Tháng
11 năm 1968 về trình diện phi
đoàn 219 tại hậu cứ Đà Nẵng tôi bắt đầu làm quen với chiến trường cũng
như làm quen với các anh em trong phi đoàn. Đối với phi đoàn 219, dùng
chử chiến trường không còn mấy đúng nghĩa bởi tất cả các phi vụ đều âm
thầm và không số. Thời điểm đó, PĐ 219 là
phi đoàn có số thương vong cao nhất trong các phi đoàn Không quân. Và
ngay tuần lễ đầu tiên về phi đoàn , tôi được cử đi gác quan tài Đ/U
Hướng văn Năm thuộc phi hành đoàn Minh- Năm - Thân. Cho đến nay tôi vẫn
tự hỏi là tỷ số thương vong của PĐ 219 mà trong
đó có một số phi công trực thăng đầy kinh nghiệm nhưng thiếu may mắn
thuộc PĐ 219 có mật hệ gì với chiếc Vespa ? Một huyền thoại !
Giữa năm 1969, trong một lần
biệt phái hành quân tại Kontum, tôi ngồi hoa tiêu phó cho Đ/U Nguyễn
quý An biệt đội trưởng của 4 phi hành đoàn. Đ/U An số 1, Tr/U Sinh số 2,Tr/U Cung số 3, Tr/U Thắng số 4. Ngày hôm
ấy phi hành đoàn số 1 nghỉ.Tôi cùng Đ/U An đang nhâm nhi cà phê ngoài
phố Kontum, một chiếc xe jeep của biệt kích Lôi Hổ thắng gấp trước cửa
tiệm mang đến cho chúng tôi tin không lành: Chiếc H-34 của số 2 bị bắn,
đâm vào núi bốc cháy, PHĐ Tr/U Sinh tử
nạn.
Chúng tôi bàng hoàng, hối hả
trở về trại B-15, hậu cứ của biệt kích Lôi Hổ vùng cao nguyên Pleiku-
Kontum mà PĐ 219 làm việc với họ.
Lúc bấy giờ tôi không biết Tr/U
Sinh là chủ một chiếc xe Vespa mà tôi không ngờ sau này chiếc xe của
anh đi vào huyền thoại của PĐ 219.
Trở về Đà Nẵng, tôi lại tiếp tục các chuyến biệt phái Phú Bài, Quảng Trị, Đông Hà.
Trở về Đà Nẵng, tôi lại tiếp tục các chuyến biệt phái Phú Bài, Quảng Trị, Đông Hà.
Một hôm, tôi đang ngồi trong
phòng trực phi đoàn, Đ/U Ngô viết Vượng một trưởng phi cơ kỳ cựu của
phi đoàn bước vào, anh nhờ tôi đưa anh ra phi đạo để chuẩn bị cất cánh
đi biệt phái Kontum. Anh dùng chiếc Vespa của
anh chở tôi ra phi đạo và muốn tôi giúp anh đem chiếc Vespa về cất tại
phi đoàn.Trên đường ra phi đạo, anh cho biết là đã mua lại chiếc Vespa
này từ gia đình cố Tr/U Tôn thất Sinh. Anh bắt tay cảm ơn tôi với đầy
tin tưởng là tôi sẽ cất xe cho anh chu đáo,
Chỉ vài ngày sau , tôi sửng sốt
nhận hung tin từ biệt đội Kontum: Thời tiết xấu, 2 phi hành đoàn tử
nạn vì bị “Vertigo”, PHĐ số 1 gồm Đ/U Vượng, Tr/U Sang,Tr/Sĩ Truật -
PHĐ số 2 có Đ/U Cung, Th/U Đạt, Tr/Sĩ Liên. Buổi chiều tôi nhận tiếp báo cáo từ biệt đội: Cơ phi chiếc số 2 là
Tr/Sĩ Liên, em ruột Đ/U Long sống sót và chỉ bị thương nhẹ. Riêng Đ/U
Trần văn Long bay chiếc số 3 đã quay trở lại Kontum đáp nên thoát nạn.
Đầu tháng 10 /1971 biệt phái
Quản Lợi, Đ/U Thắng bay số 1 là biệt đội trưởng, Tr/U Sâm bay số 2 và
tôi bay số 3, Quản Lợi chỉ cách Sài gòn khoảng hơn 1 giờ bay, và vì lý
do an ninh chúng tôi mổi tối đều về Sài Gòn
ngủ. Đặc biệt trong lần biệt phái này Đ/U Thắng đã mua lại chiếc Vespa
của cố Đ/U Vượng và anh đã đem chiếc Vespa này về Sài Gòn làm phương
tiện di chuyển .
