùng nhiều nhất là quận Phú Thứ và Dạ Lê Thượng có nhiều hầm chôn 
xác tập thể. Cảm giác của tôi lúc ấy rất lạ, như là bị tê liệt khi nhìn 
các hình ảnh đó…
“Ngay ở hầm Phú Thứ, chắc khoảng gần 1.000 người. Khui lên, đầu của họ 
phía sau sọ bị bể hết. Những thi hài bị nối nhau bằng dây điện thoại. Có
 những người không có vết thương, chứng tỏ bị chôn sống”. (RFA online 
ngày 1-2-2008)
Trong bài nói chuyện tại buổi 40 năm Tưởng niệm Tết Mậu Thân, Việt Báo 
Gallery, thứ Bảy 29-3-2008, Nhà văn Nhã Ca tác giả “Giải Khăn Sô Cho 
Huế” nói:
“Bốn mươi năm trước đây, đúng vào giờ trưa mùng Hai Tết, tại Cửa Đông Ba
 Huế, chỉ mấy tiếng đồng hồ sau khi đột nhập, cộng sản khai diễn cuộc 
tàn sát. Toán nạn nhân đầu tiên gồm 5 thường dân-không hề có người lính 
Cộng Hòa nào. Tất cả bị trói, bắt đứng quay lưng vào tường thành. Dân 
chúng đứng coi. Súng AK nổ. Từng người gục chết. Sau cuộc hành hình, 
thân nhân những người bị bắn nhào ra muốn ôm xác. Họ bị đánh, bị đá, bị 
đuổi. Xác người bị phơi ngày phơi đêm. Nắng. Máu. Ròi bọ…
“Và cuộc tàn sát tiếp tục. Không bằng súng đạn mà bằng cách chôn 
sống. Những nạn nhân bị cột trói bằng dây điện dính chùm xếp hàng bên 
hố. Một vài người bị đập đầu. Cả dây người đang sống bị đạp xuống hố đè 
lên nhau. Cái đầu nào ngóc lên bị đập bằng cuốc. Cứ thế mà chôn hàng 
ngàn người. Bạn tôi, chị Tâm Túy cũng đã bị chôn sống. Khi xác đào lên, 
thấy hai tay chị vói lên như đang cố cào bới đất. Móng tay, móng chân 
mọc dài hơn. Tóc mọc dài hơn…Bạn tôi bị chôn sống khi còn đầy sức 
sống..”
“Huế Tết Mậu Thân. Hàng ngàn người đã bị chôn sống như thế”. (Việt Báo ngày 31-3-2008)
Cư sĩ Trí Lực, người đã chôn cất những xác chết nằm lại sau biến cố Mậu Thân kể lại với RFA về nỗi kinh hoàng của ông:
“Hai mươi sáu ngày sau, sau khi Cố đô Huế bình định trở lại thì tôi tận 
mắt chứng kiến những hầm chôn tập thể được khai quật lên từ vùng Bãi Dâu
 Gia Hội, những người xấu số đã bị trói quật lại sau lưng và có những 
mảnh xương sọ bị vỡ nát.Cảnh kinh hoàng là cộng sản đã chon sống bao 
nhiêu người dân vô tội.”
