3- PHẢN LỰC CƠ F-5 FREEDOM FIGHTER
* Phi Đoàn 522 “Thần Ưng”
Vào giữa năm 1966, 33 hoa tiêu khu trục trong KLVNCH đã được tuyển chọn để gửi sang Hoa Kỳ xuyên huấn trên phản lực cơ siêu thanh F-5.
Ưu tiên một được dành cho các hoa tiêu của Biệt Đội 615 oanh tạc (B-57) mới bị giải thể, và ba người đã được tuyển chọn:
- Đại úy Lê Xuân Lan
- Đại úy Nguyễn Hữu Hoài
- Trung úy Đàm Thượng Vũ
Kế đến là những hoa tiêu được đề nghị và tuyển chọn từ các phi đoàn khu trục cánh quạt A-1, mỗi phi đoàn một phi tuần trưởng và ba phi tuần viên.
Phi đoàn 514 (Phượng Hoàng):
- Thiếu úy Lê Như Hoàn
- Thiếu úy Thăng Quốc Phan
- Thiếu úy Nguyễn Trí Kiên
- Thiếu úy Trịnh Hữu Trí
Phi đoàn 516 (Phi Hổ):
- Trung úy Phạm Quang Điềm
- Thiếu úy Nguyễn Văn Ghi
- Thiếu úy Vũ Viết Quý
- Thiếu úy Mạc Đức Ninh
Phi đoàn 518 (Phi Long):
- Thiếu úy Phạm Đình Anh
- Thiếu úy Nguyễn Quang Vinh
- Thiếu úy Nguyễn Xuân Dũng
- Thiếu úy Võ Anh Tài
Phi đoàn 520 (Thần báo):
- Thiếu úy Trịnh Bửu Quang
- Thiếu úy Nguyễn Đạm Thuyên
- Thiếu úy Trương Công Chánh
- Thiếu úy Nguyễn Thành Tri
Phi đoàn 522:
- Thiếu úy Lê My
- Thiếu úy Nguyễn Quốc Trị
- Thiếu úy Lê Hải
- Thiếu úy Vũ Ngô Dũng
Phi đoàn 524 (Thiên Lôi ):
- Thiếu úy Nguyễn Văn Tường
- Thiếu úy Nguyễn Anh Tăng
- Thiếu úy Nguyễn Văn Cổn
- Thiếu úy Đào Văn Lập
Ngoài ra còn có một số phi công được Bộ Tư lệnh KQ chọn trực tiếp theo đề nghị của Thiếu tá Võ Văn Sĩ, trưởng toán đi xuyên huấn, gồm:
- Đại úy Nguyễn Quốc Phiên
- Trung úy Lưu Tùng Cương
- Trung úy Nguyễn Thành Dũng
- Trung úy Nguyễn Văn Vui
Cùng với Đại úy Nguyễn Quốc Hưng, vừa mãn nhiệm Sĩ quan liên lạc Không Quân tại Căn cứ Lackland, người sau này sẽ giữ chức vụ Phi đoàn trưởng đầu tiên của Phi Đoàn.
Vì tất cả đều là những phi công khu trục dày dạn kinh nghiệm chiến trường, việc xuyên huấn không gặp trở ngại nào đáng kể. Mỗi khóa học kéo dài từ ba tháng rưỡi tới bốn tháng, sau 88 giờ học bay phản lực siêu thanh trên phi cơ huấn luyện T-38 Talon, các sĩ quan khóa sinh được thực tập trên chiến đấu cơ F-5A. Ngày 11 tháng 4 năm 1967, các hoa tiêu tốt nghiệp khóa xuyên huấn đầu tiên trở về Việt Nam.
Trong số 33 phi công của khóa, chỉ có hai người không tốt nghiệp (vì lý do sức khỏe), và trong số tốt nghiệp, có bốn hoa tiêu đoạt các giải xuất sắc, gồm Trung úy Nguyễn Đạm Thuyên với giải tác xạ chính xác (Top Gun trophy), Trung úy Nguyễn Thành Dũng, Thiếu úy Nguyễn Văn Ghi và Trung úy Trương Công Chánh với các giải tốt nghiệp ưu hạng (Academic trophies).
Trước đó, vào tháng 9/1966, một số chuyên viên kỹ thuật đã được gửi sang CCKQ Clark ở Phi-luật-tân để học bảo trì F-5. Trở về nước, các hoa tiêu và nhân viên kỹ thuật VN đã tới làm việc tại Phi Đoàn 10 Cảm Tử của Hoa Kỳ để chuẩn bị cho công việc chuyển giao. Trong thời gian này, mặc dù chưa chính thức tiếp nhận phi cơ, các phi công VN cũng đã thực hiện một số phi vụ tác chiến trên F-5.
Về tổ chức nhân sự của phi đoàn phản lực F-5 đầu tiên của KLVNCH, trong số 31 phi công đầu tiên tốt nghiệp F-5, Thiếu tá Võ Văn Sĩ trở lại chức vụ cũ tại Không Đoàn 23 Chiến Thuật, Đại úy Nguyễn Hữu Hoài và Trung Úy Lưu Tùng Cương trở về Liên Đoàn 23 Tác Chiến, Đại Úy Lê Xuân Lan về Bộ Tư Lệnh KQ, còn lại 27 phi công về Phi Đoàn 522.
Lễ chuyển giao 20 chiến đấu cơ F-5 Freedom Fighter của Hoa Kỳ cho VNCH tại căn cứ KQ Biên Hòa
Ngày 1/6/1967, trong một buổi lễ trọng thể tại CCKQ Biên Hòa với sự hiện diện của Đại sứ Hoa Kỳ, 20 chiếc F-5 (có tài liệu ghi 19 chiếc, gồm 17 F-5A và hai F-5B) được Phi Đoàn 10 Cảm Tử của Hoa Kỳ chính thức chuyển giao cho phía VN, đánh dấu ngày thành lập Phi Đoàn 522 “Thần Ưng”, trực thuộc Liên Đoàn 23 Tác Chiến, Không Đoàn 23 Chiến Thuật (Biên Hòa).
Thế là đúng 11 năm sau ngày những “quan tài bay” F8F Bearcat từ Vũng Tàu bay về đáp xuống Biên Hòa, đánh dấu ngày thành lập Phi Đoàn 1 Khu Trục (1/6/1956), KQVN đã bước sang kỷ nguyên phản lực siêu thanh.
Ban chỉ huy đầu tiên của Phi đoàn 522 Thần Ưng gồm:
- Phi đoàn trưởng: Đại úy Nguyễn Quốc Hưng (được thăng cấp Thiếu tá vào ngày thành lập phi đoàn)
- Phi đoàn phó: Đại úy Nguyễn Quốc Phiên
- Trưởng phòng Hành Quân: Đại úy Đàm Thượng Vũ
- Sĩ quan Phụ tá Hành Quân: Trung úy Phạm Quang Điềm
- Phi đội trưởng Phi Đội 1: Trung úy Nguyễn Thành Dũng
- Phi đội trưởng Phi Đội 2 kiêm SQ An Phi: Trung úy Phạm Đình Anh
- Phi đội trưởng Phi Đội 3 kiêm SQ Huấn Luyện: Trung úy Nguyễn Văn Tường
- Phi đội trưởng Phi Đội 4: Trung úy Trịnh Bửu Quang
Và các phi công:
- Trương Công Chánh
- Trịnh Thành Châu
- Nguyễn Văn Cổn
- Nguyễn Xuân Dũng
- Vũ Ngô Dũng
- Nguyễn Văn Ghi
- Lê Hải
- Nguyễn Trí Kiên
- Đào Văn Lập
- Lê My
- Mạc Đức Ninh
- Thăng Quốc Phan
- Vũ Viết Quý
- Võ Anh Tài
- Nguyễn Anh Tăng
- Nguyễn Đạm Thuyên
- Nguyễn Thành Tri
- Nguyễn Quốc Trị
- Trịnh Hữu Trí
- Nguyễn Quang Vinh
[Các đời phi đoàn trưởng kế tiếp của PĐ-522 lần lượt là: Thiếu tá Đàm Thượng Vũ (1970), Thiếu tá Nguyễn Thành Dũng (1972), và Thiếu tá Nguyễn Đình Lộc, 1973]
Ngay sau đó, các phi cơ F-5 đã được phân bố tới một số căn cứ có khả năng tiếp nhận phản lực cơ với hai mục đích: yểm trợ chiến trường và... biểu dương lực lượng!