Sáng hôm ấy trời còn mờ sương,
tôi chuẩn bị sẵn sàng chờ Đ/U Thắng đến đón đi bay. Vừa tính bước ra
cửa quyển lịch treo ngay đầu cầu thang đập vào mắt tôi:9 tháng 10 -1971
. Tôi thầm nghĩ còn đúng 1 tháng nữa là
mình lên 25 tuổi rồi .
Anh Thắng và tôi lúc này thân
nhau như anh em nên anh không ngần ngại lái Vespa từ Phú Nhuận sang
Khánh Hội đón tôi, rồi ngược vào căn cứ KQ Tân Sơn Nhất. Dọc đường anh
ghé phở Công Lý bao tôi một chầu ăn sáng. Vui
miệng, anh đã tâm sự về chiếc Vespa anh đang sử dụng. Anh cho biết
chiếc Vespa khởi thuỷ là của một vị Đ/U nhảy dù. Trên đường ra miền
Trung công tác, chiếc C47 chở vị Đ/U nhảy dù này lâm nạn đâm vào núi
bốc cháy, Không biết trong một liên hệ nào, chiếc
Vespa được chuyển qua cho Tr/U Tôn thất Sinh. Một thời gian sau, Tr/u
Sinh tử nạn trong một phi vụ gần Dakto, phi cơ bị bắn đâm vào núi bốc
cháy. Kế tiếp người sử dụng chiếc Vespa là Đ/U Ngô viết Vượng.rong phi
vụ liên lạc Kontum - Đức Cơ do anh hướng
dẫn, phi cơ của anh bị “vertigo” đâm xuống đất. Kể đến đây, anh Thắng
muốn tỏ cho tôi biết anh không hề kiêng kỵ khi mua lại chiếc Vespa của
gia đình Đ/U Vượng. Rồi anh cười hỏi đùa tôi “ Sao chú muốn mua chiếc
Vespa của tôi không ?“.
Chúng tôi vào đến Tân Sơn Nhất
trời đã sáng và sương chưa tan hẳn. Lúc này tôi được biết vì lý do kỹ
thuật, chiếc số 2 cần sửa chữa nên Tr/U Sâm nghỉ bay hôm đó,c hỉ có Đ/U
Thắng và tôi số 3 lên trực hành quân tại
Quản Lợi.
Trên phi trình tới Quản Lợi,
chúng tôi bình phi ở cao độ 2.500 bộ, Vừa qua khỏi Chơn Thành khoảng 15
phút, thình lình số 1 giảm cao độ thật nhanh và xà vào một bìa rừng.
Anh Thắng gọi tôi trên tầng số FM: “ Số 2
xuống đi, heo rừng nhiều lắm “. Trời ơi ! tôi thầm kêu khổ. Anh đã
từng biết tôi không thích bắn nai, bắn heo ... Lúc còn ở quân trường, các bạn cùng khoá hay cười tôi vì tối tối trước khi đi ngủ, tôi bắt
từng con muỗi trong mùng bỏ ra ngoài cửa sổ, bây
gió bảo bắn heo làm sao tôi dám. Tôi từ chối, anh tỏ ra giận dữ, đe
doạ :”Thôi chú về Sài Gòn đi, mai anh gửi chú ra Đà Nẵng “Vì đã khá
thân và cả nể, tôi chiều ý anh, cắt ga xà xuống rồi tính nói người cơ
phi xạ thủ của tôi đừng bắn gì cả. Hởi ơi
Tr/Sĩ Cần, người xạ thủ của tôi đã lanh tay nỗ hàng loạt đại liên trên
đàn heo đang chạy tứ tung, 2 con nằm tại chỗ.Trong khoảnh khắc, Cần
đã chuyển 2 con heo xấu số lên tàu rồi cùng nhận lệnh từ anh Thắng đến
“pick-up” luôn 6 con heo anh đã bắn được. Vì
mãi bắn heo gần 9 giờ sáng chúng tôi mới đáp Quản Lợi. Anh em biệt kích
và cố vấn Mỹ chờ sẵn ngoài phi đạo, Đ/U Miller , cố vấn trưởng tỏ ra
bực tức và hơi to tiếng với anh Thắng vì sự chậm trể của chúng tôi. Hắn
đã nhanh tay rút ra chiếc máy ảnh nhỏ đưa