“Nhà văn Đinh Lâm Thanh, hiện sống ở Pháp, cũng là chứng nhân của biến cố Mậu Thân kể:
“Gia đình của tôi vùng Phủ Cam là một, vùng An Vân Thượng là hai, Gia 
Hội là ba. Bà con xa bà con gần của bên họ ngoại của tôi gồm cả thảy 12 
người. Trong 12 người đó, có người bị chôn sống, có người bị bắn tại 
chỗ, có người bị chặt đầu, có người bị mổ bụng”. (RFA online ngày 
7-2-2012)
Ông Nguyễn Lý Tưởng, cựu Dân biểu khu vực Thừa Thiên Huế kể lại 
trong“cuộc hội thảo về chiến tranh Việt Nam tổ chức tại Việt Nam Center 
(Lubbock, Texas) từ ngày 13 đến 15/3/2008”: “Mồ chôn tập thể: Các nạn 
nhân bị thảm sát tại Huế và Thừa Thiên được tìm thấy tại trường tiểu học
 Gia Hội, chùa Therevada, Bãi dâu, Cồn Hến, Tiểu Chủng Viện, khu vực 
phía Tây Huế gần lăng Tự Đức và lăng Đồng Khánh, cầu An Ninh Thượng, cửa
 Đông Ba, trường An Ninh Hạ, trường Văn Chí, Chợ Thông, Lang Xá Cồn, gần
 lăng Gia Long, gần chùa Tường Vân, Đông Gi (Di), Vinh Thái, Thủy Thanh,
 Lương Viện, Phù Lương, Phú Xuân (Phú Thứ), Thượng Hòa, Vinh Hưng, Khe 
Đá Mài… tất cả 23 địa điểm tại tổng cộng 2326 xác chết (sọ người). Còn 
khoảng trên 3,000 nạn nhân thuộc tỉnh Thừa Thiên và Huế đã được thân 
nhân xác nhận là chết hoặc bị bắt đi thủ tiêu, mất tích… không biết họ 
đã bị giết chết và chôn xác ở đâu?!
Dã man nhất là tại Khe Đá Mài (thuộc vùng núi Đình Môn, Kim Ngọc, quận 
Nam Hòa, tỉnh Thừa Thiên) Việt Cộng đã dùng súng trung liên, đại liên, 
lựu đạn và mìn giết tập thể các nạn nhân, vất xác xuống dưới khe, lâu 
ngày thịt thối rữa bị nước cuốn đi, chỉ còn 428 sọ người, xương người 
dồn lại một đống. Người ta đã dựa vào các dấu vết còn lại của nạn nhân 
như áo len, tượng ảnh, giấy căn cước bọc nhựa(ID)… để biết được thân 
nhân của mình đã chết ở trong đống sọ và xương lẫn lộn đó. Đa số những 
nạn nhân nầy là giáo dân bị bắt ở nhà thờ Phủ Cam vào đêm mùng 5 Tết (3 
tháng 2/1968) Người ta cũng tìm thấy vết tích của hai ông Lê Hữu Bôi 
(chủ tịch sinh viên Phật tử năm 1963) và Lê Hữu Bá (sĩ quan Quân Cảnh) 
tại Khe Đá Mài. Các em học sinh như Bùi Kha (16 tuổi), Phan Minh (16 
tuổi), Nguyễn Duyệt(17 tuổi) và nhiều bạn trẻ khác thuộc giáo xứ Phủ Cam
 cũng bị VC giết hại tại đây…”
LÊ PHONG LAN CÓ NÓI THẬT?
Trái với những lời kể này, nhà làm phim tuyên truyền cho đảng, Bà Lê 
Phong Lan cho biết bà đã phỏng vấn ông Lê Khả Phiêu, Tổng Bí thư đảng 
khoá VIII – người từng là chỉ huy một trung đội trong sự kiện Mậu Thân 
1968 tại Huế; lãnh đạo Thanh niên phật tử tranh đấu ở Huế theo Cộng sản 
nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân; nhà báo Mỹ Stanley Karnow, cựu phóng 
viên tờ Washington Post Don Lux; GS sử học Larry Berman, và cả những 
người lính từ hai phía.
Bà nói: “Những dẫn chứng lịch sử cho thấy thông tin bị làm méo mó. Vào 
thời điểm đó, một số hãng thông tấn nước ngoài và các nhà báo độc lập đã
 tìm hiểu và xác định không tìm thấy hố chôn người tập thể như phía Việt
 Nam Cộng hòa đưa ra. Câu chuyện của những nhân chứng có thẩm quyền đã 
làm sáng rõ: cái gọi là “cuộc thảm sát đẫm máu” chỉ là đòn tâm lý chiến 
mà Mỹ dựng lên, thực tế Huế đã bị bom Mỹ phá hủy làm nhiều thường dân 
chết cùng với quân giải phóng và lính Mỹ.”
