Đa
số người VN biết Huế không chỉ vì Huế có nhiều cảnh đẹp, có nhiều di
tích lịch sử như đền đài, lăng tẩm, thành quách cổ kính mà còn vì những
bài thơ trữ tình của các thi nhân nổi tiếng, những câu hò êm ái đượm
tình quê hương và nhất là những bản tân nhạc ca tụng xứ Huế thơ mộng đã
được phổ biến đến khắp mọi miền trên đất nước. Có những người chưa bao
giờ đặt chân đến Huế nhưng qua các bài hát lại thuộc lòng tên những danh
lam thắng cảnh của đất cố đô như sông Hương, núi Ngự, cầu Trường Tiền,
chùa Thiên Mụ, đài Nam Giao, thôn Vĩ Dạ, v.v… Huế là cái nôi văn
hóa của miền Trung, là nguồn cảm hứng của các văn nhân, nghệ sĩ, là nơi
dừng chân của các tao nhân mặc khách . Người ta biết đến Huế nhiều
nhưng ít ai biết đất cố đô đã sản sinh ra bao nhiêu nhạc sĩ sáng tác tài
hoa . Khi người Pháp đặt chân lên đất nước VN họ mang theo vào cả nền
âm nhạc Tây phương và đem truyền bá trong dân chúng . Những nhạc sĩ của
đất Thần Kinh cũng dần dần làm quen với ký âm pháp phương Tây và từ đó
các nhạc sĩ sang tác tân nhạc đầu tiên ra đời.
1 - NHẠC SĨ NGUYỄN VĂN THƯƠNG
Người
nhạc sĩ tiền phong của nền tân nhạc VN ở cố đô Huế là nhạc sĩ Nguyễn
Văn Thương. Ông sinh ngày 22 - 05 – 1919 và mất ngày 06 – 12 – 2002
tại Saigon, hưởng thọ 84 tuổi. Ông sinh ra trong một gia đình yêu thích
âm nhạc. Năm lên 9 tuổi, ông bắt đầu học đàn nguyệt sau đó qua sách vở
của người Pháp ông tự học ký âm pháp. Năm 1936, ông tốt nghiệp bậc
trung, học tại trường Khải Định Huế và cũng năm này, ông sáng tác bản
nhạc đầu tay “Tiếng sông Hương” là bài tân nhạc đầu tiên của xứ Huế. Lúc
ấy ông mới 17 tuổi nhưng tên của
ông đã bắt đầu đi vào làng âm nhạc VN. Năm 1939 ông lại cho ra đời bản “Đêm đông” là
một kiệt tác của tân nhạc VN thời bấy giờ. Bài hát với nét nhạc trữ
tình êm ái tiềm ẩn một nỗi buồn man mác, lời ca trau chuốt, mượt mà, đã
đi vào lòng người VN qua bao thế hệ. Nữ ca sĩ Bạch Yến là người hát bài
“Đêm đông” hay nhất. Bài ca này, lúc đầu được viết theo thể điệu Tango,
nhưng khi Bạch Yến trình diễn thì chuyển qua Slow Rock nghe hay hơn.
Trong thập niên 60, cô cũng đã trình bày nhạc phẩm này trong sô Ed
Sullivan của Mỹ. Năm 1942 nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương sang tác thêm ca
khúc “Bướm hoa” cũng được nhiều người ưa thích nhưng không
bằng “Đêm đông”.
Sau đó, ông theo kháng chiến tập kết ra Bắc. Ở ngoài Bắc trong thời gian chống Pháp, ông viết bản
“Bình Trị Thiên khói lửa”, soạn nhạc cho các điệu múa của các vở kịch
“Chim gâu”, “Tấm Cám”, “Múa ô”, “Chàm rông”. Nhạc phẩm “Bài ca trên núi”
ông viết cho phim “Vợ chồng A Phủ”.
Sau
một thời gian tu nghiệp tại CHDC, Đức, ông trở về nước làm giám đốc
Nhạc viện Hà Nội và tiếp tục sáng tác. Ông có những tác phẩm về khí nhạc
như “Lý hoài nam”, “Buôn làng vào hội”, “Quê hương”. Trong thời gian ở
Đức ông có sáng tác khí nhạc như “Ngày hội non sông”, “Rhapsodie 2”,
“Trở về đất mẹ”. Bản giao hưởng “Đồng khởi” của ông được trình diễn ở
Leipzig (CHDC Đức) năm 1971.
Cho
dù các tác phẩm của nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương có uyên bác đến đâu đi
nữa rất ít người biết đến . Đa số người VN chỉ biết đến ông qua nhạc
phẩm “Đêm đông ” mà thôi .
Đêm đông xa trông cố hương buồn lòng chinh phu
Đêm đông bên sông ngẩn ngơ kìa ai mong chồng
Đêm đông thi nhân lắng nghe tâm hồn tương tư
Đêm đông ca nhi đối gương ôm sầu riêng bóng
Đêm đông ta lê bước chân phong trần tha hương
Có ai thấu tình cô lữ đem đông không nhà .
Hoàn
cảnh đưa đẩy nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương sáng tác bài ca bất hủ này đã
được chính tác giã kể lại cho nhạc sĩ Trương Quang Lục như sau :
“Sau
khi đỗ Thành Chung ở Huế tôi ra Hà Nội học để thi Tú Tài. Dịp Tết
Nguyên đán năm 1939, không có đủ tiền để về quê ăn Tết, đêm giao thừa
tôi đi lang thang khắp phố phường Hà Nội dưới trời mưa phùn lạnh buốt,
không một bóng người qua lại trên đường. Qua ga Hàng Cỏ nghe tiếng còi
vang lên trong đêm khuya càng thêm nhớ nhà da diết. Dọc phố Khâm Thiên
một vài căn nhà vẫn còn sáng đèn. Nghe tiếng chân qua đường, một cô gái
bước ra nhìn, thất vọng quay vàoh soi gương treo cạnh cửa, đưa tay vuốt
mái tóc. Trời đã khuya, tôi trở về phòng trọ, gió lùa qua khe cửa rít
lên từng hồi suốt đêm. Tôi trăn trở không ngủ được, nghĩ đến cuộc đời
bất hạnh của những người nghèo khổ, tha hương trong đêm đông lạnh lẽo.
Và bài hát “Đêm đông” ra đời trong đêm ấy.
2 - NHẠC SĨ NGUYỄN HỮU BA
Ông
sinh năm 1914 tại làng Đạo Đầu, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị và
mất năm 1997 tại Saigon, hưởng thọ 83 tuổi. Tuy sinh ra tại Quảng Trị
nhưng suốt cuộc đời và sự nghiệp của ông đã gắn liền với cố đô Huế.
Với
bút hiệu Đạo Tâm, ngoài tân nhạc ra ông là một nhà nghiên cứu, một nhạc
sư cổ nhạc VN. Ông biết sử dụng nhiều loại nhạc khí cổ truyền khác
nhau, là người có công phát triển và bảo tồn nền cổ nhạc miền Trung. Năm
lên 8 tuổi ông bắt đầu học đàn. Năm 16 tuổi ông đã hòa nhạc cổ thu
vào dĩa Beka của Đức.
Năm
1932 ông áp dụng ký âm pháp Tây phương vào cổ nhạc VN ở Huế. Công trình
của ông rất được nhiều người tán thưởng. Năm 1938 ông đậu thủ khoa đàn
nhị. Tháng 8 năm 1945, sau khi Việt Minh lên nắm chính quyền, ông về
quê Quảng Trị. Nhưng cuộc đời của ông chỉ có duyên nợ với đất Thần Kinh,
nên năm 1950, ông trở lại Huế. Cũng năm này ông thành lập Viện Tỳ Bà
nhằm phục hưng quốc nhạc VN, bảo tồn nhiều loại nhạc khí cổ truyền, tàng
trữ sách vở về âm nhạc cũng như những tài liệu thu thanh quí giá. Chỉ
cần vào cửa Thượng Tứ, rẽ trái khoảng một trăm thước ta sẽ thấy Viện Tỳ
Bà của nhạc sĩ Nguyễn Hữu Ba. Ông được triều đình
Huế tặng thưởng huy chương Long Bội Tinh và vinh tặng chức Hàn lâm viện
Đãi chiếu. Sau 1954, ông vào Nam, dạy tại trường Quốc Gia Âm Nhạc
Saigon, làm khoa trưởng lý thuyết các trường đại học Vạn Hạnh, Saigon,
Huế. Sau đó, ông trở về làm giám đốc trường Quốc Gia Âm Nhạc Huế. Sau
biến cố Tết Mậu Thân (1968) Viện Tỳ Bà bị tàn phá, gia đình ông dời vào
Saigon. Sau năm 1975, gia đình ông thành lập một cơ sở nhỏ chuyên sản
xuất các loại đàn cổ rất tinh vi ở quận Phú Nhuận, đồng thời ông cùng
người con gái lớn là nhạc sĩ Tuệ Quang mở lớp dạy đàn tranh, học sinh
theo học rất đông. Nhạc sĩ Nguyễn Hữu Ba là người có công truyền bá cái
tinh hoa của nền quốc nhạc về nhiều phương diện như trình diễn, khảo
cứu, cổ động và giáo
dục. Ông đã đào tạo được nhiều học trò nổi tiếng trong ngành cổ nhạc
như Phạm Thúy Hoan (Saigon), Phương Oanh (Paris), Quỳnh Hạnh (Paris).
