Friday, March 14, 2025

Trung Tá Vũ Xuân Thông - VĨNH BIỆT TRUNG TÁ! Vĩnh biệt Trung tá - Tài Tử Vũ xuân Thông -

 
Mời xem phim 'Người Tình Không Chân Dung' trên YouTube!:
NGƯỜI TÌNH KHÔNG CHÂN DUNG (1971) | Phim Chiến tranh Việt Nam hiện thực nhứt
 xưa nay
Tôi bắt đầu biết yêu năm 14 tuổi.
Nhưng vấn đề là tôi yêu mà hoàn toàn không biết mặt người đó!
Cũng đâu có gì lạ.
Trước tôi cả hơn chục năm, bà Kiều Chinh cũng từng có “Người tình không chân dung” rồi mà? Chuyện của tôi thì không đủ để thành phim, nhưng cũng có nhiều chi tiết … vui lắm.
Hồi đó trường tôi có thông lệ mỗi năm gần tết đều tổ chức văn nghệ Tất Niên ngoài trời và có rất nhiều tiết mục từ đơn ca, hợp ca, nhạc kịch, hoạt cảnh, vân vân… nghĩa là rất xôm trò. Đó là buổi học cuối năm. Học sinh chúng tôi dự buổi văn nghệ toàn trường trước khi được ở nhà gần hai tuần ăn tết.

Chúng tôi vừa mới nhận được tin 
Trung tá Vũ xuân Thông Khoá 17 Võ bị Quốc gia Đà lạt -------Liên đoàn 81 Biệt Cách Dù -- 
vừa mới qua đời sáng sớm hôm nay thứ Tư 12 tháng 3 năm 2025 tại Hoa Kỳ -sau thời gian Bạo bệnh
Khi hãng phim Giao Chỉ của nữ tài tử Kiều Chinh thực hiện bộ phim Mầu "Người Tình Không Chân Dung " do cố đạo diễn
Hoàng Vĩnh Lộc thực hiện - Trung tá Vũ xuân Thông đã được tham gia một vai trong phim - Được biết thành phần nam nữ tài tử góp mặt trong cuốn phim "Người Tình Không Chân Dung " gồm có nữ tài tử Kiều Chinh - nam tài tử Tâm Phan - Minh Trường Sơn - Bảo Ân - Dương Hùng Cường - vũ xuân Thông v.v..
Bản nhạc chính trong phim là : ANH LÀ AI " sáng tác cố nhạc sĩ Hoàng Trọng - Dạ Chung - Bộ phim cũng đoạt giải thuởng Văn học Nghệ thuật năm 1973 của cố Tổng thống Nguyễn văn Thiệu
Vĩnh biệt Trung tá - tài tử Vũ xuân Thông - Nguyện cầu anh sớm về Cõi Vĩnh Hằng .
Nguyễn Toàn ký gỉa Tân nhạc & Điện Ảnh


Mời đọc một bài viết của ông Nguyễn Cao Thái cũng lấy tựa đề 'Người Tình Không Chân Dung' đăng trên báo Việt Báo ngày 25/02/2013

Người Tình Không Chân Dung 

25/02/2013 TháiNC
Tác giả đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ năm thứ XII, 2012. Ông tên thật là Nguyễn Cao Thái, sinh năm 1959 tại Huế, vào Saigon 1968, vượt biển đến Mỹ 1979, hiện định cư tại San Jose, CA.

Buổi văn nghệ kéo dài đến gần cuối thì một màn múa được giới thiệu rất đặc biệt, màn múa nón “Hình Ảnh Người Em Không Đợi”, sáng tác của nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ được các nữ sinh lớp mười trình diễn.
Tiếng nhạc đệm ghi-ta vang lên và tám tà áo dài trắng với chiếc nón lá trên tay thướt tha bước ra sân khấu. Cả toàn trường đang ồn ào trong không khí văn nghệ của ngày lễ tết bỗng chìm xuống. Tất cả mọi người đều tạm ngưng câu chuyện, hướng về sân khấu thưởng thức những tà áo thướt tha di chuyển nhịp nhàng trên sân khấu. Tiếng hát thánh thót từ phía sau sân khấu bắt đầu vang lên

Ngày nào em đến
áo em màu trinh
Áo xinh là xinh
Áo em trong trời buồn
Là gió…
Là bướm…
là hoa…
Là mây chiều tà
...
Trong khi tất cả các bạn tôi, những cậu bé đang độ bắt đầu lớn và biết chú ý đến con gái, đều như bị những tà áo trắng lượn bay trên sân khấu thu hút, thì tôi cũng sững sờ nhìn lên không phải bằng đôi mắt mà bằng …đôi tai.

Đúng vậy. Tôi bị giọng ca sau hậu trường sân khấu đó hớp hồn ngay từ lời ca đầu tiên. Những tà áo trắng và từng chiếc nón lá trên sân khấu với tôi như là những vũ công phụ. Chính những nốt nhạc trầm bổng, từng chữ thánh thót từ giọng ca phía sau hậu trường mới chính là vũ công duy nhứt thực sự nhảy múa trên sân khấu.

Rồi từ hôm ấy
nón em làm thơ
Nón em dệt mơ
đã ghi trong cuộc đời
Hình bóng người em
mà anh ngàn năm đợi chờ.
Hình bóng người em
mà anh ngàn năm đợi chờ.
Hình bóng người em
mà anh ngàn năm đợi chờ.

Hai câu cuối của bài hát được lặp lại ba lần vừa đủ cho tám vũ công, mỗi bên bốn người rút vào sân khấu.
Màn múa chấm dứt. Bài hát đã ngưng. Nhưng giọng ca mê hồn của người phía sau sân khấu đó vẫn ngân nga vang đi vang lại in sâu trong đầu.
Tôi không biết mặt cô ấy. Cao hay thấp, ốm hay mập … Hoàn toàn không. Chỉ biết một điều duy nhứt, do thằng bạn nói cho biết rằng, hát hay khủng khiếp như vậy trong trường mình chỉ có một người, tên là Lệ Trâm.
Sau hôm đó, tôi cứ bị bài hát ám ảnh. Và nếu định nghĩa “yêu” là ngồi đâu cũng nhớ đến…cái giọng của người đó thì đích thị tôi đã yêu rồi. Yêu say đắm lận chứ không phải chơi. Người đó là ai, mặt mũi thế nào, không cần thiết. Chắc chắn là phải đẹp thôi. Giọng ca như vậy thì người cũng phải tương xứng chứ. Còn người ấy đẹp làm sao thì tôi mặc tình mà tự vẽ lấy trong đầu.
Tôi đang học lớp chín, đệ tứ. Còn Lệ Trâm thì trên tôi một lớp, đệ tam.
Bây giờ tôi đang ở Mỹ. Con gái út của tôi học lớp năm. Trường con tôi học hằng năm có một ngày gọi là International Day. Ở những tiểu bang khác, hoặc học khu khác thì tôi không rõ, chứ miền Bắc Cali này quy tụ rất nhiều sắc dân trên thế giới về định cư. Có một số trường mà học sinh bản xứ Mỹ chỉ là thiểu số, còn lại tuyệt đại đa số là gốc Việt, Tầu, Phi, Mễ, Ấn vv. Ở những trường như vậy, họ có một ngày như đã nói là ngày Quốc Tế để tất cả học sinh thuộc mọi sắc dân trong trường trao đổi văn hoá với nhau bằng hình thức đóng góp văn nghệ giúp vui, nấu đồ ăn, hay là biểu diễn một cái gì đó đặc thù của dân tộc mình. Một ngày rất vui và có ý nghĩa, nhất là các tiết mục do chính các em học sinh tiểu học biểu diễn.
Lúc nhìn tờ chương trình văn nghệ của các em hôm nay tôi chú ý ngay đến tiết mục

MUA NON
- Vietnamese dance
Preformed by: Le Trinh & Le Trang (4th grade)
Hai chữ MUA NON hay là Múa Nón gợi lại trong tôi màn vũ và bài hát đầy kỷ niệm của thời học sinh năm nào. Nhất là tên hai cô bé Le Trinh và Le Trang. Có liên hệ gì đến hai chữ Lệ Trâm không nhỉ ?

