Lá
thư của một QN đơn vị cũ:
Đã
44 năm, kể từ ngày 31 tháng 12 năm 1964, đột nhiên tôi nhận được
một lá thư khá dài của một QN đơn vị cũ, nguyên là
một Hạ Sĩ Quan Trừ Bị phục vụ trong binh chủng Thủy Quân Lục
Chiến, từ tháng 6 năm 1963 đến cuối năm 66. Tôi thật bất ngờ và
rất xúc động khi đọc những dòng tâm tư chân thật nhưng nhiều
cay đắng của anh. Sau đây là những trích đoạn khiến tôi bàng
hoàng và thiển nghĩ là sẽ khiến cho chúng ta suy gẫm:
Kính anh Toàn,
Tình cờ đọc
được địa chỉ của anh trong Đặc san Đa Hiệu ở nhà một người
bạn, tôi muốn liên lạc với anh, cũng là cấp chỉ huy của tôi
ngày trước (6/1963), già rồi muốn tìm lại một vài hồi ức
trong quá khứ. Không biết anh có chấp nhận không?
Kính anh, tôi là
TS Trần Văn Của, SQ 62A/701.458 thuộc Ban 4/TĐ4/TQLC. Lúc mới ra trường
thuyên chuyển về TĐ, có thời gian vài tháng ở chung ĐĐ2 với anh,
lúc đó Đ/U Trần Văn Hoán ĐĐT, anh là ĐĐP, rồi C/U Đơn, C/U Chí,
C/U Long… Tôi nhớ ghi lại đây tất cả các cấp chỉ huy còn lại
trong TĐ anh xem có đúng không? BCH/TĐ Đ/U Lê Hằng Minh TĐT, Đ/U Tôn
Thất Soạn TĐP, C/U Đặng Văn Học Ban 1(T/S Tấn), C/U Nguyễn Văn
Thinh Ban 2-An Ninh (Th/S Nhung), C/U Nguyễn Văn Trực Ban 3, Tr/U Ng Văn
Thuận Ban 4 (T/S Của) Ch/U Lê Văn Hiếu Tiếp Liệu (T/S De), Ban 5 (Không nhớ), Ban Quân Lương (Th/S Lượng), ĐĐCH Ch/U
Roanh. ĐĐ1 Đ/U
Nguyễn Thành Trí, C/U Song mặt hơi rỗ, C/U Hưng (ba gai). ĐĐ2 Đ/U Hoán,
Th/U Toàn, C/U Đơn, C/U Chí, C/U Long… ĐĐ3 Đ/U Trương Văn Nhứt, Th/U
Tùng, C/U Lịch… ĐĐ4 (trước không nhớ) sau Đ/U Vượng, T/U Tống,
C/U Nghiêm, C/U TX Quang. Quân Xa T/S Búp.
Thưa anh, nhân sự
lúc bấy giờ tôi nhớ được bao nhiêu đó, sau ngày anh bị thương
rồi, Võ Kỉnh mới về, chuyện đó đã 43 năm qua rồi. Nhắc lại xưa
quá phải không anh? Không biết anh có thích nghe chuyện đời quân
ngũ trong quá khứ không? Người ta nói già rồi ưa nghĩ về quá
khứ, tuổi này mà nghĩ đến tương lai thì không biết bắt đầu
từ đâu. Tiếc rẻ quá khứ là đối với những người uy quyền,
ăn trên ngồi trước, hưởng nhiều bổng lộc, nay thì không còn
nữa, mới nhớ những ngày vàng son, còn thân phận những người
cấp dưới được ví như con chốt trên bàn cờ: Tướng Sĩ Tượng
thủ thành. Xe Pháo Ngựa còn chạy tới chạy lui, lúc nào cần thí
thì đút đầu vô. Còn thân phận chốt là cứ đi tới không được
lui, số mạng sống chết là tùy đầu óc của người điều
khiển có thông minh hay không? Có mưu lược cao hay không? Thưa anh,
tôi là HSQ/TB, lên đường thi hành nhiệm vụ của người trai trong