F-5 rất được phi công VN ưa thích vì khả năng thao tác và dễ điều khiển. Có thể nói, sau khi được trao cho các phi công của PĐ-522, chiếc F-5 mới chứng tỏ được sự hữu hiệu và thi thố mọi khả năng của nó tới mức tối đa.
VNAF F-5 Freedom Fighter
Dù rất ít kinh nghiệm bay phản lực, các phi công VN có thể tấn công mục tiêu với một độ chính xác gần như tuyệt đối nhờ hệ thống điều khiển tối tân nhưng đơn giản. Đối với các chuyên viên kỹ thuật VN, F-5 cũng được xem là loại phi cơ tương đối dễ bảo trì nhất.
Nói chung, về cả mặt tuyên truyền lẫn chiến đấu, việc được trang bị chiến đấu cơ phản lực siêu thanh F-5 đã đưa KLVNCH bước vào một kỷ nguyên mới. PĐ-522 Thần Ưng trở thành biểu tượng sáng giá nhất của quân chủng.
Trong tháng đầu tiên chính thức hoạt động (tháng 6/1967), phi đoàn đã thực hiện 388 phi xuất với 443 giờ bay; sang tháng 7, lên 436 phi xuất với 477 giờ bay. Tới tháng 12, số phi xuất đã lên tới 527 với 556 giờ bay. So với tiêu chuẩn của Không Lực Hoa Kỳ thì con số nói trên được mô tả là vượt mức quá xa! Sau này, các hoa tiêu F-5 của KQVN cũng là những phi công đầu tiên trên thế giới được hãng Northrop trao bằng tưởng lệ “1000 giờ bay trên F-5”.
Rất tiếc, việc chuyển giao phi cơ cho phi đoàn F-5 thứ hai đã không được tiến hành ngay sau đó mà phải đợi tới 5 năm sau (1972), khi Hoa Kỳ đã rút khỏi VN và trao toàn bộ trách nhiệm yểm trợ chiến trường cũng như bảo vệ không phận lại cho KQVN.
Nguyên nhân của sự chậm trễ này, theo phía Hoa Kỳ, là cần phải cải tiến hệ thống vũ khí tấn công các mục tiêu diện địa.
Sau này người ta được biết những chiếc F-5 đầu tiên được đưa sang thử nghiệm tại chiến trường VN (Operation Skoshi Tiger), đã không thực sự “hoàn hảo” như trong bản lượng giá của các phi công Phi Đoàn 10 Cảm Tử, mà các “Cọp Con” cũng có ít nhất hai khuyết điểm sau đây:
(1) Trong một số trường hợp, bom dưới cánh khi thả đã bị kẹt lại, giống như trường hợp chiếc F-4 Phantom II.
(2) Khi tác xạ bằng đại bác 20 ly ở hai bên mũi phi cơ, khói của thuốc súng tỏa ra đã che khuất tầm nhìn của phi công, một khuyết điểm tuy không đáng ngại đối với các oanh tạc cơ B-26 chậm chạp của thời Đệ Nhị Thế Chiến nhưng với một chiến đấu cơ siêu thanh như F-5 thì rất nguy hiểm, nhất là khi đang chúi xuống đất.
Trở lại với chương trình hiện đại hóa KLVNCH, phải đợi hơn 5 năm sau ngày phi đoàn đầu tiên trang bị phản lực cơ siêu thanh F-5 được chính thức thành lập (PĐ-522), mãi tới cuối năm 1972, phía VN mới có thêm, không phải một mà tới năm phi đoàn F-5; việc tăng cường ồ ạt này nằm trong dự án Tăng Cường (Enhance) của chương trình “Việt Nam hóa”.
Trước đó, phía VN đã căn cứ vào những thỏa thuận giữa đôi bên tại hội nghị thượng đỉnh Mỹ-Việt ở Midway (giữa TT Nixon và TT Nguyễn Văn Thiệu) để yêu cầu Hoa Kỳ chuyển giao ba phi đoàn phản lực F-4 Phantom II đóng tại Đà Nẵng, tuy nhiên Hoa Kỳ đã từ chối và cho biết trước khi Không Lực Hoa Kỳ rút đi hết để trao lại toàn bộ trách nhiệm bảo vệ không phận cho phía VN, KQVN sẽ được trang bị F-5E Tiger II, là loại có khả năng không chiến tương đương với MiG-21 - chiến đấu cơ tối tân nhất của Không Quân Bắc Việt lúc bấy giờ.
Về hình dáng, F-5E giống F-5A tới 95% (chỉ dài hơn 1.5m, sải cánh rộng hơn 7cm, đuôi cao hơn 10cm), kể cả khi đậu dưới đất cũng chỉ có các phi công và nhân viên bảo trì mới có thể phân biệt.
Về trang bị căn bản và khả năng, F-5E cũng không mấy khác F-5A; lượng bom đạn trang bị chỉ hơn 800 lbs.
Nhưng đó chỉ là “bề ngoài”, còn “bên trong” đã có rất nhiều cải tiến với mục đích biến F-5 thành một chiến đấu cơ có khả năng không chiến khả dĩ đương cự được với MiG-21.
Trước hết, F-5E được trang bị hai động cơ mạnh hơn 25% để đạt được thăng tốc 8.750m/phút, và tốc độ tối đa Mach 1.6 (so với Mach 1.4 của F-5A).
Kế đến là hệ thống ra-đa tối tân Emerson Electric APQ-153 (loại trang bị trên F-4C Phantom II), khả năng thả bom theo hệ thống hướng dẫn BOBS, trang bị hỏa tiễn không-đối-không AIM-9 Sidewinder đời mới nhất và các trang bị điện tử để hoạt trong mọi điều kiện thời tiết, bất kể ngày đêm.
Ngoài ra, các cánh tăng nâng (flaps) cũng được cải tiến để gia tăng khả năng thao tác (manoeuvre) trong không chiến. Theo các chuyên gia về không chiến của Hoa Kỳ, F-5E chắc chắn ăn đứt MiG-17 và ngang ngửa với MiG-21. Từ khi KQVN nhận được F-5E, tại Biên Hòa và Đà Nẵng luôn luôn có hai chiếc ứng trực ở đầu phi đạo, sẵn sàng cất cánh để nghênh cản phi cơ địch.
Tuy nhiên, vì vào năm 1972 kiểu F-5E còn đang được thử nghiệm, Hoa Kỳ đã tạm thời chuyển giao F-5A cho VN, khi nào có F-5E thì sẽ “một đổi một”. Vì không có đủ số F-5A (và B), Hoa Kỳ đã phải mượn tạm một số của các không lực Nam Hàn, Đài Loan và Iran (lúc đó còn là đồng minh của Hoa Kỳ) để kịp chuyển giao cho KQVN trước thời hạn ngưng viện trợ vũ khí, chiến cụ (ngày 10/11/1972) theo Hiệp Định Paris.
Trong hai dự án Tăng Cường (Enhance) và Tăng Cường Thêm (Enhance Plus), tổng cộng 118 chiếc F-5 sau khi tháo gỡ cánh đã được các vận tải cơ khổng lồ C-5A Galaxy chở tới Biên Hòa, trang bị cho năm phi đoàn tân lập, gồm có:
Bốn phi đoàn đặt căn cứ tại Biên Hòa (nơi đã có sẵn Phi Đoàn 522 Thần Ưng), gồm:
- PĐ-536 Thiên Ưng (phi đoàn trưởng đầu tiên: Thiếu tá Đàm Thượng Vũ)
- PĐ-540 Hắc Ưng (Thiếu tá Nguyễn Tiến Thành)
- PĐ-542 Kim Ưng (Thiếu tá Trịnh Bửu Quang)
- PĐ-544 Hải Ưng (Thiếu tá Nguyễn Văn Tường)
Một phi đoàn đặt căn cứ tại Đà Nẵng để nghênh cản trong trường hợp các MiG của CSBV xâm nhập từ hướng bắc: Phi Đoàn 538 Hồng Tiễn, phi đoàn trưởng: Thiếu tá Phạm Đình Anh.