Tôi nao nức kiếm được một chỗ ngồi rất tốt ngay hàng đầu của hội trường. Đợi khoảng nửa tiếng thì đến đến màn mong đợi. Hai cô bé Việt Nam giống nhau y hệt, rõ ràng là một cặp sinh đôi, trong chiếc áo dài truyền thống của Việt Nam bước ra sân khấu. Áo dài màu tím nhạt hoa cà. Trong tay mỗi em cầm một chiếc nón lá. Sau khi để hai bé cúi chào khán giả đang vỗ tay nồng nhiệt cổ vũ, người giới thiệu chương trình quay sang một phụ nữ đứng bên cánh sân khấu và giới thiệu tiếp “… Và đặc biệt, chính mẹ của hai em sẽ ca cho hai em múa”.

Tôi cố mở lớn mắt nhìn người phụ nữ cũng trạc tuổi của tôi, tươi tắn trong một tà áo dài xanh cất tiếng thánh thót:

Ngày nào em đến
áo em màu trinh
Áo xinh là xinh
Áo em trong trời buồn
Là gió…
Là bướm…
là hoa…
Là mây chiều tà

Trời ơi, đúng là bản “Hình ảnh người em mong đợi”

Ôi, tôi như đang sống trong mộng. Có lý nào đây là Lệ Trâm, người tình không chân dung và…chưa bao giờ quen biết của tôi? Người mà năm xưa tôi đã trăm nhớ ngàn thương dù chỉ qua giọng ca sau lưng sân khấu của một thời? Cũng bài hát này, điệu múa này, giọng ca này, từng nốt nhạc trầm bổng đã in sâu trong đầu tôi hằng bao nhiêu năm qua …

Tôi cố nhìn và lắng nghe tiếng hát, mong tìm lại được một nốt nhạc nào đó quen thuộc để chứng tỏ đó là Lệ Trâm !

Có bao giờ xóa nhòa tà áo trắng
Hình dáng người em không ngóng chờ
Một bài thơ đẹp thêm tình duyên trên nón em

Hai bé đang múa hình như bị khớp vì khán giả vỗ tay ủng hộ nhiều quá bắt đầu loạc choạc. Người mẹ đang hát thấy vậy bèn tiến ra cùng múa chung. Cô vừa hát vừa múa hướng dẫn cho hai con. Tiếng hoan hô lại càng vang dội cả hội trường hơn lúc nào hết.

Rồi bài hát sắp chấm dứt. Mẹ hai cô bé đi trở lại bên cạnh sân khấu hát ba lần câu “hình bóng người em mà anh đợi chờ.” Trong khi hai cô bé chia làm hai cánh đi trở lùi vào sân khấu.

Kết thúc của bài múa giống y như năm nào của trường tôi trình diễn, như là cùng một đạo diễn vậy.

Màn vũ chấm dứt. Ba mẹ con trở lại sân khấu chào khán giả trong tiếng vỗ tay vang dội. Không hiểu vô tình hay vì đã để ý tôi là khán giả nồng nhiệt vỗ tay hăng say nhứt trong đám đông phía dưới, người mẹ quay về phía tôi cười duyên dáng gật đầu chào như để cám ơn làm tim tôi muốn nhảy ra ngoài. Suýt nữa tôi đã cầm lòng không đậu tiến lên hỏi “Có phải cô là Lệ Trâm?”

Trên đường về nhà, ngồi trên xe vợ hỏi
- Màn trình diễn múa nón dễ thương quá hả anh?
Ây dza, không biết hồi nãy tôi có quan sát “ca sĩ” kỹ quá, quên mất vợ lúc đó cũng đang ở bên cạnh.
- Hay thiệt. Hai con bé dễ thương ghê.
Tôi ậm ừ cho qua, và cố ý đánh lạc hướng.
Nhưng vợ đâu có buông dễ dàng
- Nhất là mẹ nó đẹp và hát hay quá hả anh?
Tôi đã bắt đầu cảnh giác, nên đỡ chưởng này liền tức thì
- Hát hay thì đúng rồi chứ đẹp thì… OK thôi, gì mà “quá” lận.
Nàng tỉnh bơ bồi tiếp
- Hồi nãy anh ra ngoài, em có hỏi được số phone của cổ nè.
Tôi rúng động, buột miệng
- Chi dzậy? Anh đâu có quen với cổ đâu?
Nàng trừng mắt
- Mắc mớ gì anh?
Tôi cố cười hì hì dã lã
- Nói vậy mà, nhưng em hỏi số phone của cổ làm gì?
- Tính làm quen. Lễ Phật Đản sắp tới trường em có văn nghệ. Nhờ ba mẹ con tới dạy mấy đứa học trò em múa nón giống hồi nãy, và nhờ cô ấy hát luôn.
À té ra vợ tôi méo mó nghề nghiệp.
Chuyện là từ ba năm nay mỗi tuần ngày Chủ Nhật nàng tới chùa dạy việt ngữ. Năm nào cũng vậy, mỗi dịp lễ Phật Đản chùa làm lễ lớn, và đều có phần văn nghệ do các cô giáo cùng học trò Việt ngữ phụ trách. Vợ tôi gặp nhân tài như vậy làm sao bỏ qua cho được.
Tôi vừa nhẹ thở chút, mới quay đi thì nàng xoè bàn tay có mảnh giấy nhỏ nói

-Tên và số phone của cổ nè.

Tôi lại nghe tim đập thình thịch trở lại, đang lái xe mà cũng run run ráng liếc sang miếng giấy.
Ô la la Ô la la !
...

Đố bạn biết người đó có phải là Lệ Trâm không nè?./.

ThaiNC
Subject: Vĩnh biệt tài tử Vũ Xuân Thông của ‘Người tình không chân dung’
To: thuy <k768kq@googlegroups.com>

Vĩnh biệt tài tử Vũ Xuân Thông của ‘Người tình không chân dung’


Tài tử Vũ Xuân Thông trong phim “Người tình không chân dung” từ trần sáng 12 Tháng Ba, 2025 tại Hoa Kỳ.

Vũ Xuân Thông là bà con bên vợ của nhạc sĩ Hoàng Nhạc Đô. Ông là trung tá Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù, một trong những nhân vật kiên cường và tài ba của quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Ông được biết đến không chỉ với tư cách là một chiến sĩ của Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù dũng cảm, mà còn là một tài tử nổi danh được nhiều người mến mộ.

Vũ Xuân Thông tốt nghiệp Khóa 17 Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam, nơi đào tạo những sĩ quan tài giỏi, có kiến thức chuyên môn vững vàng và phẩm chất đạo đức cao. Sau khi ra trường, ông gia nhập quân đội và nhanh chóng khẳng định được tài năng và bản lĩnh trên chiến trường. Đặc biệt, với sự tham gia vào Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù, ông đã góp phần làm nên những chiến công vang dội trong nhiều trận chiến cam go như An Lộc, Cổ Thành, Ashau, A Lưới, Phước Long, Tam Biên …

Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù, đơn vị tổng trừ bị thiện chiến của Quân Lực VNCH (tiền thân là Lực Lượng Đặc Biệt), luôn là lực lượng đặc biệt được tin cậy trong những nhiệm vụ quan trọng của tổng thống và Bộ Tổng Tham Mưu. Trung Tá Vũ Xuân Thông đã dẫn dắt các chiến sĩ, luôn thể hiện sự quả cảm và kiên trì không khuất phục trước kẻ thù. Sự dũng cảm và tinh thần hy sinh vì Tổ Quốc của ông đã truyền cảm hứng cho nhiều thế hệ lính trong quân đội.

Ngoài tài năng quân sự, Vũ Xuân Thông cũng là một người thầy, người lãnh đạo có trách nhiệm trong việc truyền đạt kiến thức và kinh nghiệm cho các thế hệ kế cận. Sự nghiệp của ông góp phần vào sự nghiệp phát triển và chiến đấu của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa trong suốt những năm tháng đầy gian khó.