thời chiến, tôi có được 3 năm rưỡi sống với binh chủng TQLC,
giải ngũ cuối năm 1966, không thăng cấp, không huy chương, không
chiến thương (mặc dầu có bị thương 2 lần), bị đì vì cấp
chỉ huy không thích người lính ba gai. Do đó, mới bị đưa đi
học Khóa 13 Rừng Núi Sình Lầy, đâu giữa năm 64 gì đó. TQLC mà
đi học RNSL của BĐQ lúc đó thật lạ. Tr/Tá Nguyễn Văn Kiên làm
CHT, SQ Kỹ luật Hướng dẫn là C/U Giao, Vân. Trước khi giải ngũ
khoảng 6 tháng lại bị thuyên chuyển về TĐ5/TQLC của
Đ/U Nhã, xuống ĐĐ2/TĐ5 của Tr/U Phán, bị đì hành quân mút mùa
không được về hậu cứ trước khi giả ngũ, phải lố thêm 2 tháng
của thời hạn quân dịch (4 năm 2 tháng). Chính vì nhiều kỷ niệm
buồn vui của đời lính tuy không lâu nhưng nhớ hoài hình ảnh người
lính áo rằn mũ xanh. Mặc dầu ở cấp bậc hay chức vụ nào mà mình
hoàn thành được nhiệm vụ thì rất hãnh diện, thấy không hổ
thẹn. Nhưng riêng tôi thì không làm được, ôm hồ sơ quân bạ
với 64 ngày trọng cấm, đến cấp chỉ huy nào hay đơn vị nào các
anh cũng không thích người quân nhân vô kỷ luật. Có nhiều khi
lỗi ở mình, cũng có nhiều khi lỗi tại cấp chỉ huy tạo cho mình
trở thành vô kỷ luật. Bây giờ lớn tuổi nằm đêm mất ngủ
nhớ lại chuyện xưa thấy hổ thẹn, đôi lúc cũng thấy vui vui…
Phải chi ngày
30.4.75 tất cả cấp chỉ huy mà vô kỷ luật, bất tuân hành lệnh
cấp trên, không tuân theo lệnh của Tổng Thống đầu hàng thì
Miền Nam chưa đến nỗi phải lọt vào tay giặc. Có mất cũng
thời gian lâu hơn. Còn súng đạn cứ đánh. Tiếc quá đếm lại thì
được có mấy vị Tướng còn giữ được sĩ khí, tiết tháo anh
hùng, không đầu hàng giặc. Không hiểu còn những ông, giặc chưa
đến mà bỏ binh sĩ chạy trước. Những vị buông súng đầu
hàng, chấp nhận nhục nhã tự ôm gói vào trại tù. Chắc các vị
đó còn nghĩ đến CP 3,4 thành phần, còn giữ được tiền tài,
danh vọng. Làm Tướng mà thành mất sao không chết theo thành. Nước
mất nhà tan mà các ông còn sống nhăn răng. Không biết hồi học
binh pháp, chiến thuật các cấp chỉ huy có học bài nào đầu hàng
hay không? Riêng thuộc cấp tôi nghĩ không có bài đó. Tôi thấy Quân
Đội Nhật không có bài học đó. Nên lúc Nhựt Hoàng tuyên bố đầu
hàng, bài học là phải mổ bụng tự sát để giữ gìn sĩ khí,
danh dự. Bậy quá, đó là tâm sự trăn trở của người lính già.
Sau
bao nhiêu năm còn đau nhói. Sao phải viết dài dòng lên đây khi mà
anh chưa nhận ra người thưộc cấp cũ. Không biết nhìn hình ảnh
anh có nhớ lại không? Nếu có nói gì không đúng xin anh bỏ qua.