Tác
phẩm ông để lại cho hậu thế cũng khá nhiều . Về tân nhạc gồm có các
nhạc phẩm như : “Quảng đường mai (1940)”, “ Xuân xuân (1947)”, “Lửa
rừng đêm (1947)” , “Thu khói lửa (1950)”, “Tiếng hát quân Nam (1950)”,
“Ánh dương trời Nam (1951)”. Về các tác phẩm nghiên cứu và giáo dục gồm
có : “Tự học đàn nguyệt (1940)”, “Vài thiên kiến về âm nhạc (1950)”,
“Bản đàn tranh (1951)”, Nhạc pháp quốc học (1960)”, “Đàn tỳ bà
(1962)”, “Đàn độc huyền (1962)” “Đàn nhị huyền (1962)”, “Bài ca Huế
(1962)”, “Phương pháp học đàn tranh (1962)”, “Dân ca VN (1961)”. Năm
1966, thu thanh tài liệu
nhạc Huế (nhạc Cung đình và nhạc Phật giáo) cùng với Ca Huế cho cơ quan
UNESCO vào dĩa 33 vòng đặt tên là VIETNAM 1. Năm 1971, thu thanh
VIETNAM 2 do ông cung cấp tài liệu, với sự trợ giúp của nhạc sĩ Trần
Văn Khê. Năm 1998, cả hai dĩa VN1 và VN2 được hãng đĩa Rounder Records ở
Mỹ tái bản dưới hình thức CD.
3 - NHẠC SĨ VĂN GIẢNG
Nhạc
sĩ Văn Giảng sinh ngày 12 tháng 05 năm 1924 tại Huế, trong một gia đình
có truyền thống âm nhạc. Ông nội của ông là một nhạc sĩ cổ nhạc. Lúc
còn nhỏ ông học đàn mandoline. Khi lên trung học thấy người ta đàn
guitare ông rất thích. Có giai thoại kể rằng, thuở đó, trong khu phố của
ông có một người biết đàn guitare, ông đến xin học; nhưng ông thầy này
ra điều kiện là phải mua tặng cho ông ta một cây đàn guitare mới. Nhà
nghèo làm sao có tiền mua đàn để tặng, ông phải đành ở nhà tự học. Nhưng
sau môt thời gian, tài nghệ sử dụng đàn guitare cùng kiến thức về âm
của ông đã vượt qua ông thầy, và chính ông này lại đến nhờ ông chỉ
bảo thêm. Năm 1949, ông sáng tác bài “Thúc quân”, một bản nhạc hùng rất
được nhiều người ưa thích. Cùng
năm này, ông cho ra đời bài “Ai về sông Tương” với bút hiệu Thông Đạt.
Nhạc phẩm này được thính gìả cả nước tiếp đón một cách nồng nhiệt qua
các đài phát thanh, riêng đài Pháp Á chọn làm bài hát hay nhất trong năm
1949, và được tái bản 6 lần không kể những lần in tại hải ngoại sau
1975. Hiện nay, nhạc phẩm này được đánh giá là một trong 10 bài hát hay
nhất trong âm nhạc VN. Có một giai thoại khác về nhạc sĩ Văn Giảng với
bài “Ai về sông Tương”
như sau : “Trong các thập niên 40, 50 ở Huế có nhà xuất bản Tinh Hoa
nổi tiếng, chuyên xuất bản các nhạc phẩm của các nhạc sĩ trong nước. Một
hôm, ông Tăng Duyệt, giám đốc nhà xuất bản, nói với nhạc sĩ Văn Giảng
đại khái rằng, ông chỉ biết làm nhạc hùng chứ không biết làm nhạc trữ
tình như các nhạc sĩ khác; vì trước đó, Văn Giảng chỉ sáng tác nhạc hùng
mà thôi. Ông im lặng không nói gì cả. Về nhà, ông lặng lẽ sáng tác bài
“Ai về sông Tương” và gởi đến các đài phát thanh trong nước. Ông Tăng
Duyệt nghe bài hát hay quá muốn xuất bản nhưng không biết Thông Đạt là
ai. Một hôm nhạc sĩ Đỗ Kim Bãng và nhà văn Lữ Hồ đến nhà Văn Giảng
chơi , thấy bản thảo của bài hát này và nói cho ông Tăng Duyệt biết.
Ông này
liền lái xe chạy đến nhà nhạc sĩ thương lượng ký hợp đồng xuất bản.
Thời đó, các thanh niên đều thuộc bài này và thường hay hát nghêu ngao
:
“ Ai có về bên bến sông Tương,
nhắn người duyên dáng tôi thương,
sao đành nỡ dứt tơ vương….”
Trong
hai thập niên 50-60, ông là giáo sư âm nhạc tại các trường trung học ở
Huế như Quốc Học, Hàm Nghi, Trường đào tạo giáo viên tiểu học và trưởng
ban nhạc đài phát thanh Huế. Trong thời gian này ông cho xuất bản tập
nhạc “Hát mà học” gồm 10 bài hát dành cho thiếu nhi. Ông được học bổng
du học ngành nhạc tại Hawai và Bloomington.
Năm
1956 ông thành lập ban hoà tấu Việt Thanh gồm các nhạc cụ cổ truyền như
tỳ, nhị, độc huyền, nguyệt , sáo, vv… và ông sáng tác cho ban này bản
hòa tấu “ Ai đưa con sáo sang sông” dài 60 phút. Ngoài ra ông còn cho
xuất bản sách “Kỹ thuật hòa âm” dày 350 trang .
Năm
1969, ông vào Nam, dạy tại trường QGAN Saigon và soạn hòa âm cho hai
hãng dĩa Asia và Sóng nhạc. Ông được Bộ Văn Hóa cử làm Trưởng phòng học
vụ Nha Mỹ thuật, đảm trách học vụ các trường âm nhạc Saigon, Huế và các
trường Cao đẳng Mỹ thuật.
Năm
1970, ông được Huy chương vàng giải Văn học Nghệ thuật của Tổng thống
VNCH với bản “Ngũ tấu khúc” (Quintet for flute and strings). Ông còn
được đề cử làm giám đốc nghệ thuật điều hành Đoàn văn nghệ VN gồm 100
nghệ sĩ tân, cổ nhạc và vũ do nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ phụ trách, cùng ban
vũ cổ truyền do nhạc sĩ Nguyễn Hữu Ba đảm trách, tham dự Hội Chợ Quốc
Tế ở Osaka Nhật Bản.
Ngoài
tên Văn Giảng với các bài ca hùng tráng như “Thúc quân”, “Lục quân VN”
( bài hát này dược các quân trường ở miền Nam chọn làm bài ca nhịp bước
cho các tân binh mới nhập ngũ ) , “Đêm Mê Linh ” , “ Quân hành ca ”, “
Qua đèo ”, “ Nhảy lửa ” , ông còn có bút hiệu Thông Đạt với các nhạc
phẩm trữ tình như “ Ai về sông Tương ” , “Đôi mắt huyền ”, “ Hoa cài
mái tóc ”, “ Thương tà áo bay ” , “ Tình em biển rộng sông dài ” , “ Xin
đừng bỏ nhau ” , “ Xin đừng chờ em nữa ” , “ Năm nay em mấy tuổi ” và
bút hiệu Nguyên Thông với các ca khúc Phật giáo như “ Từ Đàm quê hương
tôi ” , “ Mừng Đản sanh ” ,
“ Ca Tỳ La Vệ ” , “ Vô thường ” , “ Hoa cài áo lam ” , “ Bao la vô tận ”
,” Bờ mê bến giác ” , “ Buông xả ” ,” Dòng sinh diệt ”, “Đời sống Đức
Phật ” ,” Giả hợp ” , “ Hãy tự giác ” , “ Mong tỉnh ngộ ” , “ Tâm bệnh ”
, “ Tìm đâu xa ” , “ Vũ khí chơn tâm ” .
Sau
1975 ông kẹt lại ở Saigon và có mở lớp dạy nhạc tại đường Phạm Văn Hai
, gần chợ Ông Tạ , quận Tân Bình . Năm 1981 ông vượt biên đến đươc
Natuna của Nam Dương và để cám ơn hòn đảo đã cho ông dừng chân trên
đường đi tìm tự do ông sáng tác bản “ Natuna người tình đầu ”. Hiện giờ
ông đang định cư tại Thành phố Foolscray , bang Victoria , nước Úc .
Ông là một nhạc sĩ có tài , nhạc phẩm của ông phong phú , đa dạng . Ông
đã đóng góp nhiều cho nền âm nhạc VN nhưng không hiểu tại sao các Trung
Tâm sản xuất DVD ca nhạc lại nỡ quên đi không làm DVD về sư nghiệp âm
nhạc của ông .
4 - NHẠC SĨ ƯNG LANG
Người
nhạc sĩ đầu tiên của đất Thần Kinh mang dòng máu hoàng tộc là Ưng Lang .