Vũ Xuân Thông từng chia sẻ: “Tôi là một người lính sống sót sau 15 năm khói lửa, 13 năm tù đày trong các trại tù khổ sai của CSVN từ Bắc chí Nam.”

Sáng ngày 12 tháng 3 năm 2025, Trung Tá Vũ Xuân Thông từ trần tại Hoa Kỳ, để lại niềm tiếc thương vô hạn cho gia đình, đồng đội và tất cả những người đã từng biết đến ông. Sự ra đi của ông là một mất mát lớn đối với cộng đồng người Việt, đặc biệt là với những ai đã chứng kiến sự nghiệp oanh liệt của ông trong quân ngũ.

Trung Tá Vũ Xuân Thông, lúc đó ông mang cấp bậc đại úy, là người đã bàn giao chức vụ toán trưởng toán 3 Thám sát/DELTA, về làm trưởng ban 3 của Trung tâm/huấn luyện hành quân/DELTA. (Hình: Facebook “Dâu Nguyễn” – chiến hữu của Trung Tá Vũ Xuân Thông ở Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù.)

Nói tới Vũ Xuân Thông không thể không nói tới “Người Tình Không Chân Dung.” Đây là bộ phim điện ảnh miền Nam năm 1971 của đạo diễn Hoàng Vĩnh Lộc, với sự tham gia diễn xuất của diễn viên Kiều Chinh. Bộ phim ca ngợi hình ảnh người lính của Quân Lực VNCH.

Nội dung phim nói về Mỹ Lan, một phát thanh viên của chương trình “Tâm tình chiến sĩ” trên đài phát thanh, đến gặp một đại tá quân đội VNCH xin được vào chiến trường để tìm người yêu. Sau sự từ chối ban đầu, cuối cùng vị đại tá cũng đồng ý cho Mỹ Lan vào chiến trường. Một đại úy tên Thịnh đưa cô đi…

Vào chiến trường, Mỹ Lan đã được chứng kiến đời sống của những người lính khi ấy. Dù đã đi nhiều nơi, nhưng vì không có nhiều thông tin về người yêu, nên cô vẫn không tìm thấy. Sau một thời gian, cô nhận được tin người lính cô tìm đang bị thương… Người Tình Không Chân Dung là một cuốn phim rất thật, rất người, rất đời khi nói về thân phận, về suy nghĩ, về cuộc sống trong ranh giới mỏng manh giữa sự sống và cái chết của những người lính trẻ.

Khi thực hiện bộ phim này, chi tiết, diễn viên, bối cảnh, đối thoại… thay đổi, và được viết thêm từng ngày. Kinh phí cũng rất thấp, nhưng phim được sự bảo trợ của Quân Lực VNCH nên đã có sự góp mặt của các tài tử nổi danh cùng thiết bị quân sự tối cao và đặc biệt là sự xuất hiện của đại biểu toàn thể các binh chủng VNCH như Hải Quân, Lục Quân, Không Quân trong phim… “Người tình không chân dung” đạt giải chủ đề phim xuất sắc nhất và Kiều Chinh là nữ tài tử chính khả ái nhất tại đại hội điện ảnh Á Châu lần thứ 17 tại Đài Bắc ngày 9 Tháng Sáu, 1971.

“Người tình không chân dung” không chỉ vì nội dung sâu sắc mà còn vì diễn xuất ấn tượng của các diễn viên, trong đó có Trung Tá Vũ Xuân Thông. Bộ phim này thành công rực rỡ và trở thành một tác phẩm kinh điển của điện ảnh Việt Nam, mang đến nhiều cảm xúc sâu lắng và những thông điệp nhân văn, đáng ghi nhận trong lịch sử phim ảnh Việt Nam.

Với vai diễn trong “Người tình không chân dung,” Trung Tá Vũ Xuân Thông khẳng định tài năng của mình và đưa tên tuổi lên đỉnh cao mới. Diễn xuất của anh mang đến sự chân thực, sâu sắc, và nhiều cảm xúc, giúp người xem không chỉ cảm nhận được sự phức tạp trong nhân vật mà còn hiểu hơn về những điều thầm kín trong mỗi con người.

Tưởng nhớ Trung Tá Vũ Xuân Thông, người đã dành cả đời mình để phục vụ Tổ Quốc, chúng ta sẽ mãi khắc ghi những đóng góp to lớn của ông cho đất nước, cho quân đội VNCH, và cho thế hệ mai sau.

Favorites 17h 
Farewell former Col (Special Force), and actor Vu Xuan Thong. RIP 🙏🙏🙏😪😪
Rat dau buon duoc tin cuu Dai Ta (luc Luong dac biet), dien vien dien anh Vu Xuan Thong - "Thinh Su Tu" cua Người Tinh Không Chan Dung, da qua doi. Xin chia buon voi chi Thong va toan the trong gia dinh.
Thong oi! Cau nguyen huong linh Thong len duong thanh than, binh an, một ngay nao do minh se lai gặp nhau. Thương Yeu🙏🙏🙏😪😪😪
Photo hang trên L-R, Vu Xuân Thong va Kieu Chinh trong phim Nguoi Tinh Khong Chan Dung, dao dien Hòang Vinh Lộc (đeo kinh đen, dung ke bên Kiểu Chinh) va doan tai tu cua phim Người Tinh Không Chan Dung trên san khau rạp REX Saigon, ngay ra mat phim.
Hang dưới , hinh anh Thong & Chinh qua nhung nam thang, gặp nhau tai Hoa Kỳ.



Vũ Xuân Thông
Tốt nghiệp Khóa 17 VBQGVN –
Trung Tá, LĐ 81 Biệt Cách Nhảy Dù

Love me or hate me, both are in my favor
If you love me, I am in your heart
If you hate me, I am in your mind

Như một lời tri ân chân thành đến tất cả các chiến sĩ Không Quân của KLVNCH đã ngày đêm tích cực yểm trợ Liên Đoàn 81 BCND chiến đấu để bảo vệ quê hương gấm vóc và hai chữ “Tự Do” …


Cho tôi xin dù chỉ một lần
Mơ làm cánh én giữa trời Xuân
Tang bồng hồ thỉ mang chí lớn
Rạng giống Tiên Rồng lính Không Quân.

*****

Công ty tôi đang làm nằm trên con đường Mirama Road, sát nách một phi trường lớn của Thuỷ Quân Lục Chiến Mỹ, nên bắt buộc mỗi ngày tôi phải đi và về trên con đường này. Và ngày nào cũng vậy, lộ trình của tôi đều đi qua khu bảo tàng Không Quân chứa đầy các loại phi cơ, từ thời có lỗ sĩ, từ thời tôi chưa được sinh ra trên cõi đời, cho đến những chiếc phi cơ của thời Đệ Nhị Thế Chiến và thời chiến tranh Việt Nam.

Cái khu bảo tàng này lại nằm sát đường chỉ cách một cái hàng rào bằng lưới chống B-40 (chain link fence). Mỗi lần đi qua khu vực này, tôi đều lái xe chậm lại và không khỏi liếc nhìn vào đó dù tôi đã quá quen thuộc với những loại phi cơ đang nằm phơi trên bãi đậu.

Từ những chiếc Avia B 534, Bell P-39 Airacobra từ những năm 1934…đến những chiếc Gruman Hellcat hay Bearcat, những chiếc F-5, Skyraider cho đến những chiếc trực thăng trái chuối CH-46 đầu tiên, H-34 nặng nề, chiếc UH1, Cobra …và cả chiếc L-19 Bird Dog mong manh rất quen thuộc với tôi. Ngoài ra mỗi ngày tôi còn phải nghe tiếng gầm rú của các loại phi cơ chiến đấu cất cánh và hạ cánh mỗi giờ, những ngày không khí ẩm thấp, tiếng cánh quạt của nhiều loại trực thăng nặng nề vang dội trên đầu đã thực sự gây cho tôi nhiều ấn tượng nhất.

