Theo sự hiểu biết của người viết bài này, tài liệu của James Nach là một trong hai tài liệu duy nhất của người Mỹ nghiên cứu về hệ thống đào tạo sĩ quan và xuất thân của sĩ quan QLVNCH. Năm 1970, cơ quan Advanced Research Projects Agency (một cơ quan nghiên cứu thuộc Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ) có thực hiện một nghiên cứu với tựa đề An Institutional Profile of the South Vietnamese Officer Corps. Tuy nhiên, nghiên cứu này có tính cách chính trị nhiều hơn là lịch sử, vì tài liệu chỉ nói đến hệ thống sĩ quan tướng lãnh và phân loại họ có chiều hướng theo “phe” nào trong thời điểm đó. (i)
Tài liệu của James Nach được viết ở Sài Gòn và gởi về Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ với sự chuẩn hành của Ðại Sứ Graham Martin. Vì tài liệu nằm trong dạng công văn, nên chỉ được lưu trữ trong văn khố hay các trung tâm nghiên cứu về Việt Nam. Bài viết dưới đây sơ lược lại những chi tiết lý thú của tác giả James Nach trong The National Military Academy and Its Prominent Graduates, và, Origins of the Vietnamese National Army, Its Officer Corps and Its Military Schools. (ii)
Trong phần nghiên cứu về Trường Võ Bị Quốc Gia và Những Sĩ Quan Tốt Nghiệp Danh Tiếng, James Nach sơ lược lại sự thành hình của trường Võ Bị Quốc Gia. Hai khóa đầu tiên Trường Sĩ Quan Hiện Dịch bắt đầu ở Huế, Khóa 1 tháng 12, 1948, và Khóa 2 tháng 9, 1949. Tháng 10, 1950 trường dọn về Ðà Lạt và bắt đầu Khóa 3, với tên mới là Trường École Militaire Inter-Armes de Dalat. (iii) Trường chánh thức đổi lại thành Trường Võ Bị Liên Quân sau khi người Pháp rời Việt Nam năm 1955, và trở thành Trường Võ Bị Quốc Gia từ tháng 4 năm 1963 cho đến khi giải tán (Sắc Lệnh 325-QP, 10.4.1963).
Hai Khóa 1 Phan Bội Châu (53 sĩ quan tốt nghiệp) và Khóa 2 Quang Trung (97 tốt nghiệp) ở Huế ra trường một số sĩ quan sau này trở thành những tướng lãnh quan trọng của đầu thập niên 1960. Thủ khoa Khóa 1 là Trung Tướng Nguyễn Hữu Có; Khóa 2 là Thiếu Tướng Hồ Văn Tố (chết bất thình lình năm 1961 trong lúc chỉ huy Liên Trường Võ Khoa Thủ Ðức). Những tướng lãnh tốt nghiệp Khóa 1 như các Trung Tướng Ðặng Văn Quang, Tôn Thất Ðính, Nguyễn Văn Thiệu, Trần Văn Trung. Một số sĩ quan cấp thiếu tướng và chuẩn tướng như Bùi Ðình Ðạm, Phan Xuân Nhuận, Tôn Thất Xứng, Nguyễn Văn Chuân. Khóa 2 có chín sĩ quan trở thành Tướng lãnh: Trung Tướng Ngô Dzu và Nguyễn Văn Mạnh; các Thiếu Tướng Trần Thanh Phong; Huỳnh Văn Cao; Hoàng Văn Lạc; Lê Ngọc Triển; và Chuẩn Tướng Lê Trung Tường. Trung Tá Vương Văn Ðông, một trong những nhân vật chủ mưu đảo chánh 11 tháng 11, 1960, cũng ra từ Khóa 2 này.
Khóa 3 Trần Hưng Ðạo có 135 sĩ quan tốt nghiệp. Ðây là khóa đầu tiên khai giảng ở Ðà Lạt. Có 9 sĩ quan trở thành cấp tướng – cấp tướng hạng “nặng ký.” Khóa có 4 Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm (tư lệnh Quân Ðoàn I, tốt nghiệp hạng 5), Nguyễn Xuân Thịnh (tư lệnh Binh Chủng Pháo Binh, hạng 8), Lâm Quang Thi (tư lệnh Tiền Phương Quân Ðoàn I, hạng 12); và Lữ Lan (tư lệnh Quân Ðoàn II, hạng 24). Hai sĩ quan tốt nghiệp trở thành tướng của quân chủng Không Quân là Chuẩn Tướng Võ Dinh (tham mưu trưởng Không Quân VNCH) và Chuẩn Tướng Nguyễn Ngọc Oánh (chỉ huy trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân). Hai Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu (Á khoa, tư lệnh Phó Quân Ðoàn III, khi bị tai nạn súng chết) và Lâm Quang Thơ. Tướng Thơ và Thi đều trở về trường mẹ, làm chỉ huy trưởng trường Võ Bị Quốc Gia.