lên chụp liên tiếp chiếc H-34 của tôi với 8 con heo còn nằm chình ình
bên trong. Tôi thầm nghĩ: Thôi rồi. chuyến này thế nào tôi cũng bị vài
củ ... trọng cấm,
Chúng tôi đưa toán biệt kích lên
Lộc Ninh trực hành quân. Vì nhu cầu khẩn thiết. 1 chiếc H-34 được điều
động tăng cường cho chúng tôi và Đ/U Trần văn Long từ biệt đội Ban Mê
Thuộc đã về Lộc Ninh xế trưa hôm đó trên 1
chiếc H-34 với người cơ phi là Tr/Sĩ Trần văn Liên, em ruột của Đ/U
Long. Đây là lần đầu tiên 2 anh em Đ/U Long cùng chung một phi hành
đoàn. Phi vụ rước toán hoàn tất và 3 chiếc H-34 về đáp an toàn tại Quản
Lợi. Khoảng 8 giờ tối, chúng tôi cất cánh rời
Quản Lợi để về Sài Gòn với đội hình :
- Số 1 : Thắng - An - Mai
- Số 2 : Long - Thành - Liên
- Số 3 : Hoàn - Kim - Cần
Bình phi ở 2 ngàn bộ chúng tôi trực chỉ Sài Gòn . 10 phút sau tôi nghe giọng Đ/U Thắng trên tầng số FM 41.0 : “Kingbee 2-3 nghe Kingbee Lead ? “
- Số 2 : Long - Thành - Liên
- Số 3 : Hoàn - Kim - Cần
Bình phi ở 2 ngàn bộ chúng tôi trực chỉ Sài Gòn . 10 phút sau tôi nghe giọng Đ/U Thắng trên tầng số FM 41.0 : “Kingbee 2-3 nghe Kingbee Lead ? “
Anh Thắng cho biết thời tiết xấu,
có mưa cẩn thận trong lúc bay hợp đoàn. Chúng tôi đã bay dưới cơn mưa
khá nặng hột trong đêm tối, chẳng khác nào “ đục mây “như Đ/U Vượng
ngày trước. Quả nhiên chỉ 5 phút sau tôi không
còn thấy gì ngoài bức màn đen trước mặt. Tôi bắt đầu chăm chú bay phi
cụ và cảm thấy lo sợ trước viễn ảnh một thảm nạn “Vertigo”. Tôi bấm máy
gọi Đ/U Thắng để báo anh biết là tôi không còn thấy anh và số 2. Không
nghe anh trả lời, tôi đã thực sự toát mồ
hôi, mặc dầu mưa lạnh hắt vào người vì cửa sổ không đóng. Tôi chợt
nghĩ có lẽ anh đang hốt hoảng trong trạng thái “Vertigo” quái ác kia nên
không còn trả lời tôi được. Nhưng còn Đ/U Long thì sao ? cũng cùng tâm
trạng chăng ? Một sự im lặng đến sợ hãi. Tôi
biết tôi phải chiến đấu với tử thần “Vertigo” và tôi phải tự quyết định
mọi chuyện vào lúc này.Tôi dự định giảm độ cao nhưng tôi cũng kinh
nghiệm rằng đang bay phi cụ mọi thay đổi trạng thái của phi cơ rất dể
làm cho hoa tiêu bị “ Vertigo” nên tôi lại tiếp
tục bình phi. Không đầy 2 phút sau, tôi phát hiện ánh đèn pha (landing light) vừa được bật lên trong khoảng cách chưa đầy nửa dặm phía
bên phải của tôi. Thế rồi ánh đèn pha đó bổng quay cuồng ,nhảy múa trước
mặt, chẳng khác nào một chiếc đè pin bật lên
trong đêm tối và được cầm trong tay một đứa bé đang tập đi. Tôi hốt
hoảng dán mắt vào ánh đèn pha và trong giây lát, ánh đèn lao vút xuống
đất theo chiều thẳng đứng đối với chiếc phi cơ của tôi. Rồi một tia lửa
loé lên. Tôi định thần trở lại, đúng là chiếc
H-34 của chúng tôi vừa chạm mặt đất nổ tung, lửa bốc lên cuồn cuộn.