Vì đó là những tiếng động đã quá quen thuộc với tôi hầu như đã tiềm ẩn trong trí nhớ tôi và không thể xóa nó đi được dù 37 năm đã trôi qua kể từ khi tôi giã từ cái nghiệp lính.

Năm nay tôi đã bước vào tuổi 75, vẫn phải đi làm, ngoài việc tiếp tục kiếm sống qua ngày trên mảnh đất tạm dung nầy, còn để ngăn ngừa sự thoái hóa của bộ óc càng ngày càng già nua …để rồi hủy hoại hết những điều cần phải nhớ. Tuổi già thì thường hay nói nhiều, nhớ nhiều về dĩ vãng. Thật ra con cháu tôi, chúng cũng thông cảm vì giờ đây tương lai của tôi, chỉ là đang bước dần tôi trạm cuối cùng, là cái nghĩa trang lạnh lùng nào đó.

Tôi là một người lính sống sót sau 15 năm khói lửa, 13 năm tù đày trong các trại tù khổ sai của cộng sản việt nam từ Bắc chí Nam, từ trại kỷ luật đến xà lim Chí Hòa. Thử hỏi cuộc đời của tôi còn lại gì ?
Cái gia tài của người lính như tôi còn lại há không phải là quá khứ của 15 năm trong quân đội hay sao? 15 năm trong một đời người như chúng ta, những người lính đã sống qua cuộc chiến ác liệt, đầy máu và nước mắt, vinh có nhục có và đôi khi buồn nhiều hơn vui, dù muốn quên cũng khó quên.

Ngay từ những năm đầu ở Trung Học, tôi đã rất ngưỡng mộ Không Quân dù chỉ qua hình ảnh của các anh phi công Mỹ, Pháp và Anh trong thời kỳ Thế Chiến thứ hai và trong thời gian chiến tranh Việt Nam vào những năm 50. Sau này khi bước chân vào bậc Trung Học Đệ Nhất Cấp tôi đã có ý định sau khi tốt nghiệp Trung Học tôi sẽ xin gia nhập vào Không Quân Việt Nam. Những mộng không thành vì khi khám sức khỏe ở Bệnh Viện Cộng Hòa tôi mới phát giác ra là thị lực của con mắt phải của tôi chỉ có 7/10. Thế là vỡ mộng, nhìn bạn bè rộn ràng lên đường gia nhập Quân Chủng Không Quân mà thấy tủi thân. Cuối cùng đành phải chấp nhận cái thân phận chui bờ chui bụi của cái lính đánh trộm là Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù. May cũng nhờ quen thuộc lối đánh trộm (đôi khi chúng tôi cũng ăn trộm được nhiều kho vũ khí và lương thực của địch) nên cũng có chút tiếng tăm và chiến công góp phần với các quân binh chủng bạn, đã làm cho kẻ địch suy yếu. Nhưng nếu nói đến cái đơn vị bé tí teo và những chiến tích mà chúng tôi đã lập được cũng nhờ những đôi cánh thép, như một thứ bùa hộ mạng, như cái ô dù che chở trên đầu chúng tôi. Những đôi cánh thép đã mang chúng tôi đi hầu hết các chiến trường (ngoại trừ vùng IV chiến thuật vì lính BCD 81 không biết bơi).

(BCND được trực thăng vận vào An Lộc)

Đã bao lần không quản ngại trước lưới lửa phòng không của địch tua tủa như pháo bông để mang chúng tôi và xác đồng đội ra khỏi vùng vây địch. Qua hàng trăm cuộc hành quân, những đôi cánh thép đã mặc nhiên như gắn ngay sau lưng chúng tôi, đã chắp cho chúng tôi đôi cánh thép. Đơn vị của chúng tôi đã gắn liền với Quân Chủng Không Quân của các bạn.

Xin cho chúng tôi được hân hạnh nhận các chiến hữu Không Quân là bạn để dễ bể tâm sự và để nói hết những điều cần nói sau 37 năm dài. Vì không nói ra lúc này sẽ không có dịp nào để nói, giữa chúng ta từ lâu đã cư xử với nhau rất mực huynh đệ chi binh, nhưng cũng đầy hào khí giang hồ. Tôi sẽ không nhắc lại những chiến công oanh liệt của các bạn hay của chúng tôi. Tôi chỉ muốn nhắc lại những người đi vào chiến tranh với dáng vẻ hào hoa phong nhã, lúc nào quân phục cũng sạch bóng, trang bị nhẹ nhàng không giống như đám chúng tôi bao giờ cũng vậy hễ xuất quân là quần áo rằn ri, lôi thôi lếch thếch…nào là ba lô, súng ngắn, súng dài, giây nhợ quanh người, lựu đạn lủng lẳng đằng truớc, đằng sau. Mỗi lần được bốc ra khỏi vùng hành quân thì ôi thôi khỏi nói, dù có yêu tôi cách mấy cũng chỉ đúng xa mà chào mừng chứ chưa ai dám ôm hôn tôi thắm thiết. Mười lăm ngày hay một tháng luồn lách qua bờ bụi, lên xuống đồi núi dưới cái nắng nóng ẩm, mồ hôi rơi xuống mờ cả mắt lau không kịp. Bộ đồ trận lúc nào cũng đẫm ướt mồ hôi nhiều khi chẩy theo hai bắp chân xuống đôi giày đi rừng.

Đêm nằm trên chiếc poncho gấp đôi, mồ hôi vẫn còn đọng ướt cả lưng. Cứ như thế ngày này sang ngày khác, bộ đồ trận ướt rồi khô, bao nhiêu mùi hôi đều thấm sâu vào vải áo quần. May mắn lắm mới qua được một con suối còn lại chút nước, vội vàng múc cho đầy 2 bị đông nước, xong cùng nhảy xuống hụp cho ngập đầu rồi lại tiếp tục đi.

Ấy là những ngày không chạm địch, còn có thời gian ngồi xuống để thay một đôi vớ đã bốc mùi khó chịu. Những lần chạm địch thì coi như được phép quên đi những khó chịu hàng ngày, quên đi mình đã chưa ăn gì suốt một ngày qua, đã chưa uống một ngụm nước. Tàn cuộc thắng hay thua, lúc ấy mới biết mình còn đủ mồm miệng để ăn vội bọc cơm sấy. Còn các bạn tôi thật khỏe, ngồi trong buồng lái tha hồ tung hoành ngang dọc, hết phi vụ quay về phi trường, đi thẳng vào Câu Lạc. Bộ làm một ly cà phê đá, khỏe re trong lúc chờ cho các chuyên viên “check” tàu, tái trang bị bom đạn, “rocket” để chờ phi vụ tiếp theo.

Chưa nói đến vài ngày chúng tôi được xả hơi sau mỗi cuộc hành quân, cởi được bộ đồ hôi hám, thay vào một bộ quân phục mới để cùng xuống phố phường uống vài chai “33”cho đã bù lại những ngày phải uống nước sông nước suối. Nhưng nếu có xuống phố hay buổi tối tạt vào một tiệm nhảy nào lại đụng mấy bạn, và bao giờ chúng tôi cũng lép vế, lép về về đủ mọi phương diện. Đôi khi có một tí tình còm để an ủi những hễ chấm được cô nào vừa ý là y như rằng đã có một ông Không Quân nào sắp sửa rước đi rồi !!!

Nói cho vui vậy thôi chớ vội cho rằng chúng tôi đả kích các bạn nhé, thua thì thua rồi. Xưa còn trẻ đã không thắng các bạn, nay đầu đã bạc, chân mỏi gối mòn, hơi sức đâu mà ganh với đua . Trước khi nhắc lại những kỷ niệm đã qua, xin cho tôi nhắc lại một câu chuyện sau.

Vào tháng 1 năm 1975 khi Biệt Đoàn chúng tôi được lệnh tăng viện cho Tiểu Khu Phước Long, lúc này đang bị trên một sư đoàn địch vây hãm, các đơn vị địa phương hầu như đã tan hàng. Nói là Biệt Đoàn nhưng thật ra chỉ có 2 Biệt Đội 811, 814 và Bộ Chỉ Huy, tổng cộng khoảng 320 nguời. Không Đoàn 43 Chiến Thuật thuộc Sư Đoàn 3 Không Quân là đơn vị yểm trợ và đổ quân, dưới cơn mưa pháo 105 ly, 155 ly, hỏa tiễn 122 ly và súng cối, các phi đoàn trực thăng đã hoàn thành nhiệm vụ một cách phi thường với tổn thất không đáng kể.