Trừ Phi Đoàn 538 trực thuộc Không Đoàn 61 Chiến Thuật, SĐ1KQ, tất cả các phi đoàn F-5 còn lại đều trực thuộc Không Đoàn 63 Chiến Thuật, SĐ3KQ, cho nên Không Đoàn này thường được gọi là “Không Đoàn F-5”. Không đoàn trưởng: Đại tá Võ Văn Sĩ – nguyên trưởng toán đi xuyên huấn F-5 trước kia.
Vào những tháng cuối năm 1973, đầu 1974, các phi cơ F-5E Tiger II được chuyển giao (một đổi một) cho KQVN, các F-5A “mượn tạm” của Nam Hàn, Đài Loan và Iran được hoàn trả cho chủ cũ.
Theo ký ức của một vị sĩ quan từng phục vụ tại Khối Đặc Trách Khu Trục BTL/KQ, ngày ấy đã có kế hoạch thành lập hai phi đoàn sử dụng F-4 Phantom II và sáu phi đoàn sử dụng A-10 Thunderbolt cho KQVN.
Chương trình F-4 sẽ khởi sự thực hiện vào tháng 7 năm 1975: một số hoa tiêu F-5 nhiều kinh nghiệm cùng với những hoa tiêu trẻ được gửi sang Hoa Kỳ để xuyên huấn trên F-4. Kế tiếp vào khoảng tháng 9/1975 sẽ lần lượt gửi các hoa tiêu A-37 sang Hoa Kỳ để được xuyên huấn trên A-10. Chương trình “hẫp dẫn” này đã có trên giấy mực. Rất tiếc, vận nước sớm suy vong!
Tính tới tháng 3/1974, sau khi nhận tám chiếc F-5E cuối cùng, KLVNCH có tổng cộng 153 phản lực cơ F-5, đưa tới tình trạng dở khóc dở cười là không đủ hoa tiêu để bay, cho nên có 36 chiếc đã không bao giờ được đem ra sử dụng!
Về số lượng F-5E chuyển giao cho KQVN, không có bất cứ tài liệu chính thức nào ghi lại. Chỉ biết theo dự án Tăng Cường Thêm, KQVN sẽ có ba phi đoàn trang bị F-5E; và theo báo cáo chính thức của Hoa Kỳ, trong số phi cơ bay sang Thái-lan vào những ngày cuối tháng 4/1975, có 22 F-5E.
4- PHẢN LỰC CƠ A-37 DRAGONFLY
Cessna A-37 “Dragonfly” là loại phi cơ phản lực tấn công diện địa (ground attack) hạng nhẹ, hai chỗ ngồi phía trước, để sử dụng trong chiến tranh chống phiến loạn (COIN: counter-insurgency), được biến cải từ phi cơ huấn luyện phản lực căn bản T-37C “Tweety Bird” của Không Quân Hoa Kỳ. (Chú thích 1)
A-37 được trang bị hai động cơ mạnh hơn gấp hai lần động cơ của T-37, độ cứng của hai cánh được tăng cường gấp bội, với tám rack bom dưới cánh, hai bình xăng phụ ở đầu cánh, một minigun 7 ly 62 sáu nòng ở mũi phi cơ. Khả năng mang bom đạn: 5.680 lbs (2.576 kg).
Vào tháng 5/1967, kiểu A-37A được bay thử tại căn cứ không quân England, Louisiana, trước khi trao cho Phi Đoàn 604 Cảm Tử (604th Air Commando Squadron) thử nghiệm tại chiến trường Việt Nam trong thời gian 4 tháng.
Cuối tháng 7/1967, chín chiếc A-37A đầu tiên (đã tháo gỡ cánh) được các vận tải cơ C-141 Starlifter chở tới Biên Hòa, sau đó lắp ráp lại. Trước sau, Phi Đoàn 604 đã nhận được tổng cộng 25 chiếc A-37A, đặt căn cứ tại Biên Hòa và Pleiku. Ngày 15/8/1967, các phi cơ A-37A xuất trận lần đầu tiên. Tính tới cuối tháng 9/1967, các phi công của Phi Đoàn 604 đã thực hiện được 1.673 phi xuất.
Mặc dù khả năng bị hạn chế về một số mặt (chẳng hạn tầm hoạt động), và những bất tiện, trở ngại không thể tránh khỏi khi được cải biến từ loại phi cơ huấn luyện với hai chỗ ngồi ngang ở phía trước (nhưng nay chỉ có một hoa tiêu điều khiển), phản lực cơ A-37A đã tỏ ra rất hữu hiệu trong chiến tranh chống du kích. Với vận tốc nhanh gấp đôi A-1 (khoảng 800km/giờ), khả năng chúi thẳng từ cao độ 2.000m (6000 feet) xuống để thả bom rồi vọt lên cao, khả năng cất cánh từ những phi đạo ngắn, thô sơ..., A-37 quả là loại phi cơ lý tưởng để thay thế A-1 trong nhiệm vụ yểm trợ bộ binh trên chiến trường.
USAF A-37A trong Dự án “Combat Dragon”
Vào thời gian này, việc chế tạo hàng loạt A-37 đã bắt đầu, và qua rút ưu khuyết điểm của dự án Combat Dragon, đã có những cải tiến cấp thời để phi cơ thêm hoàn hảo. Những chiếc A-37 xuất xưởng sau khi đã có sự cải tiến này được gọi là A-37B, có khả năng tiếp tế nhiên liệu trên không, và với hai động cơ mạnh hơn có thể tăng lên đến 6G, thay vì 5G như kiểu A-37A.
Vào thời gian dự án Combat Dragon đang tiến hành, 103 phi công Việt Nam thuộc ba phi đoàn khu trục 516 Phi Hổ, 520 Thần Báo và 524 Thiên Lôi đã được chỉ định tiếp nhận phản lực cơ A-37 để thay thế A-1.
Ngày 1/1/1968, phi đoàn đầu tiên trong số này là PĐ-524 ở Nha Trang được lệnh ngưng hoạt động để xuyên huấn trên A-37. Một tháng sau, toán đầu tiên gồm 18 phi công của phi đoàn được đưa sang căn cứ không quân England, Louisiana, học lái T-37.
Cessna T-37 "Tweet"
Tới tháng 5/1968, một toán huấn luyện lưu động của Hoa Kỳ đã tới Nha Trang để huấn luyện các chuyên viên bảo trì A-37. Trong thời gian chuyển tiếp này, 14 chiếc A-1 của PĐ-524 đã được phân phối cho các phi đoàn khác để bổ sung cho số phi cơ đã bị thiệt hại: ba chiếc cho PĐ-516 ngoài Đà Nẵng, 10 chiếc cho PĐ-518 tại Biên Hòa và một chiếc cho PĐ-520 ở Bình Thủy.
Tuy nhiên, công việc trang bị A-37 cho PĐ-524 đã bị đình trệ nhiều tháng trời do ảnh hưởng của các cuộc tấn công của Việt Cộng trong Tết Mậu Thân (1968). Vì thế mãi tới tháng 11/1968, KQVN mới nhận được những phi cơ đầu tiên, nguyên là những chiếc T-37 của Bộ Chỉ Huy Huấn Luyện Không Quân (ATC) Hoa Kỳ được cải biến thành A-37A.
Tháng 3/1969, các phi cơ A-37 của PĐ-524 bắt đầu xuất trận.
Ngày 19/4/1969, trong một buổi lễ long trọng dưới sự chủ tọa của Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu, sự hiện diện của Phó Tổng thống Nguyễn Cao Kỳ cùng nhiều viên chức cao cấp trong chính phủ, lễ bàn giao phi cơ và cũng là lễ xuất quân chính thức của PĐ-524 dưới quyền chỉ huy của Thiếu tá Đặng Duy Lạc đã được tổ chức tại CCKQ Nha Trang.
Về phần PĐ-520, vào khoảng cuối tháng 6/1968, nhóm phi công đầu tiên cũng được đưa sang căn cứ không quân England, Louisiana, để xuyên huấn A-37, và tốt nghiệp vào tháng 11 cùng năm. Tháng 3/1969, Phi Đoàn nhận được 5 chiếc A-37 đầu tiên từ Nha Trang.