Thưa anh, mục đích liên lạc với anh là để nhớ lại hình
ảnh người lính áo rằn ngày xưa, mà tôi rất quí và thương
những người lính đó, với chiếc ba-lô nặng trĩu trên lưng, vai
mang nặng nề cây súng cổ lỗ sỉ thời Đệ II thế chiến. Phát
một đơn vị hỏa lực đạn không đủ để đánh nhau với trận địa
lớn như Bình Giả. Đâu có áp lực nặng của địch là được điều
động đến để làm con ghẻ. Mặc tình cho mấy ông Tỉnh xài, thí
mạng, công lao các ông huởng, chết chóc thì người lính TQLC lãnh
đủ. Hình ảnh trận Bình Giả tang thương cỡ nào cho đến nay tôi
không quên được. Chỉ vì tìm tông tích của chiếc trực thăng
Mỹ gặp nạn, mà cấp trên tức tốc ra lệnh xua quân vào mục tiêu
để tiếp cứu, trở thành một cuộc điều quân gấp rút, thiếu
chuẩn bị, thiếu nghiên cứu, không nắm rõ tình hình địch,
thiếu chuẩn bị phi pháo yễm trợ, cho nên TĐ4/TQLC phải chiến đấu
lẻ loi. Một chống với lực lượng địch gấp 3, 4 lần. Hình
ảnh của anh Đỗ Hữu Tùng ĐĐT/ĐD2 bị bao vây phải mở đường máu
thoát về làng Bình Giả. Lúc đó, đại diện cho Ban 4 TĐ hành quân
tôi đi với Tiểu Đoàn Trưởng Nho để lo về Tiếp vận, tôi nghe
được những lời khiển trách thiếu xét đoán của cấp trên đối
với cấp dưới, rồi ra lệnh cho anh Tùng gom lính thất lạc về
nằm lại giữ làng Bình Giả. Nếu anh TĐT tin theo lới của anh Tùng
báo cáo về tình hình địch mà anh đã đụng độ sáng nay, thì có
kế hoạch HQ mới phải tính toán lại trước khi vào mục tiêu. Đằng
này anh Nho lại cho các ĐĐ còn lại vào đường cũ của anh Tùng
bị lọt gọn vào ổ phục kích buổi sáng. Thời gian anh có ở
chung với anh Hoán mà anh có biết anh Hoán có tài bấm độn ngón
tay tiên đoán vận mệnh không? Ra khỏi tuyến xuất phát lò tò
theo anh ấy, anh ấy đưa tay lên bấm, đếm từng lóng tay rồi nói
ngày nay, 31/12/64) không hạp cho số 4, có chuyện không lành! Nghe thì
nghe thôi, mấy người tò te đâu có nghĩ gì. Không tin vì từ ngày
đơn
vị thành lập cho đến giờ ra trận là tốc chiến tốc thắng,
xem
địch đâu ra gì (khinh địch).
Từ trên lộ đất đỏ dẫn đến
mục tiêu, khoảng cách chừng 3 Km, hai bên lộ đỏ là vườn
chuối. Mục tiêu trước mặt là một vườn cao su rộng lớn. ĐĐ1
anh dẫn đầu, ĐĐ4 anh Tống bên cánh trái, ĐĐ3 anh Huệ bên cánh
mặt. BCH/TĐ đi sau anh. ĐĐCH đi bọc hậu BCH/TĐ. Ngày hôm sau vào
gom xác anh em mới phát hiện bên cánh trái không xa lắm, VC nó đặt
mấy cây súng cối 82 ly. Nếu đội hình ĐĐ4 mở rộng một
chút xíu nửa là đã gặp rồi. Có thể trận đánh đó chuyển hướng.