Ông tên thật là Nguyễn Phước Ưng Lang , sinh năm 1919 tại Huế . Ông
chuyên về Hạ uy cầm ( guitare hawaienne ) một loại đàn rất thông dụng
thời bấy giờ . Ông là tác giả những nhạc phẩm như “ Chiều về thôn Vỹ ”
, “ Nhạc lòng ” , “ Chiều tiễn biệt ” và nhất là ca khúc “ Mưa rơi ”
viết chung với Châu Kỳ đã đưa tên tuổi ông đến với những người yêu nhạc
VN . Tác phẩm “ Mưa rơi ” là kết quả của mối tình đầu đau thương của
tác giả . Sau khi tốt nghiệp Trường Công chánh Huế ông được bổ nhiệm
về Sở Lục
Lộ tỉnh Nghệ An đặt ngay tại thị xã Vinh . Lúc ấy ông 21 tuổi . Ông
được gia đình bà chị có cửa hàng buôn bán tại Vinh cho một căn phòng
để ở . Phòng ông có cửa sổ nhìn sang dãy nhà đối diện bên kia đường .
Chiều chiều sau khi đi làm về ông thường mở cửa sổ cho mát và lấy đàn ra
lả lướt vái bài cho đỡ buồn . Không ngờ tiếng đàn Hạ Uy cầm du dương
của ông lại lọt đến tai của các nghệ sĩ của thị xã . Họ mời ông gia
nhập “ Ban Nhạc Mang Hưng ” mà đa số nhạc sĩ là người Việt gốc Hoa .
Nhưng đối với ông tiếng đàn lọt vào tai các nhạc sĩ của thị xã không
quan trọng bằng lọt vào tim của một hoa khôi sống với cha mẹ trong căn
nhà đối diện với nhà chị ông . Ta hãy nghe nhạc sĩ Lê hoàng
Long nói về giai nhân , người yêu đầu tiên của nhạc sĩ Ưng Lang như
sau : “ Ưng Lang đưọc biết mỹ danh người đẹp là Ch.L. tuổi vừa đôi
chín . Từ đó , hàng ngày khi màn đêm buông xuống , Ưng Lang lại lấy đàn
ra nắn phím buông tơ . Tiếng đàn Hạ Uy cầm réo rắt , ngân nga vọng sang
tận bên kia đường rồi vang trong nhà người đẹp . Ngày
nào như ngày ấy , đúng giờ là tiếng đàn lại nỉ non , thánh thót khiến
mỹ nhân nhẹ nhàng thướt tha , uyển chuyển , lúc ẩn , lúc hiện sau tấm
màn cửa đong đưanhư đang uốn lượn trong vũ khúc trước làn gió nhẹ . Tay
nắn phím , tay buông tơ nhưng mắt Ưng Lang vẫn kín đáo nhìn nên thấy
cảnh đẹp như Hằng Nga trong vũ khúc Nghê
Thường . Tức cảnh sinh tình , tiếng đàn Ưng Lang lại càng thêm thánh
thót và nghe thấy buồn man mác hơn . Nếu ai nhìn thấy được cảnh ấy ,
khách quan cũng nhận định giai nhân và nghệ sĩ tình trong như đã , mặt
ngoài còn e . Ưng Lang mừng thầm cho rằng đây là mối lương duyên tiền
định nên ngày ngày chải chuốt từ y phục đến tiếng đàn ” . Sau
đó hai người yêu nhau bằng một mối tình thật đằm thắm và thơ mộng . Họ
cùng thề non hẹn biển sống với nhau đến hết cuộc đời . Nhưng có ai biết
được chữ ngờ . Đôi tình nhân đâu biết cuộc tình nồng thắm của họ sẽ phải
tan vỡ vì chiến tranh . Tháng 3 năm 1945 Nhật
đảo chánh Pháp và ra lệnh cho tất cả các công chức phải trở về nguyên
quán . Ưng Lang cũng không thoát khỏi cái lệnh quái ác ấy nên phải khăn
gói trở về làm việc tại Sở Công Chánh Thừa Thiên . Buổi tiễn đưa đôi
tình nhân bịn rịn chia tay lòng đau như cắt . Về đến quê nhà lại gặp
cảnh mưa rơi rả rich suốt ngày , bầu trời u ám , nỗi buồn càng thêm da
diết . Trong hoàn cảnh đó Ưng Lang sang tác nhạc phẩm “ Mưa rơi ” và
bài hát này đã trở thành ca khúc vượt thời gian :
Mưa rơi , chiều nay vắng người
Bên thềm gió lơi , mơ bóng ngàn khơi
Mưa rơi , màn đêm xuống rồi
Mây sầu khắp nơi , thương nhớ đầy vơi
Mưa rơi , đìu hiu giữa trời
Đêm dài vắng ai , thương nhớ nào nguôi .
Sau
ngày chia tay hai người thường xuyên viết thư cho nhau và chờ ngày sum
họp . Nhưng tháng 8 năm 1945 chiến tranh nổ ra , không biết gia đình
của Ch.L. trôi giạt phương trời nào và từ đó đôi tình nhân mất hẳn liên
lạc . Vài năm sau Ưng Lang lập gia đình , sống và làm việc tại Huế .
Trước 1975 ông là giáo sư trường Quốc Gia Âm Nhạc Huế . Mãi đến 20
năm sau ông mới được tin Ch.L. ,người yêu cũ , đã chết trong chiến tranh
.
5 - NHẠC SĨ CHÂU KỲ
Nhạc
sĩ Châu Kỳ sinh ngày 05 – 11 – 1923 tại làng Dưởng Mong , tỉnh Thừa
Thiên trong một gia đình sống bằng nghề cổ ca nên ông rất am hiểu về cổ
nhạc miền Trung . Học xong chương trình tiểu học tại trường Tiểu học
Dưởng Mong , ông lên Huế học tại trường Pháp Việt . Ông có giọng hát
rất hay nên bạn bè rất thích nghe ông hát . Thấy
ông hay hát những bài do Tino Rossi ca trong các dĩa của Pháp nên ông
đưọc sư huynh Pétrus Thiều dạy cho nhạc lý Tây phương . Khởi đầu ông
học đàn mandoline. Câu chuyện vui ông kể trên sân khấu Thúy Nga là
mối tình đầu lãng mạn của lứa tuổi dậy thì thiếu suy nghĩ khi ông muốn
dùng tiếng đàn mandoline để chinh phục trái tim người đẹp Kim Anh , con
gái của vị thượng thư , để rồi bị giai nhân từ trên lầu tạt nước xuống
khiến ông phải ôm đàn chạy trốn . Nhưng thế sự thăng trầm , cuộc đời dâu
biển , mười mấy năm sau ông gặp lại người đẹp tại Saigon trong cảnh
nghèo khổ , xác xơ trong khi ông đang là một ca,nhạc sĩ nổi tiếng . Sự
gặp gỡ mang nhiều kịch tính này làm ông ngậm ngùi nghĩ đến những đổi
thay của đời người và ông viết nên nhạc phẩm “ Giọt lệ đài trang ” .
Lúc
ông còn theo học bậc trung học thì chị của ông là Châu Thị Minh thành
lập đoàn ca kịch Huế lấy tên là Hồng Thu . Đoàn rất cần ca sĩ trẻ nên
bà chị tha thiết yêu cầu ông giúp . Vì gia đình nghèo ông do dự không
biết nên tiếp tục học hay là đi giúp chị . Cuối cùng ông bỏ học đi theo
chị , trước là để giúp chị trong lúc khó khăn , sau là có tiền giúp cha
mẹ . Từ đó ông theo đoàn đi lưu diễn khắp nơi . Thoạt đầu đoàn sang Lào
trình diễn tại Savannakhet đến Thakhet rồi thủ đô Vạn Tượng. Sau khi
gặt hái đưọc kết quả tốt đẹp ở Lào, đoàn làm một vòng lưu diễn các tỉnh
VN. Đoàn ra Bắc xong trở lại Huế rồi vào Nha
Trang. Tại đây, trong số khán giả thường trực, có một nữ sinh tuyệt
đẹp, con nhà tử tế được nhiều chàng trai trong tỉnh theo đuổi, cô vẫn
dửng dưng như không. Nhưng khi thấy chàng ca sĩ Châu Kỳ đẹp trai với
giọng hát trầm ấm, quyến rũ, tim cô rung động rồi si mê chàng ca sĩ.
Châu Kỳ cũng ngất ngây trước vẻ đẹp của cô nữ sinh lãng mạn và hai người
yêu nhau. Nhưng thuở ấy, cái thành kiến “xướng ca vô loại vẫn bám rễ
trong đa số gia đình VN nên cha mẹ của Đoàn Thị Sum, tên cô nữ sinh ,
cấm không cho cô gặp Châu Kỳ nữa. Thất vọng vì tình, cô uống thuốc độc
tự tử và chết ngày 10-12-1942. Ông quá đau khổ muốn chết theo người yêu,
nhưng các nghệ sĩ trong đoàn ra sức an ủi, can ngăn, nhắc cho ông biết
còn bổn phận đối với cha mẹ
và gia đình, nên ông mới khuây khỏa phần nào. Do đó, ta mới biết được
chút ít tại sao những bản tình ca của ông hồi đó đều là nhạc buồn như
“Khúc ly ca”,
“ Xin làm người tình cô đơn”, v.v… Nghe tin Huế bị bão lụt, ông trở về
Huế thăm gia đình. Nhưng khi về đến quê mẹ Thanh Hà, ông thấy quang cảnh
xác xơ, ruộng đồng bị tàn phá, ngôi nhà cũ đã bị san bằng và mẹ ông bị
lũ lụt cuốn trôi đi mất. Hoàn cảnh khổ đau này khiến ông viết lên bài
“Trở về”, bài hát tiêu biểu cho sự nghiệp âm nhạc của Châu Kỳ :
Về đây buồn trông cánh chim bay
Về đây buồn nghe gió heo may
Về đây đâu còn phút sum vầy
Đâu còn thắm niềm say
Lạnh lung ngắm trời mây….