Đích thân Chỉ Huy Trưởng của tôi, cựu Đ/Tá Phan Văn Huấn và Đ/Tá Triệu đã trực tiếp chỉ huy cuộc đổ quân. Nhìn từ trên trực thăng xuống thị xã Phước Long tôi nghĩ khó mà đáp được vì cả thị xã ngập trong khói lửa của đủ loại pháo chưa kể hỏa lực phòng không của địch tua tủa bắn lên đây trời với đủ loại từ đại liên 50, súng cá nhân, 23 ly và 37 ly. Tiếng đạn pháo nổ dưới đất cộng tiếng các loại phòng không nổ ngang trời nhắm vào các phi tuấn A-37 va F-5 đang cố thả những trái bom và bắn rocket yểm trợ cho cuộc đổ quân vang rền cả một vùng trời.

(BCND nhảy vào vùng địch)
Tôi chỉ còn trông cậy vào tài bay bổng của các bạn đưa tôi an toàn xuống đất, chỉ cần chúng tôi đặt được chân xuống đất, dù chưa biết sau đó sẽ ra sao. Và thật như một phép lạ, cả hai lần đổ quân đều trót lọt, tất cả đều nhờ tài khôn ngoan của phi hành đoàn. Thay vì đáp ngay xuống thị xã, các phi hành đoàn của Không Đoàn 43 Chiến Thuật đã đáp xuống cạnh các khe suối cạnh thị xã, là những nơi khuất tầm quan sát của các tiền sát viên địch. Địch đã bố trí quanh khu vực Phước Long một trung đoàn phòng không với đủ mọi loại súng từ 12 ly 8 đến 23 ly và 37 ly. Tiền sát viên của địch ở khắp nơi, nhất là đỉnh núi Bà Rá đã bị địch chiếm mấy ngày trước. Biệt Đoàn I Chiến Thuật của tôi chỉ gồm có Bộ Chỉ Huy và 2 Biệt Đội (Biệt Đoàn -), không quá 300 người. Lực lượng trú phòng của Tiểu Khu Phước Long và các đơn vị tăng phái không còn bao nhiêu.

Tiểu Đoàn 7 thuộc Trung Đoàn 9 của Sư Đoàn 5 chỉ còn không quá 100, Đại Đội 5 Trinh Sát, Sư Đoàn 5 chỉ còn hơn 10 người đã dạt vào đơn vị tôi, Đại Đội Trinh Sát Sư Đoàn 18 Bộ Binh còn Đại Đội Trưởng và hơn một trung đội. Hai Tiểu Đoàn Địa Phuơng Quân đã tan hàng, quân nhân còn lại cũng lẫn lộn trong hàng rào phòng thủ của Biệt Đội 811 của tôi. Cộng chung lại không quá 500 tay súng để chọi lại với lực lượng địch trên 10 ngàn với đủ bộ xe pháo mã tốt. F-5 và A-37 vẫn yểm trợ tích cực nhưng với một hệ thống phòng không chằng chịt không thể xuống thấp để có thể đánh bom chính xác hơn. Từ dưới đất tôi thấy chỉ một chút sơ hở là những chiếc F-5 và A-37 kia sẽ vỡ tung, có một vài trái bom đã rơi vào vị trí bạn …phải chấp nhận thôi .Dù sao sự hiện diện của những chiếc phi cơ này cũng khiến dịch không dám điều động thiết giáp tiến sát đến vị trí chúng tôi. Dân và lính bỏ đơn vị tràn ngập vị trí chúng tôi khiến không thể nào kiểm soát được, tuy vậy chúng tôi vẫn đẩy lui được nhiều đợt xung phong của địch và đã hạ được 4 chiến xa địch.
Vào lúc choạng vạng tối ngày 5 tháng 1 năm 1975, chiến xa địch và bộ binh tiến sát vị trí Bộ Chỉ Huy của tôi, sau đợt pháo 130 ly, 155 ly, 122 lý và 105 ly, chúng thả một toán đặc công vào 2 lô cốt trống , nhờ phát giác kịp thời nên chúng đã bị tiêu diệt ngay sau đó.

Suốt trong thời gian từ ngày 4 tháng 1 năm 1975 đến ngày 6 tháng 1 năm 1975, không lúc nào địch ngưng pháo vào vị trí chúng tôi, chúng mở nhiều đợt tấn công có chiến xa yểm trợ mong tiến sát vào vị trí chúng tôi. Sáng ngày 5 tháng 1 năm 1975, tôi đơn phương quyết định không cho C-130 thả dù tiếp tế nữa vì 1/2 khu vực thị xã đã rơi vào tay địch trước đó 2 ngày. Hầu như 9/10 những kiện hàng tiếp tế đều rơi vào tay địch, các phi vụ oanh kịch không hiệu quả, không còn pháo binh yểm trợ, không tiếp viện. Ở tại Quân Đoàn III, Trung Tướng Dư Quốc Đống từ chối lệnh thả phần còn lại của Liên Đoàn 81 BCND. Trong tình thế này, tôi buộc phải cho lệnh đơn vị rút khỏi Phước Long để bảo toàn đơn vị, tôi đã phải để lại hơn 60 xác đồng đội tại đây. Một điều đau đớn chưa bao giờ xảy ra trong lịch sử của đơn vị tôi. Tôi đã phải phân tán đơn vị tôi thành từng toán nhỏ, lợi dụng đêm tối, vượt qua hàng rào bao vây của địch để thoát ra ngoài. Phước Long thất thủ vào sáng ngày 6 tháng 1 năm 1975.
Trong lúc đơn vị tôi còn đang tìm cách vượt qua vòng vây của địch thì ngày 7 tháng 1 năm 1975 đã có một buổi họp cao cấp của Quân Đội, giống như tòa án quân sự, họ cố gán ghép việc thất thủ Phước Long là do lỗi của Không Đoàn 43 Chiến Thuật thuộc Sư Đoàn III Không Quân Biên Hòa. Thật là vô cùng phi lý nếu không nói là ngược ngạo. Trong khi các phi cơ của các Phi Đoàn Trực Thăng 221, 223, 231 237 … phi cơ L-19 còn đang bay tìm kiếm và bốc các toán đã vượt qua được vòng vây địch thì tại hậu phương họ đang bị kết tội.

Trách nhiệm làm mất Phước Long nếu nói thuộc về tôi, người đã tự quyết định rút khỏi Phước Long, cao hơn là vì chỉ huy trực tiếp của tôi đã không buộc tôi phải hy sinh cả đơn vị để cố thủ một vị trí mà gần như đã hoàn toàn chiếm giữ bởi quân địch. Chúng tôi còn sống sót không trách cứ bất cứ cấp chỉ huy nào. Người lính chỉ biết tuân hành mệnh lệnh nhưng rõ ràng trách nhiệm làm mất Phước Long thuộc về người đã ra lệnh thả một đơn vị 300 người vào chỗ cầm chắc 90% để thua về một mục đích chính trị. Một ván bài tháu cáy, và đã thua, là khởi sự cho sự sụp đổ sau này.