Lúc ĐĐ1 gặp được chiếc trực thăng cùng 4 xác phi hành đoàn,
thấy anh em mình bị treo cổ. Một số xác chết của binh sĩ ĐĐ2
bị VC lột hết quần áo. TĐT cho lệnh tiến lên phía trước. Các
ĐĐ bắt tay làm vòng đai bao bọc mục tiêu thì Đ/U Hoán cầm bản
đồ tiến lên gặp TĐT trình bày, chỉ tay lên những vòng cao độ
và nói: Thiếu Tá nên cho quân tiến thêm một khoảng nữa để
chiếm giữ ngọn đồi cao, thì liền bị anh Nho quạt, có đệm
tiếng Tây khó nghe. Anh chỉ lấy xác rồi rút ra chớ đâu có ngủ
đêm ở đây mà phải chiếm địa thế cao. Thì ra lúc đó tôi
mới biết trong gia đình cơm không lành canh không ngọt. TĐT với TĐP
không thuận với nhau nên không bàn bạc trước khi hành quân. Từ
đó, Đ/U Hoán không thấy đến gần TĐT để cộng tác điều động
các ĐĐ mà anh ấy đi riêng lẻ với tà lọt. BCH/TĐ tiến vào bên
trong vườn cao su. ĐĐCH còn nằm trên lộ đất đỏ. Ngoài vòng đai,
các ĐĐ báo về mặt nào cũng có VC xuất hiện đông lắm tiến vào
áp lần lần đến đơn vị. Tôi nghe anh Nho cho lệnh xuống các
ĐĐ một binh sĩ một gốc cao su chờ đến khi nào chúng vào đến
cách 50 m mới đươc khai hỏa. Lệnh chắc nịch và coi rẻ tụi VC,
rất tự tin. Tôi nghĩ vậy và chắc các anh em trong đơn vị cũng
nghĩ vậy. Mình nằm sẵn nó mang mấy cái bia thịt vào thì có nước
làm mồi cho Kình Ngư thôi. Nên rất yên tâm không lo nghĩ nhiều. Lúc
đó khoảng 3-4 giờ chiều, mà tiếng súng khai hỏa không phải
của các ĐĐ tác chiến bên ngoài mà của người lính Thám Báo
của ĐĐCH, hắn đi vào vườn chuối lớn để đi đại tiện. Còn
ĐĐCH rất ỷ y còn lột nón sắt lót ngồi dài trên lộ đỏ, cứ
nghĩ có đánh nhau thì các ĐĐ tác chiến bên ngoài đụng trước
cho nên tỉnh bơ, trong lúc bên ngoài VC xiết vòng vây, thì anh lính
Thám Báo phát hiện VC nằm lềnh kênh trong đó, bèn la lên VC!,VC!
rồi sẵn cây tiểu liên trên tay anh khai hỏa luôn. Đó là lực lượng
khóa đít của VC chờ cho ĐĐCH lọt vào vườn cao su là khóa lại.
Không ngờ ĐĐCH còn cái đuôi dài phía sau. Do đó, khi súng đã
nổ, VC không khóa đít đươc vì ĐĐCH nằm thủ bên bờ phải lộ
đất đỏ chống trả nên chúng chuyển hướng tấn công bên hông
trái của anh Tống. ĐĐ4 vừa chống VC trước mặt vừa bị đánh
bên hông. Bên ngoài VC chết như rạ. ĐĐ1 và ĐĐ3 bền chặt giữ
vững vòng đai, từ từ khai tử từng tên. Tiếng súng nhỏ lớn
nổ inh ỏi điếc tai. Súng cối 82 ly chúng câu vào. Đại bác KZ 57 ly bắn
trực xạ. Lực lượng VC đông như kiến. Chết bao nhiêu chúng cứ
tràn vào. Tôi nhớ đánh nhau đến khi mặt trời lặn, ĐĐCH bị địch
cắt làm đôi. Số nằm ngoài vòng vây từ từ rút về làng Bình
Giả. BCH/TĐ bị pháo tới tấp. Cành cây cao su gẫy đổ, mủ nhiễu
xuống ướt cả mình. Cố vấn Mỹ kêu được 2 gunships lên không
yểm trợ đươc vì hai bên quá sát gần, thế là nó bay mất. Cố
vấn bị thương, TĐT cầm ống liên hợp tới lui liên lạc. Bên
ngoài các ĐĐ tác chiến báo cáo hết đạn mà tôi không biết
phải làm sao. Nằm chịu trận không bắn được một phát súng
rồi cũng bị miểng đạn pháo chém đứt ngoài cánh tay. Anh Tống