Năm
1947, ông vào Saigon hát cho đài phát thanh Pháp Á trong ban “Thần
Kinh” của nhạc sĩ Mạnh Phát với các ca sĩ thời đó như Minh Diệu, Minh
Tần, Mộc Lan, Linh Sơn, Phan Đức… và ban “Tiếng Thùy
Dương” do chính ông làm trưởng ban. Trong thời gian này ông và ca sĩ
Mộc Lan yêu nhau và trở nên vợ chồng. Cặp danh ca Mộc Lan – Châu Kỳ rất
nổi tiếng thường xuất hiện trong các chương trình đại nhạc hội và chương
trình phụ diễn tân nhạc tại các rạp chiếu bóng.
Cuối
năm 1949, cặp ca sĩ Châu Kỳ - Mộc Lan được ông Thái Văn Kiểm, lúc ấy
là Giám đốc Thông tin Huế, mời về hát cho Đài phát thanh Huế. Tình nghệ
sĩ thường hay mong manh, năm 1952 cặp vợ chồng Châu Kỳ - Mộc Lan chia
tay nhau. Ông buồn bã một mình trở lại Saigon. Đây cũng là thời gian
buồn khổ khác của Châu Kỳ và ông đã viết lên những bản nhạc buồn như “Từ
giã kinh thành”, “Mưa rơi” (viết chung với Ưng Lang) và ông định cư tại
Saigon cho đến ngày nay. Ông tiếp tục hát cho các Đài phát thanhQuốc
Gia, Pháp Á và đi trình diễn trong các đại nhạc hội khắp nơi trong nuớc.
Sau đó, ông bị động viên và phục vụ trong đoàn Văn nghệ quân
đội.
Năm
1955, Châu Kỳ kết hôn với Kha Thị Đàng, một cô gái miền Nam. Hôn lễ
được cử hành tại nhà hang Trương Ký ở Chợ Lớn. Trong số khách tham dự có
rất nhiều ca, nhạc sĩ như Phạm Duy, Phạm Dình Chương, Hoài Trung, Thái
Thanh, Thái Hằng, Khánh Ngọc, Dương Thiệu Tước, Trần Văn Trạch, Thu Hồ,
Văn Phụng, Châu Hà, Hoàng Trọng, Thẩm Oánh… Đôi vợ chồng sống rất hạnh
phúc và có bốn người con, ba trai, một gá . Tất cả đều lập gia đình.
Ngoài những bản nhạc nêu trên, Châu Kỳ còn có những nhạc phẩm sau :
Khi ánh trăng vàng lên khơi, Chiều trên đồi thông, Cố đô yêu dấu, Đừng
nói xa nhau, Em không buồn nữ chị ơi, Khuya nay anh đi rồi, Lá vàng khóc
lá xanh rơi, Miền Trung thương nhớ, Giữa lòng đất mẹ, Tôi chưa có mùa
xuân, Đón xuân này nhớ xuân xưa, Sao chưa thấy hồi âm, Cánh nhạn hồi âm,
Con đường xưa em đi, Cuối đường kỷ niệm, Nước mắt quê hương, Em sắp về
chưa, Vào mộng cùng em, Được tin em lấy chồng…
Sau
1975, ông bán căn nhà cũ và chiếc xe Vespa dọn qua Tân Qui, Nhà Bè
trong căn nhà ọp ẹp với chiếc xe đạp cũ. Tại đây, ông đã sáng tác bài
“Bóng mát Tân Qui” lời ca Của Kiên Giang , “Một mình với ghi-ta”, “Giọt
đàn với giọt lệ”, "Bỏ phố lên rừng” , “Đôi dép ngược”…
6 - NHẠC SĨ LÊ MỘNG BẢO
Nhạc
sĩ Lê Mộng Bảo sinh năm 1923 tại Huế, trong một gia đình nho giáo gốc
Minh Hương. Năm 1940 lúc lên 17 tuổi, ông đã bắt đầu sống tự lập. Ông ra
Bắc làm việc cho tờ báo Tiếng Dân của cụ Huỳnh Thúc Kháng. Ông học chữ
Hán với cụ Phan Bội Châu, học nhạc với nhạc sĩ Đặng Thế Phong và Nguyễn
Văn Thương.
Năm 1944, ông trở về Huế và làm việc tại Sở Bưu điện Huế.
Năm
1945, ông thôi việc và mở một tiệm bán sách trên đường Trần Hưng Đạo.
Ông xuất bản nhạc phẩm “Quảng dường mai” của Nguyễn Hữu Ba và từ đó, ông
đi luôn vào ngành xuất bản âm nhạc. Vì công việc làm ăn nên ông thường
hay đi Hà Nội, do đó ông quen biết nhiều nhạc sĩ sống ở miền Bắc như Văn
Cao, Phạm Duy, Nguyễn Xuân Khoát, Bùi Công Kỳ, Lưu Hữu Phước, Nguyễn
Đình Phúc, v.v… Trong thời gian này, theo phong trào chống Pháp ông sáng
tác bản nhạc đầu tay “Không làm nô lệ”.
Name
1948 ông cộng tác với nhà xuất bản Tinh Hoa của ông Tăng duyệt, và
chính ông đã giúp ông Tăng Duyệt phát triển thành nhà xuất bản nhạc phẩm
uy tín nhất VN.
Năm
1952, ông Tăng Duyệt cử ông vào Saigon lập chi nhánh nhà xuất bản Tinh
Hoa 2 để xuất bản những nhạc phẩm của các nhạc sĩ miền Nam.
Năm
1956, nhà xuất bản Tinh Hoa Huế ngưng hoạt động, vì tình hình chính
trị thay đổi. Tại Saigon, một mình Lê Mộng Bảo khai trương nhà xuất bản
lấy tên là Tinh Hoa Miền Nam. Ông có tài kinh doanh nên ngoài việc xuất
bản ông còn phân phối nhạc phẩm đến tận các nhà sách và các nhà dù bán
nhạc trên các lề đường Saigon. Nhà xuất bản nhạc phẩm của ông là nhà
xuất bản VN đầu tiên có tên trong danh mục các nhà xuất bản nhạc quốc tế
“Worldwide music trade directory”.
Ông
có nhiều nhạc phẩm sáng tác như “Đổi thay”, "Mùa ve sầu”, “Phận
nghèo”, “Thân phận”, “Bọt bèo”, “Xa anh rồi”, “Không hiểu tại sao”, “Sao
lừa dối em”. Ông có sáng tác chung với các nhạc sĩ khác như Văn Phụng,
Mạnh Phát, Tô Kiều Ngân, Phạm Mạnh Cương… Ông cũng có bài tân cổ giao
duyên “Thân phận” soạn chung với soạn giả cải lương Quế Chi. Bản này
được thu thanh vào dĩa, qua giọng ca của Minh Vương và Thanh Kim Huệ.
Ông cùng các nhạc sĩ Lê Thương, Nguyễn Hữu Ba, Phạm Duy, Xuân Phát… thành lập Hội nhạc sĩ VN.
Năm
1973, ông cùng với nhac sĩ Văn Giảng, các ca sĩ Mộc Lan, Kim Tước phụ
trách lớp nhạc lý tại Viện khoa học giáo dục. Ông cùng với nhạc sĩ Song
Ngọc phụ trách chương trình “Hoa tình thương” trên Đài truyền hình VN và
đi lưu diễn tại các tiền đồn xa xôi. Ông cũng là chuyên viên báo chí,
thời Hoàng Đức Nhã làm Bộ trưởng Thông tin và Dân vận. Ông phụ trách tờ
báo “Lẽ sống” ở Saigon.
Sau 1975, ông đi học tập cải tạo đến 1981. Năm 1993 ông sang Hoa Kỳ theo diện HO và đang định cư tại Cali.
7 - NHẠC SĨ LÊ MỘNG NGUYÊN
Nhạc sĩ Lê Mộng Nguyên sinh năm 1930 tại Huế, trong một gia đình trí thức và yêu văn học, nghệ thuật.
Ông có người anh tên Lê Mộng Hoàng, là một ca sĩ có giọng ca Ténor nổi tiếng trong thập niên 40 của Đài phát thanh Huế. Nhưng
ông anh thích làm diễn viên điện ảnh hơn làm ca sĩ. Sau khi du học ở
Pháp về ngành điện ảnh, ông trở về VN đạo diễn phim “Bụi đời” và Lê
Mộng Nguyên viết nhạc cho phim.