A-37B của Phi Đoàn 520 “Thần Báo”
PĐ-516, phi đoàn A-37 thứ ba, bắt đầu được xuyên huấn vào tháng 9/1968 và mãn khóa vào tháng 3/1969.
Tới tháng 5/1969, KQVN tiếp nhận thêm 54 chiếc A-37B để lần lượt trang bị cho ba phi đoàn nói trên.
Chỉ một thời gian rất ngắn sau khi bay A-37, các phi công khu trục VN đã nhận ra đây là một loại phi cơ tuyệt vời, lại vừa vặn với kích thước của người Á đông. Dù chưa có nhiều kinh nghiệm bay trên A-37, các phi công đã thực hiện những phi vụ oanh tạc với mức chính xác ngoài dự tưởng (các phi công A-37 kinh nghiệm chỉ cần thả bom trật mục tiêu 20 mét là đủ “tự bất mãn”!)
Phấn khởi trước sự hữu hiệu của loại phản lực võ trang được mệnh danh là “nhỏ nhất thế giới”, các giới chức KQVN và KQHK đã nỗ lực tiến hành chương trình thay thế A-1 bằng A-37.
Sau khi việc thay thế A-1 cho ba phi đoàn 524, 520, 516 hoàn tất, trong thời gian từ cuối năm 1969 tới cuối năm 1970, đã có thêm 2 phi đoàn trang bị A-37 được thành lập là các Phi Đoàn 526 Quỷ Vương (Satan) và 528 Hổ Cáp.
Giữa năm 1971, nằm trong chương trình Việt Nam hóa, việc đào tạo các phi công mới đã được khởi sự tại căn cứ không quân Sheppard ở Wichita Falls, Texas. Sau 30 tiếng “vỡ lòng” trên phi cơ cánh quạt T-41 Mescalero, các khóa sinh được chuyển sang học lái T-37.
Tới cuối năm 1972, đã có thêm năm phi đoàn A-37 được thành lập gồm các Phi Đoàn 532 Gấu Đen, 534 Kim Ngưu, 546 Thiên Sứ, 548 Ó Đen, và 550 Nhện Đen.
Về số lượng phi cơ, tổng cộng trước sau KQVN đã nhận được 248 phản lực cơ A-37 (không kể 24 chiếc T-37 dùng vào việc huấn luyện của Phi Đoàn 920 thuộc TTHLKQ).
[Trong tổng số phi cơ A-37B được hãng Cessna chế tạo, KLVNCH đã chiếm tới 40%. Số còn lại bán cho các “không lực nhà nghèo” ở châu Mỹ La-tinh, gồm có Peru, Chí-lợi, Columbia, Ecuador, Uraguay, Honduras , Guatamala, El Salvador, và sử dụng trong Vệ Binh Quốc Gia (Air National Guard) và các đơn vị Không Quân Trừ Bị tại nội địa Hoa Kỳ]
Theo sơ đồ tổ chức cuối cùng của KQVN (tháng 7/1974), 10 phi đoàn phản lực A-37 được phân bổ như sau:
SĐ1KQ (Đà Nẵng):
- PĐ-516 Phi Hổ (PĐT đầu tiên: Thiếu tá Nguyễn Văn Vượng)
- PĐ-528 Hổ Cáp (Thiếu tá Cao Văn Khuyến)
- PĐ-550 Nhện Đen (Thiếu tá Lê Trai)
SĐ2KQ (Phan Rang):
- PĐ-524 Thiên Lôi (Thiếu tá Đặng Duy Lạc)
- PĐ-534 Kim Ngưu (Thiếu tá Nguyễn Văn Thi)
- PĐ-548 Ó Đen (Thiếu tá Trần Mạnh Khôi)
SĐ4KQ (Bình Thủy):
- PĐ-520 Thần Báo (Thiếu tá Phạm Quang Điềm)
- PĐ-526 Quỷ Vương (Thiếu tá Huỳnh Hữu Hải)
- PĐ-546 Thiên Sứ (Thiếu tá Lê Mộng Hoan)
SĐ6KQ (Phù Cát):
- PĐ-532 Gấu Đen (PĐT cuối cùng: Thiếu tá Lê Tuấn Đạt)
5- KHẢ NĂNG & THÀNH TÍCH:
* Phản lực cơ F-5:
Đang từ khu trục cơ cánh quạt A-1 Skyraider chuyển thẳng sang phản lực cơ siêu thanh F-5 phải được xem là một “bước nhảy vọt” trong thời gian chỉ có mấy tháng trời. Vậy mà chính những “cựu phi công cánh quạt” này – chứ không phải các phi công của Phi Đoàn 10 Khu Trục Cảm Tử (10th Fighter Commando Squadron) của Hoa Kỳ, đơn vị có nhiệm vụ thử nghiệm F-5 trên chiến trường Việt Nam – đã khiến F-5 trở nên nổi tiếng quốc tế.
Với ưu điểm can thiệp chiến trường mau lẹ nhờ vận tốc siêu thanh, F-5 được sử dụng tối đa vào việc oanh tạc các vị trí tập trung quân của địch, phá hủy các hệ thống tiếp liệu, hoặc tiêu diệt chiến xa, xe vận tải bằng rocket.
Về thành tích, ngoài những phi vụ thường nhật, F-5 đã được sử dụng tới mức tối đa trong cuộc phản công Tết Mậu Thân (1968), đạt số phi vụ kỷ lục với những thành tích đáng nể phục.
Tiếp theo là cuộc hành quân vượt biên Căm-bốt năm 1970, cuộc hành quân Lam Sơn 719 tiến đánh vùng Hạ Lào năm 1971, và Mùa Hè Đỏ Lửa 1972.
Một trong những mục đích của Hoa Kỳ trong việc trang bị F-5 cho KQVN là để bảo vệ không phận sau khi Không Quân Hoa Kỳ rút đi, vì thế sau khi Phi Đoàn 522 Thần Ưng được thành lập, một biệt đội F-5 của Phi Đoàn đã được đưa tới CCKQ Đà Nẵng để sẵn sàng nghênh cản trong trường hợp các phi cơ MiG của CSBV xâm nhập không phận từ hướng Bắc.
Tới cuối năm 1972, nằm trong dự án Tăng Cường (Enhance) của chương trình Việt Nam hóa, khi đã có thêm năm phi đoàn F-5 khác được lần lượt thành lập, nhiệm vụ bảo vệ không phận phía Bắc của Biệt Đội 522 đã được trao lại cho Phi Đoàn 538 Hồng Tiễn.
[Với nhiệm vụ chuyên biệt là bay lên nghênh cản phi cơ địch, Phi Đoàn 538 Hồng Tiễn là phi đoàn F-5 đầu tiên được trang bị F-5E Tiger II, và là cũng phi đoàn F-5 duy nhất không có chữ “Ưng” trong danh hiệu]
Theo lời một cựu phi công của Phi Đoàn 538, khi được lệnh báo động, phi đội ứng trực phải bay vút lên cao (scramble), sẵn sàng nghênh cản địch trong thời gian năm phút, nhưng trong đa số trường hợp, các “Hồng Tiễn” đã chỉ mất ba phút rưỡi!
Rất tiếc, cho tới ngày tàn cuộc chiến, tuy có vài lần các phi cơ MiG của CSBV từ hướng Bắc vượt vĩ tuyến 17 với tốc độ thật nhanh, nhưng khi các F-5E bay bên thì chúng đã bay mất sang không phận Lào, có lẽ các “Bạch Nhạn” của CSBV không muốn đọ sức với các “Hồng Tiễn” của VNCH.
Tới đầu năm 1974, lẽ ra các phi công F-5 trong KLVNCH đã thực hiện kế hoạch tấn công các chiến hạm Trung Cộng ở vùng biển Hoàng Sa, nhưng cuối cùng đã phải hủy bỏ vì “lệnh trên không cho đánh”.
Theo các cuộc phỏng vấn các nhân vật liên quan, trong đó có cựu Thiếu tá Hồ Kim Giàu, người từng giữ chức vụ “quyền Phi đoàn trưởng” PĐ-538 Hồng Tiễn, sau này người ta được biết vào sáng ngày 20/1/1974, lực lượng nói trên sẵn sàng lên đường nhưng tới trưa thì có lệnh từ phủ tổng thống hủy bỏ.