chạy vào BCH không có lấy một người lính. Cách tôi 30m, Đ/U Hoán
ôm khẩu carbine M2 nằm bắn như một khinh binh. Hình ảnh thật oai
hùng. Tiếng súng không còn ròn rã nữa sau hơn 2 tiếng đồng hồ
giao chiến. Tôi nghĩ chắc họ hết đạn và phải cận chiến để
sống còn. Phòng tuyến của ĐĐ4 bị vỡ. Từ đó chúng đánh vào
BCH/TĐ. Tôi thấy Đại Úy Hoán bật người lên rồi ngã quỵ
xuống. Người lính tà lọt cõng ông lên lưng rồi vọt chạy về
hướng rừng cây. Th/T Nho dắt BCH rút ra theo con lộ đất đỏ đã
bị cây thượng liên của VC đặt bên kia lộ đốn ngã cả TĐT
lẫn Bác Sĩ Quân Y TĐ. Tôi và Cố Vấn nhắm hướng rừng tháo lui
nên thoát về được đến làng Bình Giả. Còn phía ĐĐ1 của anh và
ĐĐ3 vẫn còn nghe tiếng súng cầm cự đến 9 giờ đêm. Qua ngày hôm
sau, TĐ gom quân trở vào trận địa lấy xác tôi mới
thấy tình của người dân làng Bình Giả đối với mình. Họ mang
võng cáng, rượu trắng thay cồn giúp mình tản thương. Phi hành đoàn
trực thăng đáp xuống không chịu chở xác xình thúi bị Đại Tá
Nguyễn Thành Yên rút súng lục đòi bắn nên họ
chỉ chở 1 chuyến rồi không trở lại. Sau phải dùng xe GMC tải
về Bà Rịa. Tôi không sao cầm đươc lòng khi thấy gia đình anh em
binh sĩ gào khóc thảm thiết khi đến hậu cứ. Thôi xin dừng và cám
ơn anh đã bỏ thời gian để đọc những lời vụng về của tôi
kể lại.
Cầu chúc anh và gia đình các cháu bình an, dồi dào sưc khỏe.
Kính chào
Trần Văn Của
(Ký tên)
Cầu chúc anh và gia đình các cháu bình an, dồi dào sưc khỏe.
Kính chào
Trần Văn Của
(Ký tên)
NHỮNG SỰ
THẬT về Trận BÌNH GIẢ:
Vết thương cũ
trong tôi như chợt vỡ ra sau khi đọc hết lá thư của cựu Trung Sĩ
Trần Văn Của. Là Đại Đội Trưởng ĐĐ1/TĐ4/TQLC trong trận Bình
Giả, tội đã bị thương nặng với ba phát đạn. Còn lại một mình
với khẩu súng AR15 và 15 viên đạn, tôi đã bò suốt 3 đêm 2 ngày
để gặp lại quân bạn trước cổng làng Bình Giả ngày 3 tháng 1
năm 1965. Vào
đầu tháng 12 năm 1964, linh cảm trước những cuộc đụng độ
lớn, tôi đã ra lệnh cho các Trung đội trưởng đều phải mang súng
carbine M1 thay vì mang súng Colt 45 như trước đây. Tôi cầm khẩu
AR15 vừa do TQLC Mỹ đưa sang thử nghiệm trên chiến trường. Chỉ
1 khẩu cho 1 Đại đội. Tôi cũng vừa thăng cấp Trung Úy và vừa đúng ngày Sinh
Nhật thứ 25. Xin
nói rõ về các cấp chỉ huy của TĐ4/TQLC lúc lâm trận Bình Giả:
Thiếu Tá Nguyễn Văn Nho là Tiểu Đoàn Trưởng, Đ/U Trần Văn Hoán
Tiểu Đoàn Phó, Tr/U (mới thăng cấp 22/12/1964) Trần Ngọc Toàn
ĐĐT/ĐĐ1, Tr/U Đỗ Hữu Tùng ĐĐT/ ĐĐ2, Th/U Trịnh Văn Huệ,
quyền ĐĐT/ĐĐ3 và Tr/U Nguyễn Đằng Tống ĐĐT/ĐĐ4. Tôi được may mắn tải thương về Quân Y Viện Đại
Hàn ở Vũng Tàu. Sau 5 tháng điều trị, tôi được phận loại 2 (không
tác chiến) và xuất viện với đôi nạng gỗ. Xuất thân là một
sĩ quan Hiện Dịch từ Trường Võ Bị Đà Lạt, tôi tiếp tục
phục vụ trong Binh Chủng TQLC ở hậu phương, rồi trở ra tác
chiến vào tháng 10 năm 1973 cho đến ngày cuối cùng của Việt Nam
Cộng Hòa, 30 tháng 4 năm 1975.