Tôi đã ghi ở phần trước là giữa Không Quân và các anh em 81 BCND, ngoài tình huynh để chi binh, chúng tôi còn có một cái nghĩa “giang hồ”. Trong buổi họp, Đ/Tá Huấn, Chỉ Huy Trưởng 81 BCND đã dũng cảm tuyên bố trước mặt các tướng lãnh:

“Mất Phước Long, lý do tại sao quý vị đều biết nhưng không ai nói ra. Phần Liên Đoàn 81 chúng tôi vào chỗ chết đã đành bởi nghề nghiệp chúng tôi là chọn chỗ chết để đi vào. Riêng các anh em Không Quân, các phi hành đoàn trực thăng đã làm quá bổn phận của họ, đã chết lây với chúng tôi, thật tội nghiệp. Nay đưa họ ra tòa, tôi cho là vô lý, nếu có lỗi làm mất Phước Long, tôi nhận lỗi. Xin quý vị tiếp tục họp và cho tôi biết kết quả, tôi xin phép ra về vì còn nhiều việc phải làm”

Mãi 2 ngày sau, tôi và Bộ Chỉ Huy mới thoát ra khỏi được vòng vây địch. Ban đêm di chuyển qua các bãi trống, tôi phát giác được nhiều chốt của địch đang bám giữ các bãi đáp này. Sáng cuối cùng chúng tôi tới được một nương sắn (khoai mì), đã thấy nhiều trực thăng đang bốc các toán lẻ cách thị xã khoảng 5 đến 10 cây số. Tôi không còn máy để liên lạc với họ vì chiếc mày truyền tin PRC-25 cuối cùng đã bị Hiệu Thính Viên của tôi đánh rớt xuống nước khi vượt qua sông vào buổi tối. Phương tiện liên lạc duy nhất là một mảnh kiếng nhỏ bằng 2 đầu ngón tay, tôi cũng không hy vọng được bốc ra. Ở tại Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn, mọi người đều nghĩ tôi đã tử trận hoặc bị bắt . Còn đang kiểm điểm xem còn lại bao nhiêu người trong BCH của tôi, bất chợt tôi nghe lùng bùng ở tai. Tôi biết đang có trực thăng bay rất thấp vì tiếng quạt gió làm rung chuyển lớp không khí còn ướt hơi sương, chỉ trong một khoảnh khắc ngắn chiếc chiếc trực thăng UH1 đã ở ngay phía trước. Anh em vội bẻ gẫy một số cây khoai mì, trong lúc đang ra dấu cho trực thẳng vào vị trí, tôi chợt nghe nhiều loạt súng cá nhân từ các đồi bên cạnh bắn qua, có lẫn cả tiếng nổ của đạn súng cối bắn vào vị trí quanh bãi đáp. Vì số cây khoai mì còn nhiều nên trực thăng chỉ lơ lửng trên đầu ngọn cây khoai mì, anh em tự nhảy lên bám vào càng leo lên rồi kéo người khác lên. Đạn bắn càng lúc càng gần, đốn gẫy các cây mì chung quanh.
Vì đạn địch bắn quá gần nên phi hành đoàn buộc phải cất cánh vội vàng. Tôi và Đ/Úy Thành, sĩ quan liên lạc Không Quân (ALO) phải nhảy lên mới bám được vào càng bên trái của chiếc trực thăng.

Khi anh em kéo tôi lên được trên sàn tàu, tôi phải xoay người lại nhờ anh em bám chặt hai chân, cúi xuống nắm lấy hai cổ tay của của Đ/Úy Thành và la lớn để anh thả hai tay ra thì tôi mới kéo anh lên được. Những Anh Thành vẫn không chịu buông tay ra và la lên “Cho tàu đáp xuống” …khi chiếc trực thăng đã bốc lên cao khoảng 200 bộ , bỗng nhiên anh bỏ tay ra không báo trước nên tôi đã để vuột anh. Nhìn anh rơi xuống như một chiếc lá rụng, chiếc áo jacket da bò xòe ra như một cánh bướm mất hút với tiếng là thảm thiết của anh, tôi như người mất hồn…Cả phi hành đoàn đều cúi xuống nhìn anh rơi mà không màng đến hàng trăm viên đạn phòng không đang túa theo chiếc trực thăng đang nặng nề rời bãi.

Chiếc trực thăng duy nhất của Không Đoàn 43 đó Tr/Uy Sơn (Sơn Rỗ) lái đã phải cất cánh với 32 nguời kể cả phi hành đoàn, nó đã bị quá tải (overtorque), chỉ bay mà không đáp được nữa vì nếu đáp sẽ không còn có thể cất cánh được nữa.

Trong đời binh nghiệp của tôi từ khi còn là một toán trưởng thám sát cho đến khi trở thành một cấp chỉ huy cao hơn, chưa bao giờ tôi phải ân hận như thế, đã để rớt Đ/Úy Thành. Hình ảnh của anh còn mãi trong tôi như một cơn ác mộng luôn đè nặng lên tôi trong nhiều năm.

Có rất nhiều phi hành đoàn trực thăng đã chết lây theo chúng tôi. Vì là một đơn vị lấy phương tiện không vận và không yểm là con chủ bài, hầu hết các cuộc hành quân của Liên Đoàn 81 BCND đến nằm trong vùng địch và sau lưng địch, không nằm trong tầm pháo binh, có khi còn phải chuyển tiếp qua căn cứ tạm để tiếp nhiên liệu vì thời gian bay của trực thăng không đủ bảo đảm số thời gian bao vùng. Nếu nói một cách tàn nhẫn hơn thì dù 81 BCND chỉ là một đơn vị nhỏ nhưng đã làm thiệt hại rất nhiều phi cơ của cả hai phía Hoa Kỳ và Việt Nam. Tôi đã sống hết đời quân ngũ trong chỉ một đơn vị duy nhất, 12 năm khởi đầu bằng nghề Toán Trưởng, leo lên đến được BCH/ Biệt Đoàn, tôi đã chứng kiến được nhiều điều đau xót. Quên sao được khi lần đầu tiên bước chân lên chiếc H-34 nặng nề như một con voi của Phi Đoàn 215 Thần Tượng, nhớ những Anh Vui, Vinh, Khôi, Mành, Trắng, Hiếu …Những con người hào hoa đã đưa chúng tôi vào những mặt trận “thắt cổ họng còn sướng hơn” như Bình Giả, Pleime, Đức Cơ, Đồng Xoài …và đã đón chúng tôi trở về trong niềm vui gặp lại vợ con, bằng hữu. Quên sao những bạn bè như Trọng, Vỹ, Bảo, Dõng, Duyên và hàng trăm phi công trẻ của Không Đoàn 43 Chiến Thuật, những cánh bay mong manh L-19 thủng hàng chục lỗ đạn. Quên sao được những buổi hàng đoàn trực thăng đáp xuống sân căn cứ hành quân ở Suối Máu, Biên Hòa, phi hành đoàn ngồi chờ phi vụ với một khúc bánh mì, gói xôi đậu xanh mua vội ở Biên Hòa. Những con người đã từng đối đầu với gian nguy cùng với chúng tôi qua bao nhiều mặt trận mà cuộc sống vật chất không đủ để nuôi vợ con, nhưng vẫn cười vang mỗi lần gặp gỡ.
Chúng tôi đã không có đủ khả năng để đãi các bạn một bữa cơm trưa thanh đạm mà phải để các bạn bay về căn cứ, nuốt vội bữa cơm ở Câu Lạc Bộ, để rồi lại phải tiếp tục suốt buổi chiều, có khi trở về khi trời đã tối. Thế mà các bạn vẫn cười, không có một lời phiền hà. Chúng ta đã đã cùng chiến đấu để không vì miếng cơm manh áo của chính mình mà vì để bảo vệ miền Nam tự do, tránh được cái họa cộng sản.