Về sau, các tài liệu lịch sử được bạch hóa cho biết ngày ấy “Đồng Minh” Hoa Kỳ không chỉ bật đèn xanh và làm ngơ cho Trung Cộng đánh chiếm Hoàng Sa của VNCH mà sau đó còn áp lực TT Nguyễn Văn Thiệu hủy bỏ cuộc tấn công trả đũa.
Đệ thất Hạm đội của Mỹ cho biết họ sẽ không giúp đỡ việc liên lạc trên tần số, sẽ không thông báo cho phía VN biết một khi ra-đa của họ phát hiện MiG của Trung Cộng cất cánh từ đảo Hải Nam (theo tình báo Mỹ, cứ mỗi 15 phút một phi tuần), và họ cũng sẽ không tham gia việc cứu vớt các phi công VNCH trong trường hợp bị bắn hạ phải nhảy dù xuống biển. (Chú thích 2)
* Phản lực cơ A-37:
Trong những năm sau cùng của cuộc chiến, A-37 đã trở thành nguồn hỏa lực chính yếu của KLVNCH, và không ai có thể phủ nhận những chú “chuồn chuồn” (Dragonfly) bé nhỏ này quả là loại phi cơ lý tưởng nhất để thay thế các chàng “thiên kích” (Skyraider) trong nhiệm vụ yểm trợ bộ binh trên chiến trường.
Trong bài “Người Khu Trục Việt Nam” tác giả Vân Đình viết:
Có những người KQ “đặt-tên-không-mấy-đẹp” (nghề của chàng) cho A-37, như là “Slow-jet”, hay là “Nòng-nọc-bay”, hay gì-gì đi nữa..., A-37 LÀ MỘT PHI-CƠ TỐT cho chiến-trường VN. Phi cơ dễ bay, dễ bảo trì, nhỏ bé trên cao độ (khó bắn), là một platform vững khi dive-bomb (nhờ hệ thống yaw-dumper) nên bomb thả rất chính xác...
Ngày 19/4/1969, sau buổi lễ xuất quân chính thức của PĐ 524, BTLKQ đã tổ chức buổi biểu diễn hỏa lực của AC-47 (PĐ-817 Hỏa Long) và giải thi đua tác xạ tại bãi biển Nha Trang giữa các loại phi cơ “fixed-wing”, gồm A-1H (PĐ-518 Phi Long), F-5 (PĐ-522 Thần Ưng), và A-37 (PĐ-520 Thần Báo, PĐ-524 Thiên Lôi), với kết quả như sau:
- A-37 của PĐ-520: đạt số điểm 214/240
- A-37 của PĐ-524: 162/240
- F-5 của PĐ-522: 156/240
Cũng nên biết, A-37 có khả năng bay một máy: để tiết kiệm nhiên liệu (gia tăng thời gian ở trên không), trong thời gian chờ đợi tấn công, hoa tiêu có thể tắt một máy tối đa 30 phút, sau khi mở máy lại kiểm soát nếu thấy tất cả đều bình thường có thể tắt máy kia trong khoảng thời gian tương tự.
Có thể viết, tương tự hai chiếc A-1 và F-5 trước đây, chỉ trên chiến trường Việt Nam và trong tay các phi công Việt Nam, A-37 mới chứng tỏ được sự hữu hiệu và khai triển mọi khả năng của nó tới mức tối đa.
Sau khi việc thay thế A-1 bằng A-37 cho ba phi đoàn đầu tiên (524, 520, 516) hoàn tất vào giữa năm 1969, hình ảnh của những “nòng-nọc-bay” đã trở thành niềm tin cho quân bạn và nỗi kinh hoàng cho quân địch. Nhờ khả năng tiếp ứng mau lẹ, không một vùng đất nào của Vùng 1 Chiến Thuật vắng bóng các Phi Hổ (516), không núi rừng nào của Vùng 2 Chiến Thuật không có các Thiên Lôi (524), về phần các Thần Báo (520), tiếng là đồn trú tại Vùng 4 Chiến Thuật nhưng địa bàn hoạt động chính của họ lại là Vùng 3 Chiến Thuật, vì vào khoảng thời gian này, tình hình chiến sự ở Vùng 4 chưa mấy sôi động, trong khi ở Biên Hòa và Tân Sơn Nhất không có A-37.
* * *
Năm 1971, lực lượng A-37 đã đóng vai trò không yểm chính yếu trong cuộc Hành quân Lam Sơn 719, tiến đánh các đơn vị chính quy của CSBV trên lãnh thổ Lào.
Lực lượng địch gồm khoảng 31.000 bộ đội và 1.800 xe vận tải được CSBV đem sang Hạ Lào, chuẩn bị mở một cuộc tấn công lớn vào miền Nam trong mùa khô. Để đoạt thế thượng phong, Bộ Tổng tham mưu QLVNCH đã quyết định tấn công trước với cuộc hành quân vượt biên quy mô mang tên Lam Sơn 719.
Lực lượng của KQVN tham gia cuộc hành quân này gồm SĐ1KQ và một phần của SĐ2KQ, chủ yếu là phản lực A-37 và trực thăng UH-1.
Khác với cuộc hành quân vượt biên Căm-bốt gần một năm trước đó, lần này các phi cơ của KQVN đã phải đối đầu với hỏa lực phòng không tối tân, hùng hậu chưa từng thấy, gồm hỏa tiễn SAM, SA-7, đại bác phòng không 57 ly điều khiển bằng ra-đa... Theo sự mô tả của các phi công Mỹ từng tham chiến trên bầu trời Bắc Việt, hỏa lực phòng không của địch tại Hạ Lào không thua gì ngoài Bắc!
Nhưng các phi công Việt Nam đã không chùn bước trước những hiểm nguy, khó khăn đó. Trong bốn tuần lễ đầu tiên của cuộc hành quân, các phi công phản lực A-37 của hai phi đoàn 516 Phi Hổ (SĐ1KQ) và 524 Thiên Lôi (SĐ2KQ) đã bỏ xa các phi công Mỹ về cả tổng số phi xuất lẫn giờ bay cá nhân. Đa số chiến xa địch bị tiêu diệt là thành tích của các phi công A-37.
Rồi tới Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, bất chấp cái chết trước mắt khi trở thành mồi ngon cho hỏa tiễn SA-7 và các loại phòng không tối tân của địch, các phi công A-37, cùng với các phi công A-1, F-5, trực thăng võ trang đã anh dũng thi hành mọi phi vụ yểm trợ chiến trường.
Tại Vùng 1 Chiến Thuật, lực lượng A-37, A-1, F-5 đã góp công đầu trong việc tái chiếm Quảng Trị.
Tại vùng 2 Chiến Thuật, trong cao điểm cuộc công hãm tỉnh lỵ Kontum của quân CSBV, mỗi ngày các phi công A-1, A-37 đã thực hiện trên 150 phi xuất yểm trợ tiếp cận.
Kết quả, cả ba mưu đồ của CSBV trong Mùa Hè Đỏ Lửa - cắt đứt hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên ra khỏi lãnh thổ VNCH, đánh chiếm tỉnh lỵ Kontum, đánh chiếm quận lỵ An Lộc – đã thất bại một cách thê thảm.
6- NGÀY TÀN CUỘC CHIẾN
Ngày 27/1/1973, một hiệp định được gọi là “ngừng bắn và tái lập hòa bình” đã được bốn phía Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng Hòa, Cộng Sản Bắc Việt, và Việt Cộng trong Nam (Mặt Trận Giải Phóng) ký kết tại Paris, với các điều khoản hoàn toàn thất lợi cho phía VNCH.
Thực ra, nếu tính đầu người, vào thời gian ký kết Hiệp định Paris, so sánh lực lượng bộ binh thì quân số của đôi bên ngang ngửa, nhưng vì phải phòng thủ tới ¾ lãnh thổ miền Nam, lực lượng VNCH đã bị phân tán mỏng. Từ đó, ưu thế của miền Nam tùy thuộc phần lớn vào Không Quân.
Về phần KLVNCH, sau khi nhận được F-5E Tiger II sẽ có đủ khả năng bảo vệ không phận và yểm trợ chiến trường miền Nam, với hai điều kiện: CSBV không vi phạm Hiệp định Paris, và Hoa Kỳ duy trì viện trợ quân sự (phụ tùng phi cơ, nhiên liệu, bom đạn...)