Từ cao độ 2 ngàn bộ cách mặt đất, tôi bám chặt lấy đốm lửa và cắt ga,
giảm dần độ cao. Cách đốm lửa khoảng 500 bộ, tôi bắt đầu bớt tốc độ và
chuẩn bị bay đứng một chổ (hovering).Tôi
bật đèn đáp (landing light) ánh đèn phản chiếu những hạt mưa làm tôi
loá mắt. Liếc sang bên phải, tôi đã nhìn thấy những ngọn cây và mưa rào
lớn lắm nhưng trời ơi !! Định thần lại thì ngọn cây vẫn còn li ti phía
dưới , như vậy phi cơ tôi còn cao lắm chưa
thể bay đứng được . Tôi rùng mình vội đẩy cần lái (cyclic stick) về
phía trước với mục đích cất cánh trở lại .Đột nhiên nghe tiếng người cơ
phi hét lên trong máy: “de, de ,de” Thì ra trong phút hốt hoảng, tôi
không đẩy cần lái về phía trước mà còn kéo thêm
vào người, phi cơ bắt đầu bay lùi và mất độ cao.Tôi đã thực sự bị “Vertigo” May mắn tiếng thét của người cơ phi đã kéo tôi ra khỏi cơn mê
và với tất cả sức mạnh (power) của chiếc H-34, tôi đã giử được phi cơ
đứng trên ngọn cây. Tôi vừa thoát chết trong
gang tấc. Dùng bàn đạp (pedals) tôi xoay con tàu một vòng để tìm lại
đốm lửa và di chuyển phi cơ tới gần hơn. Lửa vẫn cuồn cuộn, bao trùm
chiếc H-34 mặc dầu mưa như trút nước. Tôi tìm bãi đất trống và đặt phi
cơ xuống để quan sát. Không hy vọng có người
sống sót trong chiếc H-34 lâm nạn, tôi quyết định rời khỏi vùng bằng
cách bay xà trên ngọn cây với tốc độ chậm và nhắm hướng 180 độ để tìm
thành phố gần nhất. Đêm đó chúng tôi ngủ lại Chơn Thành. Sáng hôm sau
Tr/U Sâm, phi hành đoàn số 2 của biệt đội Quản
Lợi đến đón tôi vì phi cơ tôi đã bị “overtorque” phải chờ toán kỹ thuật
từ Biên Hoà lên kiểm máy lại.
Sau gần 3 tiếng đồng hồ tìm kiếm,
tôi được biết chiếc số 1 bị cháy, chiếc số 2 cũng lâm nạn , phi cơ đâm
xuống vùng sình lầy, cách chiếc số 1 khoảng hơn nửa dặm .
••••
Bước vào nhà quàn thuộc Tử Sĩ Đường căn cứ KQ Tân Sơn Nhất, tôi không khỏi ngậm ngùi nhìn 6 chiếc quan tài phủ quốc kỳ xếp thẳng hàng. Nhất là khi nhìn 2 chiếc quan tài của anh em Đ/U Long mà năm trước đã một lần thoát nạn thật kỳ diệu .
Bước vào nhà quàn thuộc Tử Sĩ Đường căn cứ KQ Tân Sơn Nhất, tôi không khỏi ngậm ngùi nhìn 6 chiếc quan tài phủ quốc kỳ xếp thẳng hàng. Nhất là khi nhìn 2 chiếc quan tài của anh em Đ/U Long mà năm trước đã một lần thoát nạn thật kỳ diệu .
Hôm đó gặp chị Cúc , phu nhân Đ/U
Thắng , tôi giúp chị tìm người mở khoá chiếc Vespa để đem về nhà chị.
Tôi rùng mình nghĩ lại “giai“ thoại của chiếc xe. Cả bốn người chủ xe
đều bị chết cháy trong tai nạn phi cơ !!!
Thêm một điều làm tôi phải ngẫm
nghĩ khi mở bản đồ tìm kiếm phi cơ lâm nạn: cùng là khu vực mà Đ/U
Thắng đã xà xuống bắn heo rừng buổi sáng cùng ngày.
Hồi ký
Tưởng nhớ thảm hoạ
ngày 09/10/1971
California 12/01/2010
Nguyễn Hải Hoàn
No comments:
Post a Comment