Nhưng, theo ông Trương Như Tảng (cựu Bộ trưởng Tư pháp Cộng hòa miền Nam
 Việt Nam, về sau ly khai chính phủ và vượt biên sang sống lưu vong ở 
Pháp), thì:” Trong cuộc chiếm đóng Huế, một số lớn người đã bị xử tử vì 
thuộc thành phần phục vụ cho chính quyền Việt Nam Cộng hòa (viên chức, 
cảnh sát, sĩ quan, chính trị gia, địa phương quân…) nhưng cũng có người 
bị giết mặc dù không tham gia chiến trận.” Ông dẫn lời một người bạn 
rằng:” Do kỷ luật kém ở một số đơn vị, một số thường dân cũng nhân dịp 
hỗn loạn để trả thù nhau nên đã có những vụ giết hại vô cớ. Một bản báo 
cáo của Mặt trận Dân tộc Giải phóng bắt được ngày 25 tháng 4 năm 1968 
ghi nhận, họ đã “diệt 1.892 nhân viên hành chánh, 38 cảnh sát, 790 tên 
ác ôn, sáu đại uý, 1 trung uý, 20 thiếu uý và nhiều sĩ quan trừ bị…” 
trong cuộc chiếm đóng Huế.” (Tài liệu trích theo Hồi ký của ông Trương 
Như Tảng trên Internet)
Ngòai ra, báo cáo chính thức sau Mậu Thân ở Huế còn cho biết : “Một vụ 
thảm sát gây phẫn nộ dư luận quốc tế là vụ giết 4 bác sĩ người Đức sang 
giảng dạy và làm việc tại trường Đại Học Y Khoa Huế. Trong bài viết “The
 Vietcong Massacre at Hue,” xuất bản năm 1976, một bác sĩ có tên Elje 
Vannema, kể rằng ông bà bác sĩ Horst Gunther Krainick và hai bác sĩ 
Raymund Discher cùng Alterkoster đã bị giết trong tháng Hai năm 1968 tại
 chùa Tường Vân hoặc một vùng đất nhiều cây cối cách chùa chừng nửa dặm,
 nơi người ta tìm thấy thi hài của các nạn nhân. Bác sĩ người Pháp, có 
tên Le Hir khám nghiệm tử thi các nạn nhân cho biết có dấu vết đạn xuyên
 qua đầu và ót.”
GIẾT NGƯỜI GIỮA ĐÊM GIAO THỪA
Hồi tưởng lại biến cố Mậu Thân đẫm máu do người Cộng sản gây ta cho nhân
 dân miền Nam 50 năm trước, không một người Việt Nam nào có thể quên 
ngày ấy. Giữa đêm Giao thừa thiêng liêng của dân tộc Tết Mậu Thân 
(1968), Quân đội Cộng sàn miền Bắc và lực lượng võ tranh tay sai Việt 
Cộng (của MTGPMN) đã tung quân tấn công 41 thành phố, thị xã và 72 Quận 
lỵ , kể cả Thủ đô Sài Gòn và cố đô Huế của Việt Nam Cộng hòa.
Ít người  Việt  nào muốn gợi lại những đau thương, đổ vỡ của chiến 
tranh, nhất là cuộc thảm sát trên 3,000 trong số gần 6000 thường dân bị 
thiệt mạng trong 25 ngày Cộng sản  chiếm đóng thành phố Huế của binh 
lính Cộng sản. (có tài liệu nói 26 ngày)
Nhưng đảng và nhà nước CSVN lại coi biến cố đau thương này là một 
“chiến công” phải ăn mừng và tổ chức lễ hội như đã diễn ra trừ dạo kỷ 
niệm 40 năm.
Bằng chứng như ta thấy báo  Công an Thành phố HCM loan tin ngày 
13-11-2007: “Ban Bí thư TW Đảng có thông báo về việc tổ chức kỷ niệm 
trọng thể 40 năm cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân – 1968. Bộ
 Quốc phòng được giao nhiệm vụ phối hợp với Tỉnh ủy Thừa Thiên – Huế tổ 
chức hội thảo khoa học cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu 
Thân-1968. Thành phố Hồ Chí Minh phối hợp với Bộ Quốc phòng tổ chức mít 
tinh trọng thể cấp Nhà nước tại thành phố. Các tỉnh từ Quảng Trị trở vào
 tổ chức gặp mặt truyền thống, tọa đàm về chiến thắng này. Tổ chức các 
hoạt động văn hóa, du lịch, giúp đỡ cá nhân có thành tích trong cuộc 
Tổng tiến công Xuân Mậu Thân hiện còn khó khăn.”