Thế nhưng ngay sau khi đặt bút ký vào bản Hiệp Định, CSBV đã bắt đầu tiến hành cuộc xâm lược miền Nam, và tới tháng 7/1973, sau khi được Quốc Hội Mỹ bật đèn xanh với Tu chính Cooper-Church (cấm các lực lượng Hoa Kỳ, trong đó có Không Quân, tham chiến tại 3 quốc gia Đông Dương), Hà Nội đã công khai tuyên bố nhiệm vụ của miền Bắc là “giải phóng miền Nam để tiến tới thống nhất đất nước”.
Về phía Hoa Kỳ, Quốc Hội Mỹ do các thế lực phản chiến lũng đoạn, đã cắt giảm viện trợ 1.6 tỷ Mỹ kim trong tài khóa 1973-1974 do Chính phủ Nixon đề nghị xuống còn 700 triệu. Số tiền này còn bị khấu trừ 220 triệu là giá thành của 100 chiến đấu cơ F-5 dự trù chuyển giao, vị chi chỉ còn lại 480 triệu cho cả QLVNCH, trong khi viện trợ của Liên Xô và Trung Cộng cho CSBV đã lên tới mức cao nhất trong suốt chiều dài cuộc chiến.
Hậu cứ miền Bắc đã được (Hiệp định Paris) bảo đảm không còn sợ bị phi cơ Hoa Kỳ oanh tạc, nên toàn bộ hỏa tiễn SAM và các loại súng phòng không tối tân, các dàn ra-đa hướng dẫn đã được di chuyển vào Nam để đối phó với phi cơ của KLVNCH.
Cũng cần nhấn mạnh, tất cả mọi loại phi cơ do KQVN sử dụng đều không được trang bị hệ thống điện tử chống ra-đa địch (ECM: electronic counter-measures) như các chiến đấu cơ của Hoa Kỳ, vì thế khi hoạt động tại những vùng do địch kiểm soát, rất dễ dàng trở thành mục tiêu cho hỏa tiễn SAM và các loại cao xạ hướng dẫn bằng ra-đa.
Bên cạnh đó, CSVN còn được khối Cộng trang bị loại vũ khí phòng không cá nhân mới nhất, tối tân nhất, hữu hiệu nhất lúc bấy giờ là hỏa tiễn tầm nhiệt SA-7.
Nguyên nhân đưa tới việc Liên Xô nghiên cứu chế tạo và viện trợ SA-7 cho CSVN chính là sự hữu hiệu của KLVNCH trong công tác yểm trợ chiến trường. Trong báo cáo gửi về cho thượng cấp, các chuyên viên về phòng không của VC trong Nam cho biết khó khăn của họ là khi phi cơ (của VNCH) bay trên cao làm nhiệm vụ oanh tạc thì đại bác phòng không 37 ly bắn không tới (lúc đó VC trong Nam chưa có 57 ly), còn khi phi cơ xuống thấp làm nhiệm vụ yểm trợ tiếp cận thì đại liên 12 ly 8 không đủ mạnh, đủ nhanh để bắn hạ, chưa kể có thể còn bị hỏa lực của phi cơ tiêu diệt.
SA-7 đã giải quyết được khó khăn nói trên, đã tỏ ra vô cùng hữu hiệu trong việc bắn hạ các phi cơ bay thấp. SA-7 được sử dụng lần đầu tại chiến trường Trị - Thiên trong Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, tới đầu năm 1973 đã được đưa vào chiến trường phía Nam cùng với đại bác phòng không 57 ly hướng dẫn bằng ra-đa.
Kể từ khi có sự xuất hiện của hỏa tiễn địa không SA-7 tại chiến trường miền Nam, số lượng phi cơ bị tổn thất và số phi công hy sinh đã gia tăng một cách đáng ngại.
Trong sáu tháng đầu năm 1973, đã có ít nhất 22 hỏa tiễn SA-7 được địch phóng lên, hạ tám phi cơ của VNCH, gồm một A-37, một F-5A, ba A-1, hai UH-1, và một CH-47. Tất cả tám phi hành đoàn hy sinh.
Hoả tiễn tầm nhiệt SA-7 Grail
Trong sáu tháng cuối năm, có thêm 20 phi cơ khác bị SA-7 bắn hạ.
Qua năm 1974, trong số tám chiếc A-37 bị địch bắn hạ trong nửa năm đầu, có tới năm chiếc rớt vì hỏa tiễn SA-7.
Nhưng dù gặp khó khăn, nguy hiểm gấp mấy lần thời gian trước mùa hè 1972, và cho dù đã có những thay đổi về chiến thuật tác chiến (không được xuống thấp trong nhiều trường hợp), trong những phi vụ yểm trợ quân bạn đang giao tranh với địch, các phi công khu trục A-1, A-37, và F-5 thay vì chỉ oanh tạc từ trên cao, vẫn xuống thấp để oanh kích, xạ kích địch quân một cách chính xác, bất chấp mọi hiểm nguy.
Trong giai đoạn này, tính chung về mọi mặt, A-37 là loại phi cơ hữu hiệu nhất vì vừa nhanh nhẹn (có vòng quẹo tương đối hẹp) vừa được trang bị để có thể oanh tạc theo sự hướng dẫn của hệ thống BOBS (Beacon Only Bombing System), giúp phi cơ có khả năng hoạt động về đêm hoặc trong điều kiện thời tiết xấu.
(Khu trục cơ cánh quạt A-1 và phản lực cơ siêu thanh F-5 cũng được trang bị hệ thống BOBS, tuy nhiên toàn bộ A-1 sau này đã bị đình động, còn F-5 thì giữ nhiệm vụ chính là phòng thủ không phận nên cũng ít khi thi hành các phi vụ BOBS)
Trong tháng 11/1973, các phi cơ A-37 của Phi Đoàn 524 Thiên Lôi (SĐ2KQ) đã lập công đầu trong trận Quảng Đức, nơi Trung Đoàn 53 thuộc Sư Đoàn 23 Bộ Binh tái chiếm Quốc lộ 14 từ tay Công trường 9 của VC. Đây là trận đánh lớn nhất kể từ ngày Hiệp Định Paris được ký kết.
Bước sang đầu năm 1974, việc Hoa Kỳ cắt giảm viện trợ cho tài khóa 1973-1974 cùng với cuộc khủng hoảng dầu hỏa ở Trung Đông đã ảnh hưởng trầm trọng tới hoạt động của KQVN.
Nhưng dù phương tiện hoạt động bị hạn chế, trong năm 1974, lực lượng A-37 cũng đã lập được một chiến công để đời, nếu không muốn nói là vô tiền khoáng hậu: tiêu diệt nguyên một đoàn xe vận tải dài hàng chục cây số của CSBV.
Được tin tình báo do Quân Đoàn II cung cấp, phi cơ quan sát của Phi Đoàn 118 Bắc Đẩu (SĐ6KQ) đã theo dõi và phát hiện một đoàn xe Molotova vận chuyển vũ khí, đạn dược tại một đoạn đèo trong mật khu An Lão ở vùng Tam Biên. Lập tức, lực lượng A-37 của các Sư Đoàn KQ được điều động tới nơi, và áp dụng chiến thuật “đánh đầu chặn đuôi”.
Vì đoàn xe đang ở trên đèo, một bên là vách núi một bên là vực thẳm, cho nên sau khi những chiếc đi đầu và đi cuối bị tiêu diệt, cả đoàn xe bị kẹt cứng, trở thành những mục tiêu bất động cho A-37. Kết quả toàn bộ đoàn xe đã bị tiêu diệt.
Tuy nhiên, chiến tích nói trên cũng chỉ là một trường hợp hiếm hoi, và ít nhiều do sự chủ quan bất cẩn tới mức không thể chấp nhận của các cấp chỉ huy đoàn xe Molotova!
* * *
Tại Vùng 1 Chiến Thuật, mức giới hạn hoạt động của KQVN còn cao hơn nữa do việc CSBV đã đưa các dàn hỏa tiễn địa không (SAM) SA-2 vào tận Quảng Trị. Bốn trong tổng số tám chiếc phản lực cơ thám tính RF-5 của KQVN đã bị SA-2 bắn hạ trong lúc thực hiện công tác chụp không ảnh trên đường mòn Hồ Chí Minh.