Nỗi đau nhức Bình
Giả vẫn còn đeo đẳng bên tôi. Theo lời kể của một hồi chánh
viên VC, tôi nghe được tại Bộ Chiêu Hồi vào năm 1969, và cuốn
hồi ký “2 ngàn ngày dưới địa đạo Củ Chi” của Dương Đình
Lôi, được biết Hà Nội đã cho đám VC tập kết năm 1954 cùng quân
chính quy CS Bắc Việt xâm nhập vào Nam từ năm
1958. Cuối năm 1964, VC đã thành lập Sư Đoàn 9 do Trần Đình Xu làm
Sư Trưởng, ở Miền Đông Nam Bộ với các Trung Đoàn 261, 262 và
263. Chúng đã đem cả Trung Đoàn tăng cường để chiếm làng Bình
Giả vào ngày 20 tháng 12 năm 1964. Sau trận đánh này, Trung đoàn
261 VC bị thiệt hai rất nặng và bị xóa sổ trên
chiến trường. Dù vậy, các ông Tướng vẫn chẳng bận tâm, nên
Sư Đoàn Nhảy Dù VNCH đã bị SĐ 9(-) VC bao vây ở Đồng Xoài, Phước
Long. Trong khi, mấy ông Tướng đang lo tranh giành quyền lực sau ngày
đảo chánh Tổng Thống Diệm 1/11/1963, giao trọn quyền điều
binh cho đám bộ hạ bất tài và vô trách nhiệm. Sau khi,
đã điều động 2 Tiểu Đòan BĐQ với Thiết Giáp
tấn công tái chiếm làng Bình Giả không thành, họ đã trực thăng
vận TĐ4/TQLC nhảy vào trận địa. TĐ4/TQLC là đơn vị Trừ Bị
cuối cùng của Quân Đoàn III. TQLC và BĐQ đã đánh bật quân VC ra
khỏi làng vào ngày 30 tháng 12 năm 1964. Ngay trong đêm này, VC xua quân
đánh lại nhưng không làm được gì và phải rút lui. Một chiếc
trực thăng của Lục Quân Hoa Kỳ, trú đóng tại Vũng tàu đã được
Cố Vấn TQLC Hoa Kỳ gọi lên, rà theo bắn rượt đuổi. Do khinh địch
và thiếu kinh nghiệm, chiếc trực thăng đã bị VC bắn hạ, rớt
trong vườn cao su bỏ hoang, gần làng Xuyên Sơn và cách làng Bình
Giả độ 4 cây số đương chim bay.
Rạng sáng ngày 31
tháng 12 năm 1964, trong khi các ông Tướng đang bận lo tổ chức
Dạ Vũ linh đình tại Sài Gòn, lệnh của Quân Đoàn III buộc TĐ4/TQLC
phải tiến quân vào tìm xác chiếc trực thăng Mỹ bị bắn rớt.
Tiểu Đoàn Trưởng TĐ4/TQLC quyết liệt từ chối, với tin tức do
Cha Xứ Đạo Bình Giả cho biết quân số VC lên đến Trung Đoàn,
với cả quân chính quy CS mặc quân phục Miền Bắc và trang bị
AK47, CKC, thượng liên, K50, B40… Trong khi, TQLC vẫn còn ôm súng
Garant M1, Carbin M1, Trung liên BAR của Mỹ thời Đệ II Thế Chiến.
Hơn nữa, TĐ4/TQLC hành quân không có Pháo Binh (đặt miết tại Phước
Tuy) và Phi cơ không yểm.