Mỗi lần đi tham dự ngày họp mặt của các Quân Binh Chủng bạn, nhìn lại các chiến hữu xưa, nay đầu đã bạc trắng bỗng bùi ngùi nhớ lại thân phận mình. Nhớ tới tôi đã chưa một lần gửi lời cảm ơn các bạn, vì lòng nhiệt thành của các bạn, biết bao nhiêu lần chỉ vì để cứu một người lính 81 BCND trong vòng vây địch, để rồi lại phải hy sinh cả phi hành đoàn, chúng tôi đã phải chấp nhận những tổn thất về nhân mạng. Chúng ta khác kẻ thù, chúng ta quý nhân mạng hơn, dù chỉ là một người lính bình thường. Biết bao lần tôi chứng kiến những chiếc trực thăng bị nổ tung khi vừa vào bãi đáp, không một người sống sót. Sự tiếp cứu sau đó chỉ để mang về những xác người đã cháy đen!!! Còn gì buồn hơn khi thấy người phi công thoát ra khỏi chiếc A-37 bị bắn cháy, chiếc dù cứ trôi theo gió rồi rơi vào đất địch. Hãy cảm nhận nỗi đau khổ của anh em chúng tôi, những người tiếp cứu một phi công L-19 của Không Quân Việt Nam bị bắn cháy chỉ mang về một thi thể trần truồng. Địch đã xỉ nhục hay căm thù đến nỗi lột hết quần áo của một người đã chết thân thế không còn nguyên vẹn. Cái bản chất cầm thú của kẻ địch đã đối xử với một người đã chết còn như thế, thử hỏi đối với những chiến hữu của chúng ta rơi vào tay địch còn phải chịu đựng những khổ nhục như thế nào? Bao nhiêu chiến sĩ Không Quân đã hy sinh, bao nhiêu người đã rơi vào tay địch?

Hoàng hôn ngày 27 tháng 4 năm 1975, giữa khung trời còn âm u khói từ kho bom phi trường Biên Hòa bị nổ trước đó vài ngày, tôi đứng bên nầy hàng rào nhìn hàng chục chiếc trực thăng cất cánh rời bỏ phi trường. Thế là hết, ẩn ý như một lời vĩnh biệt…đó là lần cuối cùng tôi nhìn thấy những cánh chim ấy, những cánh chim đã cùng chúng tôi trải qua bao gian nguy.

Bây giờ những cánh bay ấy có thể đã nằm mục rã ở một vài bãi phế thải nào đó, hoặc nằm sâu dưới đáy biển sau lần bay cuối cùng, hay may mắn hơn được nằm trong các viện bảo tàng chiến tranh. Nhưng những con người điều khiển chúng vẫn còn nhiều, lòng yêu nước và tinh thần dấn thân vẫn còn và mơ ước một ngày nào đó được bay trên vùng trời Tổ Quốc Việt Nam Tự Do.

Cuộc chiến tranh này chưa bao giờ chấm dứt, nó chỉ được thay đổi hình thức mà thôi … “Old soldiers never die; they just fade away.”
General Douglas MacArthur

A20 Vũ Xuân Thông

Liên Đoàn 81 BCND
(31 Tháng Mười Hai 2020)

Tuesday, February 25, 2025

--Hãy thắp cho anh một ngọn đèn…

 

*** Sau cùng, suốt 40 năm tạp ghi, viết về cựu chiến binh, viết về thuyền nhân, viết về nước Mỹ, viết về Việt Nam Cộng Hòa, lần này tôi được yêu cầu viết về một mối tình. Nói cho chính xác, viết về chuyện tình của cô nữ quân nhân thuộc hàng thấp nhất của hạ sĩ quan.

Cô hạ sĩ nhứt của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa tên Lý thị Thương Uyên hiện cư ngụ tại Oklahoma City với Area code 405, giữa cơn giông bão mùa Xuân năm 2010 đã kể lại chuyện đời lính của phụ nữ Việt Nam. Cuộc đời của chính cô. Cô phàn nàn rằng sao không thấy bác viết về chuyện hạ sĩ quan binh sĩ. Không viết về người lính nữ quân nhân thực sự sống chết tại các đơn vị. Sao bác không viết về chuyện của em…

      

Cô Uyên gửi thư cho Dân sinh Radio sau khi nghe loạt bài về Thủy Quân lục chiến và trận Quảng Trị. Phải chăng cô biết gì về Quảng Trị. Không. Cô gái suốt đời là học sinh và suốt đời đi lính chỉ quanh quẩn ở Hậu giang và miền Tây Nam Phần, chẳng biết gì về cao nguyên, duyên hải hay miền Trung Việt Nam.

Nhưng cô có liên hệ rất nhiều với người yêu Thủy Quân lục chiến, cô nghĩ rằng trận Quảng Trị là trận của người lính mũ xanh. Cô muốn gửi di vật của trung úy thủy quân lục chiến Bùi Năng Vũ về cho viện Bảo Tàng tại San Jose. Lá thư viết như sau:

-- Kính gửi bác Giao Chỉ.

Em tên thật là Lý thị Thương Uyên hiện ở Oklahoma, xin gửi một kỷ niệm nhỏ đến bác. Mong nó được lưu giữ. Đã 40 năm qua em giữ nó như báu vật. Qua bao nhiêu cuộc bể dâu nó vẫn ở bên mình. Không biết bao lần em đã tự hỏi nếu một mai chết đi thì nó sẽ ra sao? Có thể bảo con trai liệm chung trong quan tài cho mẹ. Khi sang thế giới bên kia em sẽ gặp Vũ để trả lại cho anh. Nhưng cuộc đời này làm sao biết được ngày mai. Vậy xin bác giữ lại và đặt vào chỗ nào đó cho em yên lòng.

-- Kỷ vật nhỏ bé gửi kèm theo chỉ là bài thơ do trung úy thủy quân lục chiến Bùi Năng Vũ tặng em cuối mùa thu 1970, lúc đó đơn vị gốc của anh Vũ ở căn cứ Sóng Thần, khu Rừng Cấm, thuộc Tiểu Đoàn Ó Biển. Vũ đã chết ở trại tập trung Đà Lạt năm 1978. Đây là số điện thoại của Uyên (405)…

Đính kèm là bài thơ của anh sĩ quan thủy quân lục chiến viết chữ rất đẹp, trên những tờ giấy màu xám mỏng bỏ trong 1 bao thơ đơn sơ cũ kỹ. Góc bao thơ đề:

Vũ, thủy quân lục chiến. Gửi cho Thương Uyên.

Phía dưới là hàng chữ: “Nhờ Chỉnh chuyển giùm tao. Cám ơn.

Bài thơ mở đầu như sau:

Lời hứa buổi hoang sơ tương ngộ.

Chỉ một lần xin nhớ đến trăm năm…

Đọc xong lá thư của cô Uyên, đọc xong bài thơ của anh Vũ, tôi nghĩ đến người lính trẻ đã chết trong ngục tù. Nghĩ đến người nữ quân nhân còn sống ở miền giông bão Hoa Kỳ. Bèn quay số 405… hỏi thăm…

Câu chuyện tình được bắt đầu kể lại:

--- Uyên quê ở Tân Châu, Hồng Ngự thuộc miền quê Châu Đốc, chưa học hết trung học nhưng có tên thật đẹp như bút hiệu nên cuộc đời cũng gặp nhiều phiền phức. 16 tuổi lên Sài Gòn ở nhà cậu mợ. 18 tuổi ghi tên vào học lớp hạ sĩ quan nữ quân nhân. Năm 1970 ra trường nhưng vì thường cậy có chút nhan sắc lại ba gai nên không được mang cấp bậc trung sĩ. Cô chỉ tốt nghiệp hạ sĩ rồi được gửi đi Vũng Tàu học đánh máy ở trường Truyền Tin.

Lê Thị Thương Uyên ngồi hàng đầu mang kiếng đen.

--- Tại đây cô gặp thiếu úy Vũ, dân Bắc kỳ. Anh được thủy quân lục chiến đưa về học lớp sĩ quan truyền tin. Mối tình kéo dài suốt thời gian cả 2 người theo học tại Vũng Tàu. Cô Uyên hỏi bác Giao chỉ có biết đại tá Tạo chỉ huy trưởng trường truyền tin không. Có, bác Tạo trước đây ở San Jose, nhưng bác đã chết rồi. Cô khóa sinh khoe rằng em được bác Tạo cho chụp hình nữ quân nhân truyền tin đang học đánh máy để treo trên tường. Như vậy chắc cô lính trẻ có nhan sắc ăn ảnh đáng được chụp hình quảng bá cho binh chủng.

Cô kể tiếp rằng mối tình với Vũ là mối tình đầu đẹp đẽ nhứt. Khi trung úy đi hành quân Cam bốt, cô Uyên đến thăm hậu cứ trại Cấm, Sóng Thần đã được các bạn đồng nghiệp cho vào phòng truyền tin nói chuyện với người yêu qua siêu tần số hành quân.