Nhạc
sĩ Lê Mộng Nguyên sáng tác nhạc hồi còn rất trẻ, nhưng mãi đến năm 1948
ông mới cho ra mắt nhạc phẩm “Mừng Khánh Đản” nhân dịp khánh thành
chùa Từ Đàm Huế, “Vó ngựa giang hồ”, “Mùa lúa mới”, “Trường ca quân
tiến”…
Khi
ông 19 tuổi ông yêu tha thiết một cô gái Huế tên M. và chính người đẹp
này là nguồn cảm hứng để ông viết bài “Trăng mờ bên suối” (1949). Sáng
tác xong, ông gởi ngay cho nhạc sĩ Thu Hồ, lúc ấy đang là một ca sĩ nổi
danh của đài phát thanh Pháp Á, mặc dù trước đó hai người chưa hề quen
biết nhau. Thu Hồ đã thu thanh bản nhạc này với ban nhạc Trần Văn Lý. Từ
Huế, nhạc sĩ Lê Mộng Nguyên nghe giọng hát cũa Thu Hồ trình bày nhạc
phẩm của mình, với cái radio của người hàng xóm tên Lê Văn Hy, qua làn
sóng điện của đài Pháp Á. Từ đó ông tiếp tục gởi thêm những bài khác cho
Thu Hồ, và hai người trở nên đôi bạn thân cho đến cuối cuộc
đời.
Năm
1950, ông sang Pháp du học về ngành luật. Sau khi đỗ tiến sĩ ông dạy
tại Đại học Paris về Luật hiến pháp, Khoa học Chính trị và kinh tế.
Năm 1996, ông về hưu và được bầu vào Hàn Lâm Viện Khoa học hải ngoại Pháp.
Những nhạc phẩm của Lê Mộng Nguyên gồm có :
1948 - Mừng Khánh Đản, Mùa lúa mới, Vó ngựa giang hồ
1949 - Trăng mờ bên suối, Một chiều thương nhớ, Trọng Thủy Mỵ Châu, Chiều thu Mưa Huế.
1950 - Hoàng Hoa Thôn, Nhớ Huế, Bài thơ Huế, Cô gái Huế, Về chơi thôn Vỹ Dạ, Đôi mắt nhung, Mơ Đà Lạt, Ly hương.
1951 - Bên dòng sông Seine, Xuân tha hương , Lá thư cho mẹ, Trời Âu.
1957
- Bụi đời Người đã trở về. 1980 – Xuân về nhớ mãi quê hương . 1988 -
Chiề vàng trên chợ Đông Ba . 1991 – Quê tôi . 1992 - Kiếp giang hồ.
8 - NHẠC SĨ THU HỒ
Nhạc
sĩ Thu Hồ tên thật là Hồ Thu sinh ngày 14-10-1919 tại làng Tân Mỹ
(gần Thuận An), tỉnh Thừa Thiên. Ông có khiếu về âm nhạc và thơ lúc mới
12 tuổi. Ông là ca sĩ đầu tiên đưa những bài hát VN đầu tiên đến với
thính giả, là gạch nối giữa những bài hát Pháp lời Việt do cô Kim Thoa,
Thanh Tùng, Tư Chơi khởi xướng và các bài hát hoàn toàn VN. Thời gian
theo học tại trường trung học Pellerin, ông ở trọ tại nhà ông bác của
nhạc sĩ Trần Văn Lý và được nhạc sĩ truyền dạy cho nhạc lý Tây phương.
Ông rất thích hát những bài mà Tino Rossi hay hát. Ông cũng là ca sĩ đầu
tiên
hát trước công chúng tại Hội Chợ Huế bài “La chanson du gondolier”.
Năm
1943 ông làm trưởng ga xe lửa Dầu Giây. Xa quê , xa gia đình, ông nhớ
nhà, rồi nhớ đến hai câu ca dao “Chiều chiều ra đứng ngõ sau / Trông về
quê mẹ ruột đau chín chiều” khiến ông nhớ đến mẹ và viết nên bài “Quê
mẹ”. Tuy là tác phẩm đầu tay, nhưng lại là bài hát tiêu biểu trong sự
nghiệp âm nhạc của ông.
Năm
1947 ông tham gia vào ban “Thần Kinh nhạc đoàn ” với ban nhạc của nhạc
sĩ Trần Văn Lý và các ca sĩ như Châu Kỳ, Mộc Lan, Minh Diệu, Minh Tần,
Kim Nguyên, Mạnh Phát, Thu Thu, Vĩnh Lợi, vv …
Năm
1948 đài Pháp Á mở thêm chương trình tân nhạc VN và mời ông cộng tác.
Từ đó, tiếng hát cũng như tên tuổi của ông đã vang đi khắp nước. Ngoài
đài Pháp Á, sau này đổi tên thành Đài phát thanh Saigon ông còn hát cho
đài Quân Đội. Thu Hồ không chỉ là ca sĩ mà còn là nhà soạn kịch và diễn
viên sân khấu. Ông đã soạn trên một trăm vở kịch và cũng là diễn viên
trong các vở kịch như “Hai chàng một áo”, “Thầy lang bất đắc dĩ”, vv…
Thẩm Thúy Hằng đã mua những kịch bản của ông để diễn trên Đài truyền
hình.
Năm
1954 ông đi quân dịch, làm Trưởng ban tuyên truyền lưu động Đệ I Quân
khu đi ủy lạo binh sĩ ở các tiền đồn biên giới. Trong dịp này ông làm
bài “Khúc ca Đồng Tháp”.
Năm 1957, mãn hạn quân dịch, ông gia nhập ban văn nghệ “Vì dân” của Tổng nha Cảnh sát Quốc gia.
Từ
1959 đến 1970, ông là giáo sư âm nhạc các trường trung học ở Saigon
như Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Bá Tòng, Thiên Phước, Thánh Thomas… Ông là
thành viên của SACEM, hội âm nhạc của Pháp, trụ sở đặt tại Paris.
Thu Hồ còn là nhà thơ đưọc nhiều người mến mộ. Ông cho ra mắt tập thơ mang tên “Ánh bình minh” năm 1965.
Sau
năm 1975, ông kẹt lại ở Saigon. Năm 1990, Mỹ Hà con gái lớn của ông và
chồng là tài tử điện ảnh Trần Quang bảo lãnh gia đìng ông sang Hoa Kỳ.
Ông sống tại Santa Ana với người con thứ là ca sĩ Mỹ Huyền cho đến cuối
đời.
Năm
1993 ông và nhà thơ luật sư Ðỗ Đức Hậu được Hội Thi sĩ quốc tế
(International Society Of Poets) bầu là “Đại sứ thi ca hòa bình” trong
hội nghị thi ca họp tại Hoa Thịnh Đốn.
Để
đánh dấu nhạc phẩm “Quê mẹ” tròn 50 tuổi, một đêm ca nhạc mang tên “Đêm
quê mẹ” được tổ chức tại vũ trường Ritz tối 14-10-1993 tại Anaheim.
Trong dịp này ông cho ra mắt tuyển tập nhạc “Hoa bốn mùa” gồm 22 bản
nhạc ưng ý nhất của ông như “Quê mẹ”, “Tiếng sáo chiều quê”, “Sầu ly
biệt”, “Nhớ nhau”, “Tím cả rừng chiều”, “Cô nữ sinh Đồng Khánh”, “Tà áo
Trưng Vương”, “Mái tóc em gái Gia Long”, “Trăng huyền diệu” vv…
Một
tuần trước khi ông từ giã cõi đời, các bạn bè đã tổ chức một đêm dạ vũ
tương trợ dành cho ông tại Vũ trường Ritz. Theo ý nguyện của ông các
bạn trích ra 567$ góp vào quỹ tượng đài Chiến sĩ tự do.
Ông mất ngày 19-05-2000, hưỏng thọ 81 tuổi.
9 - NHẠC SĨ NGÔ GANH
Nhạc
sĩ Ngô Ganh chuyên về đàn Piano. Ông không để lại gì nhiều về sự nghiệp
âm nhạc của ông, chỉ vỏn vẹn vài ba bài nhạc như “Con chim non”,
“Chu Văn An”, “Trần Quốc Toản”, “Mưa dầm”, “Hương Bình”, “Hương Giang
dưới trăng”… Người dân xứ Huế chỉ biết ông là một nhà giáo và nhất là
lối sống bình dân,giản dị, hoạt bát, lạc quan mang tính khôi hài của
ông. “Thầy Ganh đi mô rứa hè ?” Đó là câu chào hỏi chân tình mà người
dân Huế dành cho ông. Mọi người đều gọi ông là “thầy Ganh” vì ông là
giáo sư âm nhạc
trường Đồng Khánh và Khải Định, hai trường Trung học lớn tiêu biểu cho
đất Thần Kinh thời bấy giờ. Dưới thời Tổng thống Ngô Đình Diệm ông giữ
chức Giám đốc Đài phát thanh Huế. Ông là người có công thành lập một đội
ngũ nhạc sĩ tân và cổ nhạc cho đài.
Ông
còn là nhà hoạt động chính trị kín đáo. Ban đầu ông gia nhập những tổ
chức theo khuynh hướng của cụ Phan Bội Châu. Một thời ông là hội viên
của nhóm Tinh Thần do Bác sĩ Nguyễn Tăng Nguyên lãnh đạo. Khi ông Trần
Văn Lý lên nắm chánh quyền thì nhạc sĩ Ngô Ganh có mặt trong danh sách
đảng Cần lao Cách mạng, ở Huế do ông Nguyễn Chí Kỉnh lãnh đạo (không
phải đảng Cần lao Nhân vị của ông Ngô Đình Nhu). Hai nhóm Nguyễn Tăng
Nguyên và Nguyễn Chí Kỉnh đã bí mật quyên góp tiền bạc giúp ông Ngô Đình
Diệm trên đường bôn ba hải ngoại.