Từ Khóa 4 (Khóa Lý Thường Kiệt, tháng 11.1951 – tháng 12.1951) đến Khóa 10 (Khóa Trần Bình Trọng, tháng 10.1953 – tháng 6.1954) trường đào tạo thêm 23 tướng lãnh. Phần lớn là những tướng hành quân/tác chiến, hơn là tướng tham mưu/hành chánh. Khóa 4 có hai trung tướng là Nguyễn Văn Minh (tư lệnh QÐ III, 1972) và cố Trung Tướng Nguyễn Viết Thanh (tư lệnh QÐ IV khi tử nạn tháng 5, 1970). Hai sĩ quan kia là Chuẩn Tướng Ðỗ Kiến Nhiểu (Ðô Trưởng Sài Gòn) và Thủ khoa Nguyễn Cao Albert (giải ngũ). Riêng tên của cố Trung Tướng Nguyễn Viết Thanh được đặt cho hai khóa tốt nghiệp sĩ quan của QLVNCH: Khóa 6/1970 Liên Trường Võ Khoa Thủ Ðức, và Khóa 26 Võ Bị Quốc Gia Ðà Lạt.
Khóa 5 Hoàng Diệu (8.1951 – 5.1952), với 225 sĩ quan tốt nghiệp, là khóa đào tạo nhiều tướng lãnh nhất: 10 sĩ quan cấp Tướng. Các trung tướng Nguyễn Văn Toàn; Nguyễn Vĩnh Nghi; Phạm Quốc Thuần; Dư Quốc Ðống; Phan Trọng Chinh. Hai thiếu tướng Trần Bá Di và Ðỗ Kế Giai. Các chuẩn tướng Trần Văn Cẩm; Chương Dzếnh Quay; Lê Văn Tư. Có ba đại tá tốt nghiệp khóa này cũng được nhắc đến nhiều là Dương Hiếu Nghĩa (thủ khoa, liên hệ đến vụ đảo chánh 1.11.1963); Phạm Văn Liễu (ra trường hạng 19, liên hệ đến nhiều vụ đảo chánh); và Lê Ðức Ðạt (hạng 20, tư lệnh Sư Ðoàn 22 Bộ Binh khi bị mất tích ở Tân Cảnh tháng 4, 1972).
Khóa 6 Ðinh Bộ Lĩnh (12.1951 – 10.1952; 181 sĩ quan tốt nghiệp) có ba chuẩn tướng Lý Tòng Bá (Thủ khoa); Trần Quang Khôi (hạng 6); và Trần Ðình Thọ (hạng 79). Nhà văn Trung Tá Nguyễn Ðạt Thịnh cũng đến từ khóa này.
Khóa 7 có Chuẩn Tướng Trương Quang Ân (Thủ khoa, tử nạn trực thăng năm 1968); Lê Văn Thân; và Trần Văn Hai.
Khóa 8 có Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, và Chuẩn Tướng Huỳnh Thới Tây (tư lệnh Cảnh Sát Ðặc Biệt).
Khóa 9 không có sĩ quan tốt nghiệp nào lên tướng.
Khóa 10 Trần Bình Trọng (10.1953 – 6.1954) là khóa đông nhất của 10 khóa đầu tiên, với 400 sĩ quan tốt nghiệp. Thiếu Tướng Lê Minh Ðảo (hạng 18); hai chuẩn tướng Vũ Văn Giai và Trần Văn Nhật.
Mười khóa đầu của trường Võ Bị Quốc Gia đào tạo tất cả 40 tướng trong số 80 tướng hiện dịch của năm 1974 (80 tướng hiện dịch không kể tướng của quân chủng Hải Quân hay ngành Quân Y).