Nhưng rồi những ngày vui qua mau. Tình đầu không phải là tình cuối.

Một hôm Uyên khám phá ra rằng Vũ thực ra đã có người yêu. Đó là cô Sương quê Mỹ Tho, nữ điều dưỡng ở quân y viện Vũng Tàu. Sương quen Vũ từ khi anh nằm tại bịnh viện này. Uyên là người đến sau nên cô quyết định chia tay mối tình đầu đầy nước mắt. Vũ ra vùng hỏa tuyến. Uyên đổi về quân đoàn III. Rồi sau cùng cô đổi về tiểu khu Kiến Hòa thuộc quân đoàn IV. Cô xin đi thật xa miền Đông, nhưng vẫn nhớ Vũ và giữ mãi bài thơ tỏ tình năm 1970.

Từ Hạ Lào trở về, Vũ lấy Sương, mối tình đầu của anh. Năm 1973 Uyên lấy thiếu úy Nhiều, một sĩ quan hải quân, phục vụ trên chiến hạm Trần Khánh Dư.

Từ đó Uyên yên phận làm vợ người lính biển. Khi mang bầu đứa con đầu tiên, anh chồng sĩ quan hải quân lênh đênh trên biển Đông đã dặn vợ đẻ con gái đặt tên Cam Tuyền, con trai đặt tên Hoàng Sa. Cam Tuyền cũng là tên một hòn đảo của Hoàng Sa. Và đứa con trai Hoàng Sa đã ra đời tại Mỹ Tho. Hai vợ chồng cùng khoác chiến y nhưng chiến tranh đã chia cắt gia đình thành nhiều mảnh. Chồng hải quân sống trên đại dương. Vợ trực gác tổng đài tại mặt trận sình lầy Kiến Hòa. Con trai Hoàng Sa gửi về cho bà nội nuôi ở Châu Đốc.

Cô Uyên tiếp tục hăng hái kể chuyện nhà binh.

Sau mối tình đầu dang dở, cô và chị Sương nay vợ của Vũ đã gặp nhau nối thành tình bạn gái. Cuộc đời nữ quân nhân, với cấp bậc hạ sĩ rồi vinh thăng hạ sĩ nhứt đã dành cho cô Uyên những kỷ niệm không bao giờ quên được. Cô đã từng là hoa hậu của các chiến binh độc thân trong đơn vị từ binh sĩ đến hạ sỹ quan. Vì mang cấp hạ sĩ, cô cai Uyên gần gũi với đa số lính tráng hơn là các sĩ quan.

Đêm hỏa châu làm việc dưới hầm truyền tin tiểu khu. Những anh lính ca vọng cổ tán tỉnh. Lời hò tình tứ qua máy truyền tin lẫn trong tiếng pháo kích. Hỏa châu sáng rực chân trời. Chưa bao giờ cô lại thấy nhớ đời lính như vậy.

Nhưng rồi tháng 4 - 1975 oan nghiệt chợt đến. Anh Vũ, Bắc Kỳ bỏ Sóng Thần từ biệt cô Sương đi trình diện vào tù trên Đà Lạt. Anh Nhiều, Nam kỳ bỏ vợ con ở Châu Đốc đi tù trong Đồng Tháp. Bộ binh cũng vào tù, Hải quân cũng vào tù. Cô lính trẻ có tên như tài tử nhưng chỉ mang cấp bậc hạ sĩ nhứt nên không phải đi tù. Dù vậy cô vẫn nhớ thương quân đội Cộng Hòa. Một lần chị Sương ghé Mỹ Tho gặp Uyên báo tin anh Vũ đau nặng trong trại tù. Chị em cùng đi tìm mua thuốc tiếp tế. Mấy tháng sau, Sương ghé lại với ngón tay đeo 2 chiếc nhẫn cưới. Cô vừa đi chôn chồng sau khi nhận xác từ trại tập trung. Anh lính trẻ Bắc Kỳ chết đi để lại cho những cô gái miền Tây di vật cuối cùng. Cô Sương còn cặp nhẫn. Cô Uyên có lá thư tình. Anh Vũ chết rồi. Cô Sương trợ tá quân y không bao giờ lên Đà lạt nữa. Cô Uyên truyền tin còn đi thăm nuôi chồng 3 lần ở Đồng Tháp. Rồi anh Nhiều trở về. Thêm 1 đứa con trai ra đời, anh cựu sĩ quan hải quân tuy ra tù “cải tạo” nhưng vẫn còn nhớ mãi biển Đông nên đặt tên con trai thứ hai là Trường Sa.

Năm 1992 gia đình anh Nhiều và cô Uyên đem cả Hoàng Sa và Trường Sa qua Hoa Kỳ theo diện HO 9. Hai vợ chồng cùng đi làm và nuôi con ăn học.

Nhưng sao cuộc sống hòa bình ở Hoa Kỳ không giống như thời kỳ chiến tranh ở Việt Nam. Vợ chồng không còn hòa thuận nên chỉ ở được với nhau thêm 4 năm tại Mỹ rồi chia tay. Lần lượt những đứa con trai trưởng thành đi theo bố về Texas làm ăn. Anh Nhiều có vợ mới. Cô Uyên còn lại ở Oklahoma một mình.

Cháu Hoàng Sa lập gia đình, có 2 đứa con nhưng rồi vợ chồng nó cũng chia tay. Lúc còn ở với nhau, vợ chồng con trai đưa cháu về thăm bà nội. Đó là những giây phút hạnh phúc nhất của cô hạ sĩ nhứt Thương Uyên. Nhưng bây giờ chúng nó bỏ nhau. Vợ Hoàng Sa đưa con về bà ngoại. Cha con nó còn ít gặp nhau. Chẳng ai còn ngó ngàng gì đến bà nội trẻ cô đơn nhớ đám cháu quay quắt đêm ngày. Năm nay cô mới 60 tuổi. Còn lâu mới lãnh tiền già. Cô cựu chiến binh Việt Nam Cộng Hòa vẫn đi làm tự nuôi thân. Cuối năm 2009 cô bị té trong hãng nên phải nằm nhà, lãnh tiền thương tật vì tai nạn lao động. Suốt ngày chỉ quanh quẩn trong nhà. Mùa Đông 2009 mưa bão triền miên chẳng ra khỏi nhà. Trải qua cái TẾT cô đơn, cô Uyên nghe đài Radio nói về Thủy quân lục chiến đánh trận Quảng Trị 38 năm về trước. Cô bèn đi tìm lá thư tình của Trung úy Vũ, cô nghĩ đến ngày mai rồi mình cũng qua đời trong quạnh hiu giữa mùa tuyết phủ nơi xứ lạ quê người.

Những đứa cháu Hoàng Sa và Trường Sa thân yêu của cô cũng đang bận rộn bươn trải với cuộc đời mới. Chỉ còn lại một mình, chợt nhớ về mối tình ở trường truyền tin, những vần thơ rất lãng mạn và ngây thơ của người lính trẻ Bắc kỳ. Cô hỏi bác Giao Chỉ rằng nếu bây giờ, đã gần 40 năm rồi, cô vẫn còn thấy nhớ thương mối tình đầu thì có phải tội lỗi không?

Không, cô cựu chiến binh Việt Nam Cộng Hòa của tôi, cô hạ sĩ quan truyền tin của tiểu khu Kiến Hòa, nàng cai sếp của tiểu đoàn truyền tin diện địa quân đoàn IV, cô không làm điều gì sai quấy khi ngồi than khóc cho chuyện tình gần 40 năm về trước. Anh chàng trung úy Bùi Năng Vũ rất xứng đáng để cô gái Tân Châu ngồi khóc ở Oklahoma, nhớ về những ngày hai đứa ngồi bên hàng dừa ở bãi sau Vũng Tàu. Anh thấy hình em treo trên tường ở phòng học đánh máy trong trường truyền tin. Trung úy thủy quân lục chiến Bắc Kỳ tạm quên cô Sương y tá bên quân y viện để gửi thư tán tỉnh cô khóa sinh truyền tin