Người
dân xứ Huế sống thân mật với Nhạc sĩ Ngô Ganhvì ông không ham danh lợi
và nhất là cái lối sống khác người của ông. Lối sống này đã ảnh hưởng
đến những người sống cận kề ông. Ta hãy nghe ông Tôn Thất Lan, học trò
cũ của Nhạc sĩ Ngô Ganh nói về cách sống và làm việc của ông :
“Tôi
kẻ những dòng nhạc và viết lên đấy những nốt đen, trắng, tròn… đầu tiên
lên bảng đen bằng phấn trắng vào năm 1950, lúc tôi theo học lớp Nhất
(lớp 5 bây giờ) trường Thượng Tứ, Huế. Thầy dạy nhạc của chúng tôi bấy
giờ là nhạc sĩ Ngô Ganh. Đầu thầy cắt ngắn, đã len lỏi nhiều đốm trắng,
bạc. Thầy vui tươi, hoạt bát va rất hóm hỉnh. Đó là phong cách rất “lạ
lùng” của thầy cô giáo thời đó. Dạy và học là hai việc làm song song
tuyệt đối nghiêm chỉnh, không hề có chút đùa nghịch hay dí dỏm nào.
Thầy, trò nhìn ngắm nhau bằng những đôi mắt “đứng tròng” trong thế người
thẳng đứng. Trong không khí khá nặng nề u uất đó
- ảnh hưởng còn vang vọng lại của một quan niệm phong kiến xa xưa, sự
xuất hiện linh hoạt, đầy ấn tượng của thầy Ganh quả là một sự kiện lạ
lung làm tất cả những cậu bé phải “làm mặt nghiêm” chúng tôi ngỡ ngàng
và vô cùng… sung sướng. Một vài chúng tôi mơ hồ cảm nhận rằng đời thật
sự là hồn nhiên, là vui tuơi mà sao chúng tôi lại bị bắt phải quên nụ
cười !
…Trên
bục giảng, thầy Ganh không giảng mà hát, vừa đi vừa làm điệu bộ…. Sau
thời gian “quen biết” ngắn ngủi, thầy trò xa nhau và chúng tôi cũng quên
mất thầy. Rồi sau đó nghe thầy làm Quản đốc Đài phát thanh Huế. Ở đây,
thầy lại cũng rất dí dỏm, thầy dùng chữ “deux couleurs” (hai màu) để phê
bình một giọng ca không rõ ràng tự nhiên, khi khan khan khi the thé.
Đặc biệt là thầy có minh họa rất tài tình và độc đáo “36 nụ cười”, trong
đó có nụ cười “rửa đọi”, nụ cười “mở nút chai”, nụ cười “Xé áo” thật
độc đáo mà ai nghe cũng cười.
Có
nhiều giai thoại về thầy Ganh, hay đúng hơn về tính hay diễu cợt, châm
biếm mà nhiều người không quên. Lối đặt tên của thầy thật ngẳng đời làm
người nghe - những người trong cuộc - rất khó chịu, bị “chơi” mà không
nói được. Thầy nuôi hai con chó, một con mang tên “Ỷ thế” , một con “Ba
láp” (bậy bạ). Khi có những người khách là quan viên chức không được
mời… , thầy thường kêu hai con chó ra la rầy “Đồ ỷ thế” (cậy quyền),
“Đồ ba láp”.
Nhà
thầy có hai người giúp việc đều mang tên rất đẹp, rất khuê các như
Tuyết Mai, Kim Ngọc, hay đại loại như thế trong khi con gái của thầy thì
lại mang những tên rất bình dị, dân dã như Xoài, Mít, Ổi… khách rất đỗi
ngạc nhiên khi được giới thiệu con gái và người giúp việc của thầy,
tình thế thật tréo cẳng ngỗng……
Món
quà thầy Ngô Ganh biếu cho các thế hệ mai sau là một lối sống bình dị,
lạc quan, một phong cách tự nhiên hài hước giúp cho mọi người vào thập
niên 40, 50 quên đi, bỏ đi một quan niệm sai lầm của xã hội phong kiến,
trong đó người nghệ sĩ - người làm đẹp cuộc đời – là “xướng ca vô loại”.
Đáng buồn và đáng giận thay!”
Ông mất năm 1980 trong cảnh nghèo khổ, trong sự quên lãng của nhiều người.
10 - NHẠC SĨ ĐỖ KIM BẢNG
Nhạc sĩ Đỗ Kim Bảng gốc Quảng Nam, sinh năm 1932 tại Huế. Ông
là bạn đồng khoá với nhạc sĩ Phạm Mạnh Cương từ trường trung học Khải
Định cho đến trường Cao đẳng Sư phạm và Đại học Văn khoa Hà Nội. Ông
học đàn với nhạc sĩ Lê Quang Nhạc, học lóm nhạc lý Tây phương với nhạc
sĩ Văn Giảng và học thêm cổ nhạc với nhạc sĩ Nguyễn Hữu Ba. Những năm
học trung học ông tham gia sinh hoạt văn nghệ trong trường và trong Gia
đình Phật tử với các bạn như Phạm Mạnh Cương, Hồ Đăng Tín, Hoàng
Nguyên, Kiêm Đạt, Diên Nghị, Tạ Ký
(thơ), Minh Tuyền (nhiếp ảnh), Lữ Hồ (văn học)…
Năm 1949, ông sáng tác ca khúc “Mục Kiền Liên” và trình bày trong mùa Vu Lan tại Huế.
Năm 1951, ông làm bài “Mùa th ” được ban hợp ca Thăng Long dựng thành nhạc cảnh và trình diễn nơi ở trong nước.
“Hôm nay mùa thi , bao nhiêu người đi
Xe rộn ràng, lớp ồn ào, niềm vui vấn vương.
Thi ơi là thi, sinh mi làm chi ,
“bay” nghẹn ngào, “bám” ồn ào, buồn vui vì mi” .
Sau
đó được ban Gió Nam của nghệ sĩ Trần Văn Trạch cùng ban Thăng Long
trình diễn “Mùa thi” tại Hà Nội năm 1954. Ban Thăng Long đã làm bài hát
này nổi tiếng và đưa tên tuổi ông đến giới hâm mộ nhạc VN.
Năm
1953, ông ra Hà Nội học tại Đại học Văn khoa và Cao đẳng Sư phạm. Trong
thời gian này ông học thêm âm nhạc với nhạc sĩ Hùng Lân. Cuối năm 1954,
ông di cư vào Saigon .
Năm
1955, ông tốt nghiệp Cao đẳng Sư Phạm, được bộ Giáo dục biệt phái sang
bộ Quốc phòng và dạy tại trường Võ bị Quốc Gia Đà Lạt từ 1955 đến
1960. Trong thời gian này ông sáng tác bản “Khúc hát ngày mai” được ban
Thăng Long trình bày trên đài phát thanh Saigon và đài Quân đội.
Năm
1960 về lại bộ Giáo dục ông dạy tại trường Trần Lục rồi Nguyễn Du.
Trong năm này ông cho ra đời bài “Mưa đêm ngoại ô” và năm 1963 bài “Bước
chân chiều Chủ nhật” do Thanh Thúy hát.
Năm
1965 ông nhập ngũ khóa 21 trường Võ bị Thủ Đức. Ra trường với cấp bậc
chuẩn úy, ông làm việc dưới quyền của thi sĩ Tô Kiều Ngân, lúc ấy là đại
úy Trưởng phòng và thi sĩ Tô Thùy Yên, trung úy phụ tá Trưởng phòng của
Phòng Văn nghệ Cục Tâm lý chiến. Tại đây ông cùng làm việc với các nhạc
sĩ khác như Lam Phương, Duy Khánh, Trầm Tử Thiêng, Song Ngọc, Phạm Minh
Cảnh, Anh Việt Thu, vv… Cùng phục vụ trong Cục Tâm lý chiến ông cũng đã
gặp và quen biết các nhạc sĩ cùng các văn, nghệ sĩ như Trần Trịnh,
Trần Thiện Thanh, Mai Trung Tỉnh, Tường Linh, Du Tử Lê, Phạm Lê Phương,
Tạ Tỵ….Cũng trong thời gian này ông viết bản trường ca “Những
người đi giữ quê hương” được Ban hợp ca Quân đội trình bày tại rạp
Thống Nhất nhân ngày Quân lực VNCH năm 1969, dưới sự điều khiển của nhạc
sĩ Vũ Minh Tuynh và Ngô Mạnh Thu .
Năm
1969 ông được biệt phái về lại bộ Giáo dục và tiếp tục dạy học cho đến
tháng 4-1975. Sau đó, ông đi học tập cải tạo đến năm 1978.
Năm
1980, ông vượt biên rồi được định cư tại Hoa Kỳ. Ông đi học lại nghề cũ
và dạy học ở Boston cho đến 1999 th2 về hưu. Trong thời gian ở Mỹ ông
phổ nhạc bài thơ “Tháng ba đi hành quân” của Trần Hoài Thư.