Trong khi 10 khóa đầu đào tạo nhiều tướng lãnh chỉ huy của QLVNCH, các Khóa 11 đến 20 đào tạo nhiều sĩ quan trung cấp, cột trụ của quân đội. Những sĩ quan cấp trung tá và đại tá của Khóa 14-18 hiện diện và chỉ huy hầu hết các đơn vị chủ lực của QLVNCH. (iv) Khóa 16 Ấp Chiến Lược (226 sĩ quan tốt nghiệp; Thủ khoa Bùi Quyền) có nhiều sĩ quan đã lên đến cấp bậc trung tá hay đại tá, chỉ huy Trung Ðoàn hay Lữ Ðoàn trong quân đội.
Hai Khóa 19 và 20 thì có nhiều sĩ quan tiểu đoàn trưởng. Khóa 19 có 394 sĩ quan tốt nghiệp và là khóa kém may mắn nhất: ba sĩ quan vừa tốt nghiệp vài ngày đã tử trận ngay ở chiến trường, trong đó Thủ khoa Võ Thành Kháng (trận Bình Giả). Khóa 20 được coi là đông nhất (406 tốt nghiệp; Thủ khoa Trần Thanh Quang). Khóa 22B là khóa đầu tiên ra trường với trình độ văn hóa bốn năm. Nhưng khóa cũng không được may mắn khi Thủ khoa Nguyễn Thanh Phóng bị tử trận vài tháng sau đó, trong cuộc hành quân đánh qua đánh qua Cam Bốt năm 1970.
Origins of the Vietnamese National Army, Its Officer Corps and Its Military Schools
Ðây là tài liệu nghiên cứu về Lịch Sử Quân Ðội Quốc Gia, hệ thống sĩ quan, và các trường huấn luyện quân sự. Tác giả James Nach đi ngược về năm 1939, khi Cao Ủy Ðông Dương, Tướng Catroux, bắt đầu tuyển mộ và huấn luyện sĩ quan Việt Nam cho quân đội Pháp và cho quân đội thuộc địa trong tương lai. Ðây không phải là một thiện chí của chánh phủ Pháp đối với người dân thuộc địa, đây chỉ là một phòng hờ cho Thế Chiến Thứ Hai bắt đầu nhen nhúm.
Tài liệu nói về một số trường đào tạo cấp chỉ huy quân sự từ năm 1939 trở đi như, Nội Ứng Nghĩa Ðinh và Nội Ứng Nghĩa Quân. Theo tác giả Nach, Trung Tướng Văn Thành Cao và Trình Minh Thế của quân đội Liên Minh Cao Ðài được huấn luyện từ trường này. Người Pháp cũng lập ra một vài trường huấn luyện quân sự cho các Giáo pháo.
Trường huấn luyện Cái Vồn của Hòa Hảo là nơi xuất thân của các Tướng Trần Văn Soái, Cao Hảo Hớn, Lâm Thành Nguyên. Tác giả cho biết sau khi trường Cái Vồn bị đóng cửa, một số sinh viên được phép ghi danh nhập học trường Võ Bị ở Huế. Những trường khác được nhắc tên trong giai đoạn này như Trường Móng Cay, Trường Quân Chính, trường Quốc Gia Thanh Niên Ðoàn (một trường quân sự chính trị do Nhất Linh Nguyễn Tường Tam lập).
Năm 1946-47, Ðảng Ðại Việt của Trương Tử Anh thiết lập trường huấn luyện quân sự Lục Quân Trần Quốc Tuấn. Trường khai giảng ở Thanh Hóa, nhưng sau đó vì áp lực của Việt Minh nên phải dời về Yên Bái, và sau cùng về vùng Chapa gần biên giới Việt-Trung. Trường này đôi khi còn được gọi là trường Sĩ Quan Yên Bái. Những người đã theo học trường này gồm có Thiếu Tướng Phạm Xuân Chiểu; Ðại Tá Phạm Văn Liễu; Ðại Sứ Ðinh Trình Chính (đại sứ ở Thái Lan); Ðại Sứ Ngô Tôn Ðạt (đại sứ ở Ðại Hàn); và ký giả Nguyễn Tú (nhật báo Chính Luận). (v)
Cũng trong thời gian 1938-1940, quân đội Pháp thiết lập hai trường huấn luyện Sĩ Quan và Hạ Sĩ Quan thành sĩ quan (vi) ở Thủ Dầu Một và Tong. Ðại Tướng Dương Văn Minh, và Tổng Trưởng Tư Pháp Lê Văn Thu theo học Trường Thủ Dầu Một; trường Tong thì có những sĩ quan tốt nghiệp như các Trung Tướng Trần Văn Ðôn; Linh Quang Viên; Nguyễn Văn Vỹ; và Trần Văn Minh.