Tại Vùng 4 Chiến Thuật - vùng đồng bằng sông Cửu Long - trước kia thường được xem là tương đối an toàn nhất cho phi cơ vì địa thế bằng phẳng, trống trải, không thuận lợi cho việc bố trí các dàn phòng không, nay lại trở nên nguy hiểm nhất sau khi có sự xuất hiện của hỏa tiễn tầm nhiệt SA-7 (vì thế, đa số SA-7 của địch đã được đưa vào Vùng 3 và vùng 4 Chiến Thuật).
Trong năm 1974, SĐ4KQ đã bị thiệt hại nặng nề về phi cơ cũng như phi hành đoàn khi tham gia hai trận đánh lớn, một giữa Sư Đoàn 7 Bộ Binh và Công Trường 3 VC tại Kiến Tường, một giữa lực lượng Tiểu khu Kiến Hòa và Trung Đoàn chủ lực Đồng Tháp của địch.
Tổng cộng trong năm 1974, KQVN đã mất 299 phi cơ các loại, phần lớn do hỏa lực phòng không địch.
Bước sang năm 1975, theo con số của Khối Đặc Trách Khu Trục BTL/KQ, chỉ trong tháng 1 đã có 17 phi cơ thuộc ngành khu trục bị bắn rớt, gồm 13 A-37, ba A-1 và một F-5. Đây là mức độ thảm hại nhất trong lịch sử ngành khu trục!
Tình hình càng thêm bi đát sau khi Quốc Hội Hoa Kỳ lại quyết định cắt giảm viện trợ quân sự cho tài khóa 1974-1975 xuống chỉ còn 300 triệu Mỹ kim cho cả QLVNCH (nên biết trong tài khóa 1971-1972, chỉ riêng viện trợ cho KQVN đã lên tới gần 500 triệu).
Vì thiếu bom đạn và nhiên liệu dự trữ chỉ đủ cho thời gian hai tháng, các phi vụ đã bị hạn chế tới mức tối đa. Bị ảnh hưởng nặng nề nhất là ngành khu trục, các phi cơ chỉ được trang bị phân nửa bom đạn, và mỗi trái bom được thả phải báo cáo chi tiết về Bộ tư lệnh Không Quân (Chú thích 3)
* * *
Giữa tháng 12/1974, CSBV thăm dò phản ứng của Hoa Kỳ bằng cách cho hai sư đoàn chính quy Bắc Việt, được sự yểm trợ của pháo binh, xe bọc thép và các lực lượng phòng không, tấn công Phước Long. Ngày 7/1/1975, tỉnh lỵ Phước Long thất thủ. Hoa Kỳ không hề có một phản ứng gì, cho dù chỉ là một lời tuyên bố xuông!
Được “an tâm” về phía Hoa Kỳ, CSBV liền cho tiến hành cuộc tổng tấn công miền Nam VN, mà theo dự trù trước đây của Hà Nội, phải đợi tới năm 1976.
Sau khi chiếm Phước Long, CSBV đưa thêm hai sư đoàn quân chính quy vào Nam, nâng tổng số lên tới 15 sư đoàn (lúc đó CSBV có tổng cộng 18 sư đoàn).
Đêm 9/3/1975, cuộc tổng tấn công của CSBV bắt đầu với việc tiến đánh thành phố Ban Mê Thuột tại Vùng 2 Chiến Thuật. Mặc dù lực lượng đồn trú anh dũng chống trả, và các phản lực cơ A-37 tận tình yểm trợ, bắn cháy năm chiến xa T-54, nhưng với tỷ lệ quân số 1 chọi 5, tới chiều ngày 10/3/1975, phi trường và phân nửa thành phố đã lọt vào tay địch.
Từ Sài Gòn, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh cho Sư Đoàn 23 Bộ Binh phải giữ Ban Mê Thuột bằng mọi giá. Tuy nhiên trước một lực lượng địch áp đảo, cho dù các phi cơ A-37 (chủ yếu là của Phi Đoàn 532 Gấu Đen tới từ Phù Cát) đã thực hiện trên 200 phi xuất yểm trợ tiếp cận, gây cho địch những tổn thất đáng kể, tới ngày 14/3/1975, Ban Mê Thuột đã bị thất thủ.
Cessna A-37 Phi Đoàn 516 "Phi Hổ"
Sau khi mất Ban Mê Thuột, Kontum và Pleiku “di tản chiến thuật”. Tới ngày 29/3/1975, Đà Nẵng lọt vào tay địch.
Sau khi Huế, Đà Nẵng ở Vùng 1 Chiến Thuật lọt vào tay Bắc quân, tới ngày 31/3/1975, thành phố Quy Nhơn ở Vùng 2 Chiến Thuật cũng bị mất. Tuy nhiên, địch quân đã phải trả một giá khá đắt trước tinh thần chiến đấu dũng cảm tới giờ phút chót của các phi công A-37.
Toàn bộ lực lượng A-37 của Không Đoàn 82 Chiến Thuật (Phù Cát) và Không Đoàn 92 Chiến Thuật (Phan Rang), gồm các Phi Đoàn 532 Gấu Đen, 524 Thiên Lôi, 534 Kim Ngưu, và 548 Ó Đen đã tham gia trận phản công, tiêu diệt hơn phân nửa tổng số chiến xa địch.
Tới đầu tháng 4/1975, tại phòng tuyến Phan Rang, sau khi Chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang, Sư đoàn trưởng SĐ6KQ (từ Pleiku di tản về) được Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH chỉ định đặc trách việc phòng thủ Phan Rang, toàn bộ A-37 của Không Đoàn 92 Chiến Thuật - gồm ba Phi Đoàn 524, 534 và 548 - dưới quyền chỉ huy của Đại tá Lê Văn Thảo, đã xuất kích ngày đêm để chặn địch.
Sau khi Phan Rang và Xuân Lộc thất thủ, một trong những hoạt động sau cùng của các phản lực A-37 được ghi nhận là phi vụ oanh tạc trả đũa Phan Rang sau khi Tân Sơn Nhất bị Nguyễn Thành Trung và phi công địch tấn công.
Nguyên vào chiều ngày 28/4/1975, Nguyễn Thành Trung - viên Trung úy phi công F-5 phản bội đã oanh tạc Dinh Độc Lập ngày 8/4/1975 - hướng dẫn bốn chiếc A-37 của ta bị bỏ lại, từ Phan Rang bay về Tân Sơn Nhất oanh tạc các bãi đậu phi cơ với ý đồ ngăn chặn việc di tản; kết quả ba chiếc AC-119, một số C-47 bị hư hại, một số A-37 trang bị sẵn bom đạn bị phát nổ.
Ngay trong đêm đó, một phi tuần gồm bốn chiếc A-37 do Thiếu tá Nguyễn Phấn Chấn (Phi Đoàn 548 Ó Đen) hướng dẫn đã bay ngược ra Phan Rang trả đũa, oanh kích phi trường đã bị địch chiếm.
Tại Vùng 4 Chiến Thuật, cho tới 9 giờ sáng ngày 30/4/1975, phi công A-37 của các Phi Đoàn 520, 526 vẫn tiếp tục cất cánh bay về Vùng 3 để thi hành các phi vụ tác chiến, yểm trợ quân bạn ở vòng đai thủ đô Sài Gòn.
Khoảng 10 giờ sáng, sau khi được tin quân cộng sản đã tràn qua Lộ Tẻ Ba Xe (thành phố Cần Thơ), Phòng Hành Quân Chiến Cuộc đã ra lệnh cho các phi công A-37 của PĐ-520 thực hiện phi vụ oanh kích ở ngay vành đai khu vực an ninh phi trường.
THAY LỜI KẾT
Chiều 30/4/1975, khi những chiếc phi cơ (di tản) cuối cùng rời phi trường Cần Thơ, nơi đặt bản doanh của SĐ4KQ, trang sử cuối cùng của Không Lực Việt Nam Cộng Hòa đã chính thức khép lại.
Tính từ ngày 1/7/1955, ngày lá cờ vàng ba sọc đỏ được thượng lên tại CCKQ Nha Trang, đánh dấu ngày quân chủng Không Quân Việt Nam Cộng Hòa được chính thức thành lập, chưa đủ 20 năm.