Ngoài những nhạc phẩm nêu trên ông còn những sáng tác khác như : Mưa đêm ngoại ô, Sương đêm, Vòng tay giữ trọn ân tình, Vui dựng gia đình, Xin dìu nhau đến tình yêu.
11 - NHẠC SĨ HOÀNG NGUYÊN
Nhạc
sĩ Hoàng Nguyên tên thật là Cao Cự Phúc sinh ngày 03-01-1932 tại
Quảng Trị, nhưng lớn lên và học hành tại Huế. Ông mất ngày 21-08-1973
tại Saigon trong một tai nạn xe cộ lúc ông 41 tuổi là lúc tài năng
sáng tác đang lên.
Ông
học trung học tại trường Quốc Học Huế, đậu Cử nhân Anh văn tại Đại học
Saigon, dạy anh văn và âm nhạc tại Đà Lạt, Vĩnh Long, Saigon.
Ông
phụ trách ban nhạc đại hòa tấu “Hương thời gian” trên Đài truyền hình
VN và chương trình “Tiếng thời gian” trên Đài phát thanh Saigon.
Ông
có nhiều kỷ niệm với Đà Lạt và hai nhạc phẩm nói về miền cao nguyên này
là “Ai lên xứ hoa đào”, “Bài thơ hoa đào” trở thành tác phẩm tiêu biểu
của ông. Hai tác phẩm này hiện nay được nữ ca sĩ Ánh Tuyết trình bày rất
thành công, đã làm rung động những tâm hồn yêu nhạc. Nhạc đã hay mà lời
lại như thơ.
Ai lên xứ hoa đào dừng chân bên hồ nghe chiều rơi
Ai lên xứ hoa đào dừng chân bên hồ nghe chiều rơi
Nghe hơi gió len vào hồn người chiều xuân mây êm trôi
Thông reo bên suối vắng lời dặt dìu như tiếng tơ
Xuân đi trong mắt biếc lòng dạt dào nên ý thơ
Nghe tâm tư mơ ước chuyện Đào nguyên đẹp như chuyện ngày xưa …
Về
xứ Huế, ông đã để lại cho đất Thần Kinh nhạc phẩm “Tà áo tím”, một bài
hát trữ tình lãng mạn, êm đềm, thơ mộng và đã được ca sĩ Hà Thanh ru
vào lòng người :
Một chiều lang thang bên dòng Hương Giang
Tôi gặp một tà áo tím nhẹ thấp thoáng trong nắng vương
Màu áo tím sao luyến thương, màu áo tím sao vấn vương
Rồi lòng bâng khuâng theo màu áo ấy, màu áo tím hôm nào
Tình quyến luyến ban đầu, chập chờn tâm tư màu áo thoáng chiêm bao…
Những
ca khúc khác của Hoàng Nguyên gồm có : Anh đi mai về, Anh đi về đâu,
Bài Tango riêng cho em, Cho người tình lỡ, Đường nào em đi, Đường nào
lên Thiên thai, Duyên nước tình trăng, Em chờ anh trở lại, Lá rụng ven
sông, Lời dặn dò, Sao em không đến, Thuở ấy yêu nhau.
12 - NHẠC SĨ NHỊ HÀ
Nhạc
sĩ Nhị Hà tên thật là Lê Quang Mại, sinh ngày 24-08- 1935 tại Quảng
Bình, nhưng lớn lên tại Huế và học trường trung học Khải Định. Sau khi
đỗ Tú tài 2, ông vào Saigon. Sáng tác của ông không nhiều, nhưng mọi
người đều biết tên ông qua nhạc phẩm “Mẹ tôi”, và nhất là từ khi ca sĩ
Như Quỳnh hát bài này trên sân khấu Thúy Nga.
Mẹ tôi tóc xanh nhuộm bạc tháng ngày
Mẹ tôi đau buồn nặng trĩu đôi vai
Bao năm nuôi đàn trẻ thơ nhỏ dại
Cầu mong con mình có một ngày mai…
Nhạc
phẩm thứ hai của Nhị Hà được nhiều người biết đến lá bài “Trở về thôn
cũ” nói lên cảnh quê hương điêu tàn đổ nát vì sự tàn phá của chiến tranh
trong thời chống Pháp :
Nhưng sao hôm nay tôi trở lại quê xưa
Tuy con sông xưa vẫn êm đềm uốn quanh
Còn đâu đồng xanh, còn đâu gia đình
Còn đâu bóng hình mẹ già mến yêu…
Ngoài hai tác phẩm tiêu biểu trên, ông còn sáng tác các bài như : Đừng trách người đi, Lá thư xuân, Nhớ một mùa hoa…
13 - NHẠC SĨ LÊ CAO PHAN
Nếu
không có bài hát “Phật giáo Việt Nam” được dùng làm bài ca chính thức
cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, thì rất ít người VN biết đến
nhạc sĩ Lê Cao Phan.
Phật giáo Việt Nam thống nhất Bắc, Nam, Trung từ đây
Một lòng chúng ta tiến lên vì Đài Sen…
Trước
đây, ông chỉ sáng tác những ca khúc vui tươi dành cho thiếu nhi, cho
học sinh, nên thường những ai làm nghề nhà giáo mới biết đến ông. Các
bài hát vui của ông dành cho thiếu nhi gồm có : Bài ca tình bạn, Ca múa
học vui, Hai chú gà con, Nhi đồng múa ca, Ra chơi, Tập tầm vông, Tiếng
còi đánh thức, Vui đi học.
14 - NHẠC SĨ LÊ QUANG NHẠC
Hiện
nay người ta chỉ biết nhạc sĩ Lê Quang Nhạc là người Huế. Ông là giáo
sư âm nhạc của vài trường trung học ở cố đô, đồng thời là nhạc sĩ dương
cầm trong ban nhạc của Đài phát thanh Huế trong thập niên 50. Tác phẩm
duy nhất của ông còn lại đến bây giờ là nhạc phẩm “Xa quê”.
15 - NHẠC SĨ PHẠM MẠNH CƯƠNG
Nói
đến nhạc sĩ Phạm Mạnh Cương , người yêu nhạc nhớ đến “Thu ca”, một
trong những ca khúc được thu thanh nhiều nhất từ trong nước đến hải
ngoại, và cũng là nhạc hiệu quen thuộc của những chương trình ca nhạc
của ông tại các Đài phát thanh và truyền hình Saigon trước năm 1975.
Nhạc
sĩ Phạm Mạnh Cương sinh quán tại Huế, tỉnh Thừa Thiên. Ông theo học bậc
trung học tại trường Khải Định, đỗ Tú tài 2 năm 1953. Sau đó, ông ra
Hà Nội tiếp tục việc học, tốt nghiệp Cao đẳng Sư phạm và Cử nhân Văn
khoa 1955.
Từ 1955 đến 1958, ông là giáo sư tại trường trung học Nguyễn Đình Chiểu, Mỹ Tho.
Từ
1958 đến 1975, ông là giáo sư môn triết và môn văn tại trường trung học
công lập Pétrus Ký và các trường tư thục lớn ở Saigon như Văn Học,
Nguyễn Văn Khuê, Bồ Đề, Hưng Đạo, Văn Lang, Lê Bảo Tịnh, Huỳnh Thị Ngà,
Thượng Hiền…
Từ
1960 đến 1975, ông vừa dạy học vừa hoạt động âm nhạc. Ông là trưởng ban
các chương trình “Hoa thời đại” của Đài Phát thanh Saigon, “Tiếng hát
hậu phương”, “Nghệ sĩ và chiến sĩ” của Đài Tiếng nói Quân đội, “Chương
trình Phạm Mạnh Cương” của Đài truyền hình. Ông còn là giám đốc trung
tâm “Tú Quỳnh”, một trung tâm băng nhạc quy mô đầu tiên tại Saigon.
Năm
1980, ông rời Việt Nam và định cư tại thành phố Montreal, tỉnh Quebec,
Canada. Ông tiếp tục hoạt động văn nghệ : thành lập ban nhạc Phạm Mạnh
Cương với hai người con là nhạc sĩ Phạm Mạnh Quỳnh và Phạm Lê Diễm Phúc.
Đồng thời ông là chủ biên nguyệt san Thẩm Mỹ từ năm 1994 đến nay.
Một
số nhạc phẩm nổi tiếng của ông đã xuất bản và thu thanh tại VN trước
1975 : Thung lũng hồng, Mắt lệ cho người tình, Tóc em chưa úa nắng hè,
Thương hoài ngàn năm, Tình yêu đã mất, Giã từ cố đô, Về thăm cố đô, Loài
hoa không vỡ, Tháng bảy mưa ngâu, Sầu ly biệt, Nhạc khúc mừng xuân, Thu
về trong mắt em…
Tháng
04-2003, nhạc sĩ Phạm Mạnh Cương đã được trung tâm Thúy Nga mời xuất
hiện trên băng Vidéo “Paris By Night 70”, chủ đề “Thu ca” cùng với hai
nhạc sĩ Lê Dinh và Trường Sa.
16 - NHẠC SĨ TRỊNH CÔNG SƠN
Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn sinh ngày 28-02-1939 tại Lạc Giao (cao nguyên
miền Trung) trong một gia đình trung lưu gốc Thừa Thiên. Ông lớn lên
tại Huế và đỗ Tú tài ban triết học ở trường Chasseloup Laubat Saigon.
Ông tự học nhạc, học sáng tác không qua một trường lớp nào cả. Trong
thập niên 60, nhạc của ông xuất hiện như một ngôi sao sáng trong vòm
trời âm nhạc VN. “Ướt mi” là tác phẩm đầu tay được sáng tác năm 1958 .
Ông mất ngày 01-04-2001 tại Saigon.
Tác
phẩm âm nhạc của ông có trên 600 ca khúc, với nội dung gồm 3 khuynh
hướng : tình yêu, quê hương (mà người ta thường gọi là nhạc phản chiến)
và thân phận. Nhạc của ông có nhiều cái hay cái lạ, không cầu kỳ, không
ngoại lai, không ồn ào, luôn luôn giữ được bản sắc dân tộc. Nhạc của ông
không bài nào giống bài nào, cũng không tương tự với một nhạc phẩm nào
của người khác. Mỗi bài hát của T.C.Sơn có một nét độc đáo riêng. Ngay
cả lời ca trong nhạc T.C.S. cũng có một sắc thái riêng, không giống với
các nhạc sĩ khác. Lời ca của TCS không sống sượng theo lối tả chân,
không văn chương theo lối mòn sáo rỗng hay rập khuôn theo những
qui ước có sẵn. TCS có lối sử dụng ngôn ngữ một cách khéo léo, mới lạ
để diễn tả một thứ tình cảm lâng lâng, mơ hồ, phải nhờ cảm tính người ta
mới hiểu được. Ví dụ TCS nói đến tình yêu đôi lứa mà không dùng đến chữ
“yêu” vì đã có bàn tay, mái tóc, đôi mắt… nói hộ cho rồi :
Mưa vẫn mưa bay trên từng tháp cổ
Dài tay em mấy thuở mắt xanh xao
Nghe lá thu mưa reo mòn gót nhỏ
Đưòng dài hun hút cho mắt them sâu…
(DIỄM XƯA)
Lùa nắng cho buồn vào tóc em
Bàn tay xanh xao đón ưu phiền
Ngày xưa sao lá thu không vàng
Và nắng chưa vào trong mắt em…
(NẮNG THỦY TINH)
Mỗi
bài ca là một bài thơ. Ngoài chất thơ ra trong nhạc TCS còn mang chút
triết lý về thân phận con người, hạnh phúc, khổ đau, lẽ vô thường của
kiếp sống :
Bao nhiêu năm làm kiếp con người
Chợt một chiều tóc trắng như vôi
Lá úa trên cao rụng đầy
Cho trăm năm vào chết một ngày…
(CÁT BỤI)
Có điều gì gần như niềm tuyệt vọng
Sông bao lần sông đã ra đi
Những ngàn năm trôi đến bây giờ
Sông ra đi hay mới bước về …
(GẦN NHƯ NIỀM TUYỆT VỌNG)
Ôi tiếng buồn rơi đều
Nhìn lại mình đời đả xanh rêu…
(TÌNH XA)
TCS
đã từ giã cõi đời, ông đã trở về với “Cát bụi”, “Một cõi đi về” của
kiếp con người vì ông cũng chỉ là một “Đóa hoa vô thường”. Đường trần
ông đã đi qua, “Dấu chân địa đàng” ông để lại là một gia tài âm nhạc
tuyệt vời gồm có các tuyển tập :
1967 – Ca khúc Trịnh Công Sơn - Tình Khúc Trịnh Công Sơn - Ca khúc da vàng .
1968 – Kinh Việt Nam
1969 – Ca khúc da vàng 2 - Ta phải thấy mặt trời .
1972 – Như cánh vạc bay - Cỏ xót xa đưa - Khói trời mênh mông - Tự tình khúc - Phụ khúc da vàng.
1973 - Lời đất đá cũ - Nhân danh việt Nam.
1989 - Một cõi đi về .
1991 – Em còn nhớ hay em đã quên - Cho con.
1992 - Lời của dòng sông - Khói trời mênh mông 2.
1993 – Bên đời hiu quạnh - Trong nỗi đau tình cờ - Thuở ấy mưa hồng.
1995 - Những bài ca không năm tháng.
1999 - Tuyển tập ca khúc Trịnh Công Sơn 1, 2, 3, 4, 5, 6.
Ngoài
các nhạc sĩ chào đời ở Huế hoặc lớn lên và học hành tại Huế, còn có
những nhạc sĩ tuy không sinh ra ở Huế nhưng có một thời gian sống hoặc
làm việc ở đây, rất nặng lòng với đất cố đô và đã sáng tác nhiều ca khúc
bất hủ dành cho xứ Huế. Trong số nhạc sĩ này ta có Duy Khánh, Hoàng Thi
Thơ, Dương Thiệu Tước, v.v…
17 - NHẠC SĨ DUY KHÁNH
Nhạc
sĩ Duy Khánh tên thật là Nguyễn Văn Diệp, sinh năm 1936 tại làng An
Cư, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Ông thuộc dòng họ quan phụ chánh
đại thần Nguyễn Văn Tường triều Nguyễn. Tuy không sống ở Huế nhưng Quảng
Trị rất gần với cố đô, nên ông thường lui tới với các bạn bè ở đây. Ông
rất nặng tình với xứ Huế và là người nhạc sĩ có nhiều nhạc phẩm nói về
quê hương miền Trung của ông như : Ai ra xứ Huế, Sầu cố đô, Nén hương
yêu, Sao không thấy anh về, Thương về miền Trung, Bao giờ em quên, Biết
trả lời sao, Lối về đất mẹ, Huế đẹp Huế
thơ.
Những
ngày cuối đời, ông sống tại Hoa Kỳ và cho xuất bản hai tập nhạc gồm
những nhạc phẩm được sáng tác từ trước đến nay. Tập 1 mang tựa đề “Huế
đẹp và thơ”, tập 2 “Nỗi niềm riêng”.
Ngày
10-01-2003, một buổi dạ vũ mang tên “Tạ tình tiếng hát và dòng nhạc Duy
Khánh” được tổ chức tại vũ trường Majestic, thành phố Huntington Beach,
quận hạt Orange County, để nhớ công lao của ông đã đóng góp cho nền âm
nhạc VN.
18 - NHẠC SĨ HOÀNG THI THƠ
Nhạc
sĩ Hoàng Thi Thơ sinh ngày 01 – 07 – 1928 tại làng Bích Khê, phủ
Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Ông học trung học tại Huế. Ông theo kháng
chiến một thời gian, sau đó vào Saigon lập nghiệp và sinh hoạt âm nhạc
cho đến 1975. Sự
đóng góp to tát của ông cho nền âm nhạc VN mọi người đều biết. Vì quê ở
miền Trung, nên nhạc của ông cũng mang âm hưởng tiếng hò giọng hát miền
Trung. Riêng về xứ Huế, ông có những nhạc phẩm như “, Chiều cố đô”,
Tâm tình gửi Huế, ”…
Năm
1975, khi biến cố 30-04 xảy ra, lúc đó, ông đang hướng dẫn đoàn văn
nghệ VN trình diễn ở Nhật. Sau đó ông định cư tại Hoa Kỳ và mất ngày 23
– 09 – 2001 tại Glendale , Nam Cali , thọ 74 tuổi .
19 - NHẠC SĨ DƯƠNG THIỆU TƯỚC
Ông
là nhạc sĩ gốc miền Bắc nhưng nổi danh qua hai bản nhạc miền Trung :
‘Tiếng xưa” và “Đêm tàn Bến Ngự”. Ông sinh ngày 15 – 05 – 1915 tại
làng Vân Đình , huyện Sơn Lãng , phủ Ứng Hòa , tỉnh Hà Đông, trong một
gia đình nho học truyền thống. Năm
1930 ông gia nhập nhóm Myosotis, là nhóm nhạc sĩ đầu tiên khởi xướng
tân nhạc VN. Ông chủ trương viết “nhạc Tây theo điệu ta”. Trong thời
gian ông và vợ, là ca sĩ Minh Trang, vào Huế thăm bạn bè đồng thời
nghiên cứu về dân ca Huế và cổ nhạc miền Trung, ông đã dùng ký âm pháp
Tây phương ghi lại một cách
chính xác những câu hò, điệu hát của địa phương như hò mái đẩy, ca Huế,
nhạc cung đình… Cái âm hưởng buồn mênh mông của cổ nhạc Huế bắt nguồn
từ tiếng hát ai oán của người dân Chàm mất nước đã ảnh hưởng đến người
nhạc sĩ miền Bắc, và ông đã sáng tác bản “Tiếng xưa”. Rồi trong một đêm
trăng ông cùng các bạn nghệ sĩ tổ chức đi thuyền ca hát trên sông Hương,
một thú vui tao nhã của các văn nhân, nghệ sĩ lúc bấy giờ. Đêm về
khuya, mọi người đều đã an giấc trong khoang thuyền. Không ngủ được, ông
ra mũi thuyền ngồi ngắm trăng. Giữa cảnh im lặng trời nước mênh mông,
nhìn những con đò cập bến sát bên nhau khiến ông bâng khuâng, cảm hứng
dạt dào, ông liền lấy sổ tay ra ghi chép và viết nên nhạc phẩm “Đêm tàn
Bến
Ngự”. Hai ca khúc bất hủ này trở thành tác phẩm tiêu biểu ông. .
No comments:
Post a Comment