Sau Ðệ Nhị Thế Chiến, Bộ Tư Lệnh Quân Ðội ở Ðông Dương gia tăng tuyển mộ lính thuộc địa cũng như huấn luyện cấp chỉ huy để phục vụ ở những đơn vị này. Trường Võ Bị Võ Bị Liên Quân Viễn Ðông được thành lập tháng 7, 1946 tại Ðà Lạt. Trường chỉ khai giảng một khóa duy nhất, với 16 sĩ quan tốt nghiệp. (vii) Những sĩ quan tốt nghiệp trường này gồm có hai Ðại Tướng Nguyễn Khánh và Trần Thiện Khiêm; Trung Tướng Trần Ngọc Tám và Dương Văn Ðức; các Thiếu Tướng Nguyễn Văn Kiểm (Chánh Võ Phòng của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu); Lâm Văn Phát; Bùi Hữu Nhơn; Cao Hảo Hớn; và Dương Ngọc Lắm.
Năm 1947-1948, trường được dọn Vũng Tàu và có tên mới là École Militaire Nuoc Ngot (Trương Võ Bị Nước Ngọt, Vũng Tàu). Những sĩ quan tốt nghiệp trường này có cố Trung Tướng Ðỗ Cao Trí; Thiếu Tướng Nguyễn Xuân Trang (Tham Mưu Phó/Nhân Viên, Bộ Tổng Tham Mưu); Ðại Tá Trang Văn Chính (Chỉ Huy Phó Chiến Tranh Chính Trị); và Ðại Tá Bùi Quang Ðịnh (Bộ Chiêu Hồi).
Trong 5 năm, 1949-1953, một trung tâm huấn luyện hoàn hảo sĩ quan được thành lập ở Cap St. Jacques. Trung tâm huấn luyện năm khóa. Khóa 1 có những sĩ quan tốt nghiệp như cố Ðại Tướng Cao Văn Viên; cố Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi; Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh; và Ðại Tá Vũ Quang Tài.
Như đã nói ở phần đầu bài viết, năm 1948, một trường đào tạo sĩ quan được thành lập ở Huế để bắt đầu lịch sử Trường Võ Bị Quốc Gia. Tác giả James Nach đã sơ lược về Trường Võ Bị Quốc Gia. Cũng trong cùng tài liệu, ông Nach sơ lược về lịch sử Trường Liên Quân Võ Khoa Thủ Ðức. Tài liệu này cũng công phu không kém tài liệu về Trường Võ Bị Quốc Gia. Vì khuôn khổ giới hạn của bài viết, ở đây chỉ tóm tắt lại những chi tiết đáng ghi nhớ.
Nguyên thủy lúc thành hình là trường Sĩ Quan Trừ Bị Thu Duc va Nam Dinh (Les Écoles des Cadres de Réserve de Thu Duc et Nam Dinh), với Khóa 1 Lê Văn Duyệt được khai giảng ngày 1 tháng 10-1951 ở hai nơi, Thủ Ðức và Nam Ðịnh. Thủ Ðức có 278 sĩ quan tốt nghiệp; Nam Ðịnh có 218. Khóa 1 đào tạo tất cả 19 tướng lãnh cho QLVNCH, trong đó có bốn trung tướng Trần Văn Minh, Nguyễn Ðức Thắng, Lê Nguyên Khang, và Ðồng Văn Khuyên (Á khoa). Sau Khóa 1, trường dời về Thủ Ðức.