Riêng ngành khu trục, tính từ ngày 1/6/1956, ngày thành lập Phi Đoàn 1 Khu Trục & Trinh Sát tại CCKQ Biên Hòa, chưa tròn 19 tuổi.
Nhưng sau ngày tấm màn nhung đã hạ xuống trên sân khấu chính trị Việt Nam, KLVNCH nói chung, ngành khu trục nói riêng, đã không bị chìm vào quên lãng, mà những tiếng thơm, những chiến tích, những huyền thoại trong thời gian tồn tại ngắn ngủi ấy vẫn được trân trọng ghi lại trong lịch sử hàng không quân sự quốc tế.
Bài viết này chỉ là một đóng góp nhỏ bé vào việc xác định vị trí xứng đáng của ngành khu trục KLVNCH trong dòng lịch sử ấy.
Nguyễn Hữu Thiện
Melbourne, Australia
(chỉnh sửa lần cuối tháng 11/2017)
CHÚ THÍCH:
(1) Mặc dù sau này cũng được bán cho một vài không lực “nhà nghèo”, lúc ban đầu việc chế tạo A-37 Dragonfly chỉ nhằm mục đích duy nhất là thay thế các khu trục cơ cánh quạt A-1 Skyraider đã quá cũ và chậm chạp của KLVNCH. Nhiều người còn tin rằng chính vì được dành riêng cho KQVN nên A-37 mới được người Mỹ đặt tên “Dragonfly” và chương trình thử nghiệm A-37 tại chiến trường VN được gọi là dự án “Combat Dragon”, chỉ vì con rồng là biểu tượng của KQVN!
(Một trong hai chiếc A-37 của KLVNCH - bị CSVN phế thải - được Temora Aviation Museum, NSW, Australia, mua lại đem về Úc phục hồi để trưng bày và phi diễn trong các airshow)
(2) Vào năm 2014, nhân đánh dấu 40 năm cuộc Hải chiến Hoàng Sa giữa Trung Cộng và VNCH, báo Thanh Niên ở trong nước đã đăng một loạt bài về trận hải chiến này, trong số đó có bài phỏng vấn “Đại tá CSVN Nguyễn Thành Trung”, tức viên Trung úy phi công F-5 phản bội đã oanh tạc Dinh Độc Lập ngày 8/4/1975, và tới chiều 28/4/1975 đã hướng dẫn bốn chiếc A-37 từ Phan Rang bay về oanh tạc Tân Sơn Nhất.
Trong bài phỏng vấn, Nguyễn Thành Trung (NTT) đã bịa đặt, thêu dệt nhiều tình tiết, phóng đại các dữ kiện với mục đích để các thế hệ sinh sau đẻ muộn tin rằng ngày ấy việc “tái chiếm” Hoàng Sa dễ như trở bàn tay, và đổ tội cho Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu đã không chịu cho tiến hành, không ngoài mục đích đánh lạc hướng dư luận, để người dân quên đi cái “công hàm bán nước” của CSVN do Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký năm 1958, nhìn nhận chủ quyền của đàn anh Trung Cộng trên toàn cõi biển Đông, trong đó có Hoàng Sa.
Bài phỏng vấn NTT đã bị nhiều cựu đồng đội, cấp chỉ huy cũ lên tiếng bác bỏ, vạch trần mưu đồ “chạy tội” của chế độ CSVN.
Độc giả có thể tìm đọc bài phỏng vấn cựu Thiếu tá Hồ Kim Giàu, nguyên Phi đoàn phó PĐ-538, có thời gian giữ chức vụ quyền Phi đoàn trưởng PĐ-538 (khi Trung tá Phạm Đình Anh, Phi đoàn trưởng, đi du học), hiện được Ủy Ban Hoàng Sa phổ biến rộng rãi trên các website của người Việt hải ngoại, trong đó có Cánh Thép và Hội Quán Phi Dũng (tựa đề: KQVNCH và cuộc hải chiến Hoàng Sa).
Riêng tác giả bài viết này đã được cựu Đại úy phi công F-5 Phan Huy Bách, nguyên Phi đội trưởng Phi Đội 1, PĐ-542 Kim Ưng, thuật lại nguyên văn như sau:
“Về kế hoạch đánh trả đũa cuộc lấn chiếm Hoàng Sa của Trung Cộng thì trước Tết năm 1974, tôi về trình diện Bộ Tư Lệnh KQ để làm thủ tục đi học khóa “Tactical Weapons Delivery Instructor”, trong thời gian ở Bộ Tư Lệnh, tôi đã được gọi vào Khối Đặc Trách Khu Trục và được chỉ thị tính khả năng của F-5 ra Hoàng Sa tấn công chiến hạm của TC. Sau khi tính xong, tôi đã báo cáo là F-5 có thể ra Hoàng Sa được nhưng có một số vấn đề cần giải quyết như sau:
- Mặc dù F-5A luôn mang theo hai bình xăng phụ ở đầu cánh và một bình xăng phụ lớn ở dưới bụng nhưng vì khoảng cách ra Hoàng Sa quá xa nên sẽ phải mang thêm hai bình xăng phụ lớn nữa ở dưới cánh.
- Máy liên lạc UHF trên F-5 sẽ ra ngoài tầm hoạt động để có thể liên lạc được với đài kiểm báo Panama ở Đà Nẵng, do đó cần có một phi cơ bay giữa Đà Nẵng và Hoàng Sa để relay.
- F-5 có bốn pylon ở dưới cánh nên khi phải mang thêm hai bình xăng phụ nữa thì chỉ còn chỗ mang hai quả bom. Cũng vì khoảng cách xa nên chỉ có thể mang hai quả bom nổ loại 250 lbs.
- Thời gian trên vùng không quá 15 phút và mỗi phi cơ chỉ làm hai pass để thả bom.
Người Mỹ ngoài việc không hỗ trợ cuộc trả đũa này còn cho biết là Hạm Đội 7 ở trong vùng nếu có thấy được MiG của TC cất cánh từ Hải Nam lên thì cũng sẽ không thông báo cho phía VN, và họ cũng sẽ không tham gia việc cứu vớt phi công VN khi phải nhảy dù xuống biển. Theo tôi, đây cũng là lý do khiến Tổng thống Thiệu phải ra lệnh hủy bỏ kế hoạch này.”
(3) Chương trình “tiết giảm” không chỉ dành cho Không Quân mà áp dụng cho toàn thể QLVNCH. Chẳng hạn về phía Hải Quân, các hoạt động trên biển bị giảm 50%, còn hoạt động trên sông ngòi giảm tới 72% (theo Air War in Vietnam, Phil Chinnery, trang 182). Trong cuốn Not With Guns Alone, một nhà báo Úc kể lại tại miền Tây, một tiểu đoàn VNCH đã bị địch tiêu diệt sau khi bắn hết đạn, và tại miền Trung, mỗi khẩu đại bác chỉ được cấp mỗi ngày 4 viên đạn!
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
- Quân Sử Không Quân VNCH, Liên Hội Ái Hữu Không Quân - Úc Châu
- Sơ lược về sự thành lập các đơn vị Không Quân, Trần Mạnh Khôi
- South Vietnamese Air Force, Jim Mesko
- Flying Dragons, Robert C Mikesh
- Phi cơ Phản lực và KQ/VNCH, Trần Lý
- Ký ức của các niên trưởng, chiến hữu KQ: Trần Bá Hợi, Dan Hoài Bửu, Nguyễn Quí Chấn, Lê Như Hoàn, Nguyễn Thiện Ân, Lê Tuấn Đạt, Phan Huy Bách, Hoàng Văn Hùng...
LỜI CẢM TẠ
Xin chân thành cám ơn sự quan tâm và những lời khích lệ quý báu của quý niên trưởng, chiến hữu trong Ngành Khu Trục đã dành cho chúng tôi trong việc biên soạn tài liệu này; cũng không quên cám ơn “Bắc Đẩu” Võ Ý – cựu Phi đoàn trưởng PĐ-118 (SĐ6KQ) - đã giúp đỡ chúng tôi liên lạc được với các niên trưởng, chiến hữu nói trên.
KQ Nguyễn Hữu Thiện
No comments:
Post a Comment