Nguyễn Đình Ước, Trung tướng Cộng sản viết trên báo Nhân Dân ngày 
8-1- (2008): “Cuộc tiến công Tết Mậu Thân đi vào lịch sử là một sáng tạo
 độc đáo của cuộc chiến tranh cách mạng Việt Nam thể hiện một đỉnh cao ý
 chí và trí tuệ của Việt Nam trong cuộc chiến tranh nhỏ thắng lớn. Dưới 
sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh quân và dân ta đã
 đánh thắng oanh liệt một cuộc chiến tranh cục bộ lớn nhất của một tên 
đế quốc lớn nhất trong thế kỷ thứ 20.”
Có “độc đáo”, “oanh liệt” hay không thì Ước cần đọc lại những lời 
tuyên bố nhìn nhận bộ chỉ huy cộng sản đã tính tóan sai lầm trong vụ tấn
 công quân sự Mậu Thân  của Trần Văn Trà, Trung tướng.
Ước cũng nên tự vấn lương tâm tại sao đảng CSVN đã lên án, tuyền 
truyền rùm beng vụ Quân đội Mỹ can tội thảm sát  người dân vô tội tại ấp
 Mỹ Lai mà không dám nhìn nhận cuộc tàn sát đẫm máu dân thường và các 
viên chức VNCH của lính Cộng sản ở Huế.
Ông Douglas Pike, một chuyên viên về cộng sản Việt Nam nổi tiếng của 
Mỹ viết: “Một cách tự nhiên, những điều xảy ra ở Huế là vài sự thống kê 
mau lẹ và nhạy cảm. Cuối cùng, lực lượng quân sự cộng sản lên tới 12 
ngàn người đã tấn công Huế ngay đêm mồng một tết (30 tháng 1 năm 1968), 
chiếm thành phố 25 ngày và cuối cùng bằng hành động quân sự họ bị đánh 
bật ra khỏi nơi họ chiếm đóng.”
“Trong trận tấn công nầy, 5,800 người dân thường bị giết và mất 
tích.  Đến bây giờ tất cả họ coi như đã chết. Từ đó, thi hài họ được tìm
 thấy lẻ tẻ hay trong những ngôi mộ tập thể ở những vùng chung quanh Huế
 – Trung tâm văn hóa Việt Nam – thuộc tỉnh Thừa Thiên.”
“Đó chỉ là những dữ kiện chính yếu, những thống kê quan trọng, chẳng 
vui gì khi nói về Huế, là điều được viết xuống bằng thứ ngôn ngữ bình 
thường của báo chí, rõ ràng chẳng gây được ấn tượng gì cho tinh thần và 
lương tâm của nhân loại. Chẳng có tiếng thét đầy uất hận nào! Và các tòa
 đại sứ của Cộng sản Bắc Việt Nam trên thế giới đều im hơi lặng tiếng.” 
(Tuệ Chương dịch)
Như vậy, dù muốn che cho bằng được để lãng quên, nhưng lịch sử và sự 
thật của máu đổ thịt rơi ở Thành phố Huế 50 năm trước vẫn còn tươi rói. 
Lời kể của các nhân chứng đã nói lê sự thật không thể chối cãi.
Vì vậy, dù có mồm loa mép giải đến đâu, thì 50 năm sau thảm họa Mậu 
Thân, người cộng sản vẫn không thể xóa đi tội ác họ đã gây ra cho nhân 
dân miền Nam, vì những dòng máu oan khiên của hàng ngàn đồng bào vẫn 
chưa khô trên thành phố Huế. -/-
Phạm Trần (đầu năm 2018)

No comments:
Post a Comment