Theo lời xác
nhận của hai Cố Vấn Hoa Kỳ của đơn vị còn sống sót, là Đại
Tá Franz Pete Eller ở Solana
Beach, CA và cựu Đại Úy Phil O Brady ở San Francisco,CA, trước
phản ứng quyết liệt của T/T Nho, Bộ Chỉ Huy Quân Sự Hoa Kỳ
MACV tại Sài Gòn đã áp lực Bộ Tổng Tham Mưu VNCH buộc TĐ4/TQLC
phải hành quân lấy xác 4 người của Phi hành đoàn trực thăng
Mỹ, dù không có pháo binh và không quân yểm trợ. Khi ĐĐ1/TĐ4/TQLC
tìm thấy xác chiếc trực thăng với 4 nhân viên phi hành Hoa Kỳ
tử thương, đã nhìn thấy 1 Trung Đội của ĐĐ2 nằm chết hàng
ngang như đội hình xung phong, xác bị VC lột hết quần áo. Thiếu
Úy Nguyễn Văn Hùng nằm giữa hàng quân. Trực thăng Hoa
Kỳ được tin bay lên rồi chỉ lấy 4 xác Mỹ bay mất. 12 xác
TQLCVN phải chờ trực thăng Việt Nam. Cuối cùng, đơn vị phải
thu xếp tải bộ sau 2,3 tiếng đồng hồ nằm chờ không thấy. Khi
ấy đã quá muộn.
Tổng kết tổn
thất trong trận Bình Giả về phía TĐ4/TQLC gồm 122 tử thương và
gần 300 bị thương tại mặt trận. Trong số 122 chiến sĩ TQLC hy
sinh có TĐ Trưởng, TĐ Phó, Bác Sĩ Quân Y TĐ, 1 Đại Đội Trưởng
là T/Úy Trịnh Văn Huệ xuất thân Khóa 17 Trường Võ Bị Đà Lạt.
Đặc biệt gồm có hai Thiếu Úy mới tốt nghiệp Khóa 19 Võ Bị
Quốc Gia đến đơn vị ngày 15/12/1964 là Thủ khoa Võ Thành Kháng và
Nguyễn Văn Hùng. Khi Khóa 19 Võ Bị nhập học tại ĐàLạt cuối năm
1962, 3 Trung Úy, Nguyễn Đằng Tống, Đỗ Hữu Tùng và Trần Ngọc
Toàn xuất thân Khóa 16 đang chuẩn bị ra Trường. Các tân Sĩ quan
từ Khóa 19 đến trình diện TĐ4/TQLC gồm có Thiếu Úy Võ Thành Kháng,
Trần Vệ, Đỗ Hữu Ái, Thái Văn Bông, Nguyễn Văn Hùng. Chưa ai
kịp lảnh lương Thiếu Úy.
Nhìn vào bảng
tổn thất, ai cũng thấy rõ không chỉ có 100 Hạ Sĩ Quan và Binh Sĩ
hy sinh đền nợ nước mà có đến 22 Sĩ Quan tử trận. Chính vì
niềm đau ray rứt mang nặng trong lòng, từ chiến trường Bình
Giả trở về, suốt hơn 40 năm, nên vào tháng 6 năm 2006, tôi đã
tự nguyện đến Trung Tâm Việt Nam của Trường Đại Học Texas
Tech, ở Lubbock, TX. để thuyết trình về trận Bình Giả trước người
Mỹ. Tôi đã đến để vuốt mặt cho các cấp chỉ huy và bạn bè
đồng đội của tôi, với tư cách là một cựu Tiểu Đoàn Trưởng
TĐ4/TQLC. Tôi cũng đến, với tư cách là một công dân Hoa Kỳ, khi
hàng ngày nhìn thấy chiến binh Mỹ ngã gục trên chiến trường
Irak, qua hệ thống truyền hình Hoa Kỳ, trong đó có cả con em của
người Việt Nam tỵ nạn Cộng sản. Hình như, người Mỹ chưa rút
ra được “Bài Học Quý Giá” từ cuộc chiến Việt Nam với hơn
58 ngàn chiến binh đã hy sinh ngã gục...
Trần ngoc Toàn,
Cựu TĐT/TĐ4/TQLCVN
Trần ngoc Toàn,
Cựu TĐT/TĐ4/TQLCVN
No comments:
Post a Comment