Ảnh : nhà văn Y Uyên – trước hầm trú ẩn ở đồn Nora, vùng núi Tà Dôn, Bình Thuận. 1969. Nguồn Thư quán Bản thảo số tháng 2/2005
(Trích: Tuyển tập Lê Mai Lĩnh 2015)
TÁC GIẢ, ĐÔI LỜI…
Ba mươi sáu năm về trước, nói rõ hơn, đúng vào ngày mồng một tháng Năm năm 1969, sau khi nhà văn Y UYÊN chết, trên tạp chí VĂN của Ông Trần Phong Giao, số tưởng niệm nhà văn Y UYÊN, Lê Mai Lĩnh tôi, dưới bút hiệu khai sinh Lê Văn Chính, đã có một bài viết, về cái chết của một người huynh trưởng, Y UYÊN, anh khóa 27, tôi khóa 1/68, trường Bộ Binh Thủ Đức, bài này nằm giữa, trước là Võ Phiến, sau là Thanh Tâm Tuyền. Điều rất vui là tôi nằm giữa, những bậc đàn anh, bậc thầy.
Bài viết, như một kỷ niệm, tưởng chừng như đã chết.
Nhưng. Không ngờ. Không dự báo trước. Nhà văn Phạm Văn Nhàn cùng nhà văn Trần Hoài Thư, trong tổ hợp xuất bản Thư Quán Bản Thảo trong nỗ lực thực hiện một ấn bản tưởng niệm nhà văn Y UYÊN, hai anh đã vận động được những bạn bè trong nước, những người cầm bút trước 1975, còn sa cơ lỡ vận trong Địa ngục trần gian Việt Cộng, tìm kiếm tài liệu, vận dụng trí nhớ và tình yêu đối với Nhà văn Y UYÊN để có bài và viết bài cho số báo đặc biệt. Nhà thơ Nguyễn Lệ Uyên, dù đang cuốc đất, cày ruộng tại Tuy Hòa, cũng đã tìm được số báo VĂN tưởng niệm Y UYÊN (số 129), trong đó có một bài viết, đã trải qua 36 năm, nhưng còn Nóng Hổi chất “Văn Học, Tính Người và Nhân Bản’’ của người lính, Chuẩn úy Lê Văn Chính năm 27 tuổi: ‘’Núi Tà Dôn và Dấu Chân Uy’’. Lê Mai Lĩnh nhận được bài nầy từ Phạm Văn Nhàn, qua bưu điện vào lúc 11 giờ 30 ngày 1 tháng 12 năm 2004.
Lê Mai Lĩnh, đọc lại bài viết, sau khi đã uống xong 5 chai Heineken, hắn sung sướng và hắn khóc. Hắn không ngờ, 36 năm về trước, hắn thông minh, tài hoa và láu cá đến như thế.
Cho đăng lại một bài viết, tưởng chừng như không còn tồn tại trên cõi đời nầy, để quý độc giả chia sẻ niềm hạnh phúc với người thanh niên 27 tuổi vào năm 1969, cũng là người lính, người cầm bút, cũng là một kẻ rong chơi trong cõi ta bà Thế Giới, là tôi: LÊ MAI LĨNH.
01/12/2005
Đêm 8.1.69
Tôi nghĩ là hắn. Đúng là hắn. Chẳng thế nào là ai khác, ngoài hắn. Tôi biết hắn đóng ở Nora. Tôi biết ngay khi đến đây, hai tháng sau ngày hắn đến. Trình diện phòng I, hỏi thăm, được biết hắn đang ở Nora, tôi thú thật: tôi thất vọng. Thất vọng vì người ta không dùng hắn như một nhà văn có tài (26 tuổi với 4 tác phẩm vững vàng, phong phú biết bao). Người ta dùng hắn như một chuẩn uý, trung đội trưởng địa phương quân. Nhớ đến thơ Luân Hoán: Tôi là một sĩ quan mù, chỉ huy một trung đội điếc… Lúc này, nếu gặp Uy, tôi ắt hỏi: mày có mù, lính có điếc? Hỡi Uy!
Tôi nghĩ đến hắn. Tôi nghĩ ngay Uy như thế khi người lính truyền tin ở yếu khu Phú Long nói cho tôi biết, có một Chuẩn Uý ở đồn Nora đã mất tích!