Trong mười khóa đầu tiên, Khóa 4 Cương Quyết (12.1953 – 6.1954) và Khóa 5 Vì Dân (6.1954 – 2.1955) có số sinh viên tốt nghiệp nhiều nhất, 1,148 sĩ quan cho Khóa 4; 1,396 cho Khóa 5. Khóa 4 có được 5 sĩ quan lên cấp tướng: cố Trung Tướng Ngô Quang Trưởng; Thiếu Tướng Bùi Thế Lân; cố Chuẩn Tướng Lê Quang Lưỡng và Hồ Trung Hậu; và Chuẩn Tướng Nguyễn Văn Ðiềm. Khóa 5 có Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng. trừ những sĩ quan Tướng lãnh, Khóa 4 có nhiều sĩ quan cấp Trung Tá và Ðại Tá chỉ huy những đơn vị chủ lực của QLVNCH. Nhìn lại lịch sử cuộc chiến, đây là những sĩ quan đứng mũi chịu sào của giai đoạn khói lửa 1965-1972. Theo tài liệu của James Nach, từ năm 1951 đến năm 1965, Thủ Ðức đào tạo 20,927 sĩ quan. Ðến tháng 9, 1973, có tất cả 80,115 sĩ quan tốt nghiệp từ trường. (viii)
Chú thích:
(i) Allan E. Goodman, An Institutional Profile of the South Vietnamese Officer Corps. Rand Research, RM-6189-ARPA, June 1970 (declassified 1992). Tài liệu này được bắt đầu thực hiện vào năm 1967, thời gian này vẫn còn nhiều xung đột giữa hai nhóm tướng lãnh, Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ. Trong tài liệu, ngoài một số chi tiết cá nhân của các tướng lãnh, tác giả Goodman còn phân loại ra tướng lãnh thuộc phe nhóm nào.
(ii) The National Military Academy and Its Prominent Graduates, James Nach, American Ambassy Saigon, Airgram A-95, May 13, 1974; Origins of the Vietnamese National Army, Its Officer Corps and Its, James Nach, airgram A-131, no date.
(iii) Một số sĩ quan tốt nghiệp Khóa 3 Trần Hưng Ðạo không đồng ý gọi đó là Khóa 3, mà là Khóa 1 Ðà Lạt. Ðại tá Bùi Dzinh, thủ khoa khóa Trần Hưng Ðạo (11 tháng 10,1950 – 24 tháng 6, 1951) trong một lá thư viết cho ban biên tập Nội San Ða Hiệu (Ða Hiệu, Số 43, phát hành 19 tháng 6, 1996, trang 247-149), nói ý kiến của ông là, vì trường bắt đầu một tiến trình mới của quân đội, không có liên hệ với trường Sĩ Quan Hiện Dịch Ðập Ðá ở Huế, nên ông không gọi đó là Khóa 3. Ông viết, “Tôi không muốn tranh ngôi thứ của khóa, chỉ nhằm nói lại cho danh chánh ngôn thuận mà thôi.” Trung Tướng Lữ Lan, cũng khóa Trần Hưng Ðạo, thì nói, vì mình kính trọng hai lớp đàn anh đi trước, nên gọi đó là Khóa 3. Trong bài viết này, Khóa 3 là khóa bắt đầu ở Ðà Lạt.
(iv) Dĩ nhiên chúng ta không thể không nhắc đến sĩ quan tốt nghiệp từ Trường Võ Bị Liên Quân Thủ Ðức. Tuy nhiên đó là một đề tài khác. Khóa 14 Ðà Lạt tương đương với Khóa 8 Thủ Ðức, cùng ra đầu năm 1960. Khóa 20 Ðà Lạt (11-1965) và Khóa 20 Thủ Ðức cũng tốt nghiệp cùng thời gian (12-1965; năm 1965 Thủ Ðức cho ra trường ba khóa, 18, 19, và 20).
(v) Theo lời ký giả Nguyễn Tú kể, thì đại sứ chỉ học trường Lục Quân Trần Quốc Tuấn trong thời gian ở Yên Bái, và bỏ dở chương trình lúc trường dọn về Chapa.
(vi) Trường Hạ Sĩ Quan Thành Sĩ Quan, còn gọi là Trường Hoàn Hảo Sĩ Quan – Centre de Perfectionnement des Sous Officiers Indochinois.
(vii) Tài liệu của James Nach nói 16 sĩ quan tốt nghiệp, trong khi sách quân sử VNCH Quân Lực Việt Nam Trong Giai Ðoạn Hình Thành nói chỉ có 10 sĩ quan tốt nghiệp.
(viii) Vì khuôn khổ giới hạn, người viết sơ lược đến đó. Ðọc giả có thể tìm tài liệu này ở hai nơi: Vietnam Center, Texas Tech University, Lubbock, Texas; hay, Cornell University, Ithaca, New York.
Theo tin từ một người bạn, cùng lớp ở PBC cho biết:
là dân Phan thiết đã hy sinh trong trận Bình Giả sau ngày mãn khóa không đầy 2 tháng.
Nhà anh ở ấp Đức Thắng, làm nước mắm, rất khá giả.
Cái chết anh làm nhiều người khóc và tiếc thương. Nhất là chị hôn thê của anh, 2 người dự định đám cưới một ngày không xa.”
No comments:
Post a Comment