Đêm nay đến phiên tôi dẫn lính giữ cầu Phú Long, ngủ dưới gầm cầu. Tôi nghĩ là Uy không thể chết. Chỉ những viên đạn vô tình thì mới không phân biệt được, còn như nếu bị bắt, Uy không thể chết. Việt cộng có thể không coi trọng Uy như một nhà văn. Nhưng biết đâu chúng chẳng dẫn Uy ra Bắc rồi tuyên truyền ầm ĩ là chính Uy đã ‘’trở về với nhân dân’’. Rồi Uy sẽ được dẫn đi khắp nơi, sẽ lên tiếng ở đài phát thanh, sẽ kêu gọi bạn bè của anh trong ban biên tập nguyệt san Bộ Binh…
hãy ‘’quay súng về với nhân dân’’. Rồi Uy sẽ được một thiếu nữ xinh đẹp, ngon lành nhất Hà Nội ôm hôn và choàng hoa. Có thể nữa, Uy sẽ làm tờ chối từ những tác phẩm của anh. Rồi Uy sẽ bắt đầu lại từ đầu, trong sự dẫn đường ‘’của Bác và Đảng’’. Tôi nghĩ đến Uy trong một cuộc đời mới. Tôi cũng định tâm từ nay theo dõi đài Hà Nội, để chờ nghe hắn lên tiếng. Tôi không một mảy may nghĩ rằng hắn sẽ chết. Tôi không nghĩ là hắn sẽ chết nếu bị rơi vào tay Việt cộng, nhưng tôi tin hắn sẽ thoát xác một cách chóng vánh và tức cười.
Ngồi trên thành cầu đến khuya, tôi nhìn về phía ngọn núi Tà Dôn và tôi nghĩ, lúc này có lẽ hắn đang bị trói tay, cũng có thể không bị trói tay nếu gặp được những đứa Việt cộng biết trọng nhân tài, và đoàn người có Uy đang di chuyển trong đêm lấy núi làm chuẩn.
Ngày 9.1.69
Đến nhà Nguyễn Hiếu Học lúc 1giờ 30, tôi gặp Thái Phi Kích. Và bây giờ tin Uy tử trận đã rõ ràng. Chúng tôi lặng người. Trước mọi cái chết, sự lên tiếng, dù thế nào cũng đều lố bịch – nhất là trước những cái chết của những trường hợp như Uy, những người hiếm hoi như Uy.
Học nói cho tôi biết về những giấy tờ do đâu đó làm chậm trễ, gây nên cái chết của Uy, chứ đáng ra Uy đã được về Cục CTCT. Lúc đó hình như tôi có chửi đổng một câu. Cũng không mấy tin tưởng là tin Uy tử trận sẽ sớm được thông báo cho gia đình Uy nên chúng tôi chia tay nhau đi nhờ gọi điện thoại vào Sài Gòn, tới hai nơi mà chúng tôi tin là có người biết nhà của Uy, tòa soạn Bách Khoa và Văn. Buổi chiều hôm đó, Thái Phi Kích đã nói chuyện được với Sài Gòn. Chúng tôi tạm yên tâm là hôm sau thế nào cũng có thân nhân của Uy ra.
Chúng tôi lên Quân y viện Đoàn Mạnh Hoạch thì tin xác Uy chưa được chở về.
Tôi để Học và Kích lại nhà, rồi lên đồn, trong ý định xin Đại Đội Trưởng về nhà một đêm để tiếp tay các bạn. Tôi vừa lên đồn – lúc đó khoảng 6 giờ chiều – thì nhận được lệnh cùng với đại đội trưởng đi hành quân mở đường khoảng Phú Long – Tuy Hòa cho đoàn công voa chở xác Uy về.
Khi đến Ba Cây, tôi gặp chiếc xe Hồng Thập Tự. Người tài xế cho biết ông chuẩn uý nằm trên băng ca, còn dưới sàn xe là hai người lính. Lúc đó, tôi vạch tấm vải làm cửa xe và tôi chỉ kịp nắm bàn chân Uy vừa khi chiếc xe rồ máy chạy. Trở về đồn đã hơn 7 giờ, tôi phải ở lại đồn, chẳng giúp gì cho Học và Kích đêm đó.
Uy ra trường trước tôi một tháng. Ngày còn ở trong trường Thủ Đức chúng tôi thường gặp nhau vào chiều thứ sáu mỗi tuần. Ngày bàn giao ban biên tập, chính nhờ Y Uyên mà chúng tôi, trong số đó có các anh Dương Kiền, Lê Tất Điều… được ăn một chầu hột vịt lộn, nhậu bia 33..
Đến khi về Phan Thiết, tôi được tin anh đóng đồn ở Nora, thỉnh thoảng mới có dịp xuống phố. Vài lần anh tìm đến thăm tôi, nhưng không gặp. Mấy lần nghe tin anh về, tôi tìm thăm, nhưng anh đi vắng.
Chiều nay, bên lề đường, tôi nắm chân anh trong lúc giữ phần an ninh lộ trình cho chuyến xe chở xác. Lúc trở về đồn, tôi không thể ngăn mình suy nghĩ mông lung. Mọi người sinh ra, mọi người phải chết. Mọi người, với tư cách công dân, phải góp phần cho sự trường tồn của Tổ Quốc. Nhưng mỗi người thực sự chết có nghĩa lý khi y được xử dụng đúng. Trường hợp của Uy, cái chết dưới chân núi Tà Dôn, năm 26 tuổi, là một cái chết uổng…
Chiều đến, tôi chở Kích và Học lên nhà xác Quân Y Viện. Đó là một đỉnh cát trắng, trông ra biển cả. Những ngọn gió quất tứ tung vào mặt, thổi cát lấp lên lá cờ vàng ba sọc phủ trên áo quan. Nắm cơm và bọc nước cam vàng trong túi nylon cùng với điếu thuốc do người chị đốt cháy mời gọi Uy trở dậy, sao em tôi nằm đây, em tôi không cần tổ quốc ghi ơn, Uy ơi là Uy… Tất cả, thực sự để làm gì? Để đổi lấy những cái chết, để chứng kiến những cái chết, để đợi chờ những cái chết. Can đảm, sáng suốt, hiên ngang cách mấy, trước buổi chiều đó, trước cái chết đó, trước cảnh thê lương ảm đạm của cái cảnh bạn bè nằm xuống đó, người ta cũng nghẹn ngào, tức tối. Trong chúng tôi những thằng bạn cũ của Uy đứng đó, đều thấy rằng, khi ta còn sống, còn lên mặt trận, ta còn được bọc quanh mình bằng những gian trá, bằng những lừa dối. Nhưng khi ta chết đi, điển hình là Y Uyên nằm đó, trong quạnh hiu, buổi chiều nay, trên đồi cát này, có ai làm được cái gì hơn là cho một làn kẽm để bọc, một lá cờ vải để che. Một làn kẽm để bọc. Còn như ngại đường xa, thêm một làn kẽm nữa, tang gia phải trả thêm ba ngàn đồng phí tổn.
10.1.69
Sáng nay chúng tôi được tiếp chuyện trung úy Q., người chỉ huy trận đánh và cũng là đại đội trưởng của Uy. Theo anh thì Uy chết ngay loạt đạn đầu tiên vì bị phục kích. Việt cộng đào hầm độn thổ từ trước, có đến cỡ tiểu đoàn. Chúng chờ phục kích đoàn công voa của tỉnh từ Sông Mao về. Trung đội của Uy phát giác một phần của lực lượng địch nằm dưới hầm bắn lên. Với gia đình, bè bạn của Uy, với văn học Việt Nam, anh chết là một mất mát lớn lao. Còn như đối với chính quyền Phan Thiết, với đại đội 784 Địa phương quân thì đây là một chiến thắng: địch để lại trên 40 xác chết; bên ta chỉ có một chuẩn uý và hai binh sĩ hy sinh.
11.1.69
Tôi nghĩ Uy sẽ không bị chết nếu bị bắt, nếu Uy biết cách nói cho những người ở phía bên kia biết Uy là một nhà văn. Tôi cũng nghĩ đến trường hợp sau khi bị bắt, Uy sẽ được ra Hà Nội, và guồng máy tuyên truyền phía bên kia sẽ khai thác nhà văn của chúng ta. Nhưng tất cả những điều tôi tưởng tượng đều trái ngược với thực tế, một thực tế phũ phàng, tàn nhẫn: Y Uyên sau khi chết rồi còn bị bắn bồi mấy phát súng ở mắt, tai và đâm bồi thêm mấy nhát dao ở hai cánh tay và hai bên hông.
Tôi không có mặt khi bạn hữu tẩm liệm chàng, nhưng Học nói lại những nhận định như thế khi quan sát xác chết với những đầu đạn, dấu dao trên mình chàng. Có những dấu đạn người ta biết được là từ đâu, như thế nào, và người ta cũng biết được nhũng dấu đạn nào là vô ích, là của hận thù. Trên thân xác của Uy, khi chở anh về quân y viện, có những dấu đạn thừa, những dấu dao vô lối. Những dấu đạn, vết dao không thể cắt nghĩa được. Nếu không phải là chúng có từ những thù hận ghê gớm, những chất ngất căm hờn, thì không thể làm sao tìm ra lý do giải thích sự hiện diện của chúng trên thân hình một người đã chết.
Từ những dấu đạn, vết dao đó, tôi có một nhận định về những người ở bên kia chiến tuyến. Tôi không hiểu bằng cách nào, trong cuộc chiến tương tàn, dòng dã hơn hai mươi năm này, những người lãnh đạo cộng sản đã dạy cho binh lính của họ như thế nào để lòng thù hận chất ngất mênh mông đến thế? Tôi chấp nhận những viên đạn thứ nhất hợp lý – Ừ, thì cứ cho là hợp lý.
Những viên đạn bắn bồi, nhũng nhát dao đâm thêm trên một xác thân đã chết là những viên đạn, những nhát dao không thể cắt nghĩa, không thể chấp nhận được. Những người cộng sản Việt Nam đã làm những điều dã man như thế, khởi đi từ lòng thù hận, từ sự cuồng tín. Từ đó chúng ta có một nhận thức mới, họ mù quáng trong khi chiến đấu, họ không mảy may hiểu về những căn nguyên cuộc chiến tương tàn này.
12.1.69
Tôi có đọc Y Uyên, nhưng anh không phải là một nhà văn tôi thích. Người ta chỉ chọn thích một số nào đó thôi trong những tác giả mình đọc. Tôi thì không thích Y Uyên vì văn anh khô và khó quá.. Không thích, nhưng tôi không thể không đọc anh vì anh là một trong số nhà văn có chân tài. Ngay từ những tác phẩm đầu – Những tác phẩm dù không toàn bích – Bút pháp của anh đã khiến người ta chú ý và tin tưởng. Hai mươi sáu tuổi, bốn tác phẩm đã in (hầu hết, do những nhà xuất bản đứng đắn,có uy tín ấn hành), điều đó thiết nghĩ đã đủ để chứng tỏ anh không phải là một tác giả có thể xem thường và sự thành công của anh không phải chỉ là một may mắn, tình cờ, như một vài trường hợp khác.
Trước ngày nhập ngũ, anh đã viết nhiều chuyện thời chiến, lúc đó anh còn là nhà giáo, nên chuyện thường mang nặng tính chất tưởng tượng hoặc dựa theo những kinh nghiệm chiến tranh mà anh được nghe kể lại.
Nhưng nay, anh lại là lính chiến, thứ lính chiến của một chiến trường thường xuyên sôi động là Bình Thuận – nơi mà Cộng Sản đã có cơ sở từ năm 1954 – hẳn nhiên anh phải thường xuyên mở to đôi mắt, lắng đôi tai để đối đầu. Trong chờ đợi, trong tham dự, hẳn anh quan sát được nhiều. Từ đó, chúng ta đủ tin rằng, nếu anh sống, biết đâu từ anh, văn học Việt Nam sẽ chẳng có những tác phẩm viết về chiến tranh bình tĩnh sâu sắc và lớn lao.
Nhà văn Việt Nam, trong chiến tranh Việt Nam, đã thiếu thốn quá nhiều thứ. Hoàn cảnh để sống, phương tiện để viết và nhất là, họ thiếu sự rõ ràng của chính nghĩa để phụng thờ, để làm sáng tỏ. Nhà văn Việt Nam, sống trong sự mù mờ, dường như đã thiếu tin tưởng ở những lẽ phải để phụng dưỡng, nuôi nấng. Từ một hoàn cảnh như thế, một tâm trạng như thế, nói ra những nhận định của mình, nhất là nói ra một cách bộc trực, sợ dễ dàng sai lạc và không chừng lại đắc tội với lịch sử.
Giờ đây, một trong những nhà văn trẻ của chúng ta, một trong những cây bút sống, lớn và viết về cuộc sống đang tàn phá chúng ta, đã nằm xuống – hay nói theo kiểu một nhà thơ trẻ khác – đã ‘’về trời’’. Chỗ anh ta nhắm mắt là dưới chân núi Tà Dôn, nơi nổi tiếng từ những ngày chiến tranh Việt Nam (trong chiến trường Phan Thiết, núi được xem là đích cho những lần hành quân và bố phòng).
Sau ngày anh ta mất đi, những chiến hữu của anh sống trong sôi bỏng của chiến trường Bình Thuận, nhìn về núi Tà Dôn như một ám ảnh của Định Mệnh. Họ thầm nghĩ,một mai, một ngày nào đó, chẳng biết rồi sẽ tới phiên ai trong bọn họ ? Rồi họ sẽ quay đầu hay quay chân về phía núi để cố thu lấy những hình ảnh cuối cùng của cuộc đời trước khi nhắm mắt ? Vì rằng, như một nhận thức, gần như thế trong cuộc chiến dai dẳng này, cái chết là một cái vốn mà ai cũng nắm dễ dàng trong tay, còn như số lời thì đã trở nên hiếm hoi lắm lắm.
1.3.69
Uy ơi, anh bỏ đi thế mà đã hơn hai tháng. Nay tôi thuyên chuyển về đồn Sara, cách chỗ xưa anh đóng khoảng 4 cây số, cách chỗ xưa anh chết khoảng 3 cây số.
Mới hơn hai tháng trời, mà nay nhắc tới anh đã như nhắc chuyện ‘’ngày xưa..’’. Có phải tôi say? Không biết nữa, chỉ biết mỗi lần nhớ đến anh là mắt tôi lại rưng rưng muốn khóc. Mà không phải chỉ khóc cho anh.
Tôi về gần rồi đó, chỗ xưa anh nhắm mắt và ngọn Tà Dôn như tôi chỉ với một tay là tới đỉnh. Mỗi ngày tôi mở mắt cùng với tiếng la om sòm của những chiếc xe đò lui tới, và ban đêm tôi nhắm mắt lại cùng với tiếng chim te te. Và bao giờ, và ở đâu, cái chết của anh dưới chân Tà Dôn này cũng là điều làm tôi nhớ, nhớ hoài hoài không thôi. Tôi định một ngày rất gần, sẽ dắt lính lên vùng trận địa anh ngã, thăm lại con suối anh chúi xuống để chết. Hình như cỏ ở đó xanh hơn mọi ngày, và một bóng Ngựa Tía chờn vờn mỗi đêm trên ngọn Tà Dôn – ngọn Tà Dôn, vùng đất Quê Nhà của anh rồi đó – quẩn quanh bên những Tượng Đá Sườn Non. Nhưng tất cả, phải còn gì nữa chứ? Chẳng lẽ như thế rồi hết! Tôi không tin đâu. Qua cơn Bão Khô này .. những gì còn lại … hơn là những dấu chân anh …
Lê Văn Chính
Phan Thiết / Bình Thuận/ 12.1.1969
Năm đang học lớp Đệ Nhị C trường Trung học Võ Tánh Nha Trang, bọn tôi nghe bạn bè xầm xì có một “ông” học trò mới chuyển từ trường Nguyễn Hoàng, Quảng Trị vào học lớp Tam C. Thời ấy đặc biệt ở các lớp Ban C có nhiều giai nhân, nên đám nam sinh thường hay ngắm nghé. Nghe nói gã từ miền giới tuyến Đông Hà hay Gio Linh gì đó mới trôi dạt vào đây. Không biết tên là gì, nhưng thấy gã lúc nào cũng ăn mặc “à la mode”, choàng áo vest, mang giày da bóng loáng có cái đế kêu cộp cộp, trong lúc hầu hết bọn tôi chỉ mang sandal hay dép Nhật. Đã vậy gã lại thường vào lớp trễ, nên học trò trong lớp đang ngồi chờ giáo sư, đều nhổm đứng lên chào, bởi nghe tiếng đế giày thong thả nện xuống nền ciment ngoài hành lang, cứ tưởng là thầy giáo đến! Chắc có nhiều tiếng rủa thầm trong miệng. Đã vậy gã ta lúc nào cũng ngước mặt nhìn trời, xem mấy lớp đàn anh cứ như cỏ rác.
Cùng năm ấy, còn có một “ông” khác, không biết vì sao bỏ “sào huyệt” từ cố đô Huế vào học lớp đệ Tứ, chuyên “xách động” bãi khóa biểu tình chống chế độ Tổng Thống Ngô Đình Diệm, tình nguyện đứng dưới trướng một cô cùng lớp Tam C của ông Quảng Trị, rất phong độ nên sau đó cô nàng nổi tiếng với cái tên “Nữ Hoàng Xuống Đường”. Ông gốc Huế này, mới nghe cái tên, ai cũng biết. Đó là ông Trần Mậu Tý (sau này bị chính ông anh đồng chí Nguyễn Đắc Xuân bắn chết trong biến cố Mậu Thân 1968). Nhưng ông thần Mậu Tý này là đồ bỏ, chỉ “quậy” một năm chẳng tới đâu, rồi biến, trở về Huế (hình như bị trường đuổi học vì lý do kỷ luật). Chỉ còn có ông học trò gốc Quảng Trị là nổi đình nổi đám.
Bọn tôi đang ghét cay ghét đắng, chưa kịp “hỏi thăm sức khỏe”, thì bất ngờ gã được thầy hiệu trưởng Lê Nguyên Diệm “mời” thuyết trình trước toàn trường đề tài “Giới Hạn Tự Do Của Học Sinh Ở Trường Học”. Ghê gớm hơn, chỉ vài tháng sau đó, gã lại được tuyển chọn để thuyết trình một đề tài “đẳng cấp hơn” mang tính văn học xã hội: “Thân Phận Người Đàn Bà Qua Ca Dao Việt Nam” tại rạp ciné Minh Châu bề thế!
Mọi người bắt đầu nhìn gã với con mắt khác, và dường như gã cũng biết chọn thời cơ để làm cho thiên hạ thấy mình “dễ thương” hơn. Sau này chính gã tự thú: không biết vì sao mà lúc ấy không bị ăn đòn…mới lạ!
Đùng một cái, mới vào đầu niên học mới, không những chỉ trường Võ Tánh mà gần như cả thành phố Nha Trang “dậy sóng”: một tập thơ mới toanh của một ông nhà thơ cũng mới toanh được ra mắt trình làng (thời ấy hiếm lắm). Tập thơ với cái tựa “Nỗi Buồn Nhược Tiểu” nghe đầy tính triết lý nhân sinh quan thời cuộc, và với cái tên tác giả “Sương Biên Thùy” đượm mùi chinh chiến, làm nhiều người nghĩ tác giả phải là một kẻ gió sương, từng trải, giờ gác kiếm dừng bước giang hồ, theo cụ Nguyễn Bá Trạc “vỗ tay mà hát, nghiêng bầu mà hỏi, trời đất mang mang, ai là tri kỷ, lại đây cùng ta cạn một hồ trường.” Nhưng không, cả thiên hạ ngạc nhiên khi nhận ra thi nhân Sương Biên Thùy này chính là ông học trò lớp đệ Nhị C mà năm trước cả trường đều gai con mắt khi hắn ta từ Quảng Trị nhập gia nhưng không thèm tùy tục. Cũng từ ấy chẳng ai thèm nhớ cái tên gã học trò Lê Văn Chính mà tất cả đều gọi hắn là Sương Biên Thùy (có tiếng xầm xì: cái tên nghe cải lương bỏ mẹ!)
Tập thơ tuy rất “đẳng cấp” từng vang tiếng một thời ở thành phố biển, vì quá lâu (nhưng không quá xưa) nên hiếm ai còn nhớ sau thời gian dài với những thăng trầm biến đổi, bao nhiêu rong rêu lũ dữ cũng đã chảy hết xuống sông ra biển. Giờ chỉ xin ghi lại một vài bài tiêu biểu:CHÂN DUNG TỰ HỌA
Cha tôi còn, nhưng người theo kháng chiến
Phung phí một đời cho ảo tưởng hôm qua
Sống, chết đến nay, tôi không còn biếtDư ảnh lu mờ, kỷ niệm phôi pha.
Từ cha tôi lên đường kháng chiến
Mẹ tôi về lo việc bán buôn
Mang tuổi thơ, tôi đã biết buồn
Không lúc cười, dù hoạt kê trước mặt
Mắt không vui, dù đời không buộc chặt
Tôi ngủ nhoài vào vùng lớn suy tư
Mang niềm đau nhược tiểu ưu tư
Tôi chối từ mọi tơ vương vị ngã
Đi vào đời bằng Tân nhân bản
Xin kéo cờ các ngõ hồn nhân dân
Tung hô tình thương, suy tôn thánh thần
Danh sáng yêu thương, khai hoa nở nhụy
Cho cuộc đời tròn thêm nghĩa lý
Cho bom đạn xâm lăng, bi kịch kéo màn
Bắc lại nhip cầu, san bằng lòng huyệt
Cho người người yêu nhau da diết
Đến khi chết
Xin làm cây cổ thụ
Đứng giữa đất trời
Cười với thiên nhiên.
BẢN CÁO TRẠNG
Tuổi trẻ hậu chiến
Loài ác điểu cướp mất
Chừ lớn lên
Mất bản tính con người.
Chúng tôi lớn lên
Ngôn ngữ phát âm
Là tiếng kêu kim khí
Con chim họa mi không hót lời thanh xưa
Con chim đại bàng không lời oang oắc.
Rừng cây danh từ bạc màu biến sắc
Khuynh hướng nhân bản lệch lạc từ đầu
Tầm tay chúng tôi, chừ nay yếu đuối
Trước lưởi lê quân thù
Chúng nó tiến hậu tả hữu
Phi lý chúng ta đơn côi kéo dài
Hỡi thợ thuyền, lao động, sinh viên
Những bàn tay xây nền mới
Hãy kết lên, Vạn lý thành
Vẻ vang phải trở lại
Lịch sử đất nước này
Bất khuất dòng Lệ Lợi
Việt nam, muôn năm đây
Anh hùng Nguyễn thái Học
Tạ thu Thâu, Trần Cao Vân
Các anh là thần thánh
Thành tự do muôn năm
Việt nam muôn năm
Việt nam muôn năm
Sương Biên Thùy
(1961)
Khi Sương Biên Thùy đang “làm mưa làm gió” ở trường Võ Tánh thì tôi đã bỏ thành phố biển vào Sài gòn, rồi chẳng thuộc dòng hào kiệt gì đâu tôi cũng phải “xếp bút nghiên theo việc kiếm cung”. Được bổ nhậm về một đơn vị tác chiến lưu động tận vùng núi rừng Hoàng Triều Cương Thổ, năm tháng cùng đồng đội miệt mài với chiến trường, súng đạn. Mãi bốn năm sau cả đại đơn vỉ chuyển xuống đặt bản doanh tại Sông Mao, thành phố Nùng, nơi có ông lính ĐPQ, nhà thơ Nguyễn Bắc Sơn dám qua mặt bọn tôi hô hào: “Mai ta đụng trận ta còn sống/ Về ghé Sông Mao phá phách chơi/ Chia sớt nỗi buồn cùng gái điếm/ Vung tiền mua vội một ngày vui”.
Tôi từng dẫn quân dẫm nát Mật Khu Lê Hồng Phong, từng bị thương và cũng từng: “Đêm nằm ngủ võng trên đồi cát /Nghe súng rừng xa nổ cắc cù /Chợt thấy trong lòng mình bát ngát/ Nỗi buồn sương khói của mùa thu”, nhưng không có cơ hội nào tao ngộ với ông thiếu úy Chiến tranh Chính trị (CTCT) Lê Văn Chính, để nhìn mặt Sương Biên Thùy bấy giờ dễ ghét đến đâu. Bởi vì sau khi toàn bộ đại đơn vị tôi di chuyển lên Kontum vào Mùa Hè Đỏ Lửa, chặn Cộng quân từ Dakto tràn xuống, ông quan một CTCT Lê Văn Chính mới về trình diện TK Bình Thuận, và làm mưa làm gió ở vùng Ma Lâm, Tà Dôn, Nora này. Chàng ta cũng không kịp gặp ông bạn nhà văn Y Uyên bị Việt Cộng phục kích bắn bị thương rồi đâm chết ngay bên ngoài căn cứ Nora? Nơi chính tôi có nhiều kỷ niệm, khi chỉ huy đại đội bảo vệ cho đơn vị Công Binh Chiến Đấu xây dựng căn cứ này để kịp cho một pháo đội Pháo Binh đến đồn trú, yểm trợ trực tiếp cho đơn vị tôi hành quân giải tỏa Mật khu Lê Hồng Phong (tháng 9/1966). Sau này khi nghe ông thiếu úy Lê Văn Chính dám đơn thân độc mã ra ứng cử dân biểu tại đơn vị Bình Thuận này, tôi còn sợ ông hơn cái thời ông dẹp sang một bên mấy nhà thơ đàn anh đàn chị ở Nha Trang: Duy Năng, Sao Trên Rừng, Cao Hoành Nhân, Thanh Nhung…ra mắt tập thơ “Nỗi Buồn Nhược Tiểu”. Mới là quan một mà ông dám “giỡn mặt” với ông đại tá tỉnh trưởng, từng là trưởng Phòng Nhì nổi tiếng của Quân Đoàn! Biết ông…ngông, nhưng tôi cũng phải ngã nón bái phục!
Rồi gãy súng, tan hàng, rồi tù đày, vượt biển… Hơn mấy chục năm sau, trôi dạt xứ người, bỗng đọc được những bài chính luận, bài thơ của ông Lê Mai Lĩnh nào đó. Những bài thơ khẩu khí, ngang tàng nhưng cũng đầy nhân bản, lãng mạn. Tôi buột miệng: Lại thêm một ông Quảng Trị nữa! Bởi cái tên Mai Lĩnh, cùng với Triệu Phong, Gio Linh, Đông Hà…luôn làm tôi nhớ tới những địa danh đẫm máu của vùng giới tuyến Quảng Trị ngày nào, nơi có biết bao đồng đội của tôi đã ngã xuống và dưới đáy sông Thạch Hãn vẫn còn xương cốt của hàng vạn những người trai trẻ ở phía bên kia!
Khi ấy tôi đâu có biết Lê Mai Lĩnh chính là hóa thân từ Sương Biên Thùy của Võ Tánh ngày xưa, nên một lần nữa tôi lại ngán thêm một ông nhà thơ Quảng Trị. Ưa triết lý trong những cơn say và tự nhận mình là “khùng thi sĩ” mà yêu nước (và yêu cả giai nhân) nồng nàn chẳng kém thua ai:
Ký tên dưới đây là tôi
Lê Mai Lĩnh
Thi sĩ
Yêu quê hương như yêu chính bản thân mình
Và Tổ quốc, trong trái tim tôi hằng đêm thao thức
Bụi và lãng mạn
Thêm một chút khùng
Khi trái trời đổi gió biến thành điên
Có máu hiệp sĩ
Thích trừ gian diệt bạo
(Bản cáo trạng…)
Ở trong tù mà dám viết thư chất vấn Tổng Bí Thư Đảng, chửi cả Hồ Chí Minh và lên án chế độ:
Cha tôi là Lê Văn Thông,
Từ người kháng chiến yêu nước trước năm 75
Biết nói tiếng Pháp như gió
Sau trở thành đảng viên CS, chỉ biết cầm súng cắc –bụp-xòe
Giờ đã 80, nằm một chỗ chửi ông
và tập đoàn lãnh đạo đảng cộng sản Việt nam
Bởi theo các ông mà thân tàn ma dại
…
Thêm một điều tôi muốn nói với ông
Là, hiện nay nhân dân đang nguyền rủa ông quá đỗi.
Họ nguyền rủa ông làm tay sai cho CS Quốc Tế
Đem chủ nghĩa phi nhân, ngoại lai về giết hại dân lành
Họ nguyền rủa ông đã bần cùng hóa nhân dân
Đưa dân tộc vào tận cùng rách nát.
(Bản cáo trạng…)
Trông lên thấy cờ đỏ chói chang
Biểu ngữ, huy chương nghĩa chữ mập mờ
Ngó xuống, thấy dân đời điêu đứng
Máu đỏ, thây phơi hàng nối hàng
(Thời đại Hồ Chí Minh)
Và Lê Mai Lĩnh cũng đa tình, lãng mạn không ai bằng:
Nửa trái tim tôi em cất giữ từ lâu
Nhớ cẩn thận đừng để rơi để rớt
Tôi sống được, nhờ nửa trái tim đó
Em để mất tiêu, là đời tôi mất tiêu.
(Hãy giữ giùm nửa trái tim khú đế)
Hơn 60 năm tìm lại được cô láng giềng
Mừng khắp khởi, hạnh phúc đếm từng giây từng phút
Đêm đêm ôm nỗi nhớ cô với lòng trai chết điếng
Cô láng giềng nằm bên ngoan như con mèo con
…
Ngăn tim tôi cũng là lâu đài tình ái
Những gì cô muốn không thiếu một chi
Tôi, thi sĩ, nào đâu dám để cô thiếu thốn
Hễ thấy cô buồn, là tim tôi héo hon.
(Buồn cô láng giềng)
Mỗi sáng mai, lời chào gởi em như thường lệ
Là một bài thơ tỏ tình như thuở mới đôi mươi
Thuở cùng nhau đến trường ngày hai buổi
Em bên kia, anh lẽo đẽo bên này
(Mỗi sáng mai)
70 tuổi thấy mình còn sung độ
Cơm ba bữa, quà vợ tháng ba lần
Gạo lức, muối mè, thiền và thơ
Cứ tàn tàn, có tháng vượt chỉ tiêu.
(Khai bút đầu năm)
Dù hết lòng yêu nước, thủy chung với đồng đội bạn bè cùng “những giai nhân”, nhưng cuộc đời Lê Mai Lĩnh cũng đã có lúc không tránh khỏi phong ba dông bão:
Một mùa dông bão đã đi qua
Dông bão ngoài trời, dông bão trong lòng
Ta đi trong tả tơi rách nát
Rách nát gia đình, rách nát tình yêu
Tả tơi cuộc đời, tả tơi nhân thế
(Bão ngoài trời, bão trong lòng)
Thôi thì, phải có tơi tả thì cuộc đời mới có tròn ý nghĩa, thi vị, để thi nhân còn khóc gió thương mây, viết nên những vần thơ tuyệt tác bằng những gió mưa được thổi ra từ chính trái tim mình.
Tôi là người may mắn được đọc thơ Sương Biên Thùy khi anh còn là người bạn đồng môn ở tuổi 16, 17 và sau này lại được đọc thơ Lê Mai Lĩnh với tuổi 80. Nếu thơ là tiếng lòng, thì Lê Mai Lĩnh đã thực sự trang trải hết lòng mình với quê hương đất nước và bè bạn, tha nhân. Với một phong thái ngay thẳng bộc trực có chút ngang tàng cùng những vần thơ khí khái, lãng mạn, đa tình, anh đã để lại trong tôi niềm mếm mộ.
Viết mấy dòng này, ngoài tình bạn đồng môn, còn với tấm long “tằm trả nghĩa dâu”, ghi lại chút tình thanh khí, niềm đồng cảm giữa người yêu thơ và thi nhân đất Quảng (Trị), vùng địa đầu một thời mịt mờ lửa đạn.
Tháng 5/ 2023
Phạm Tín An Ninh
No comments:
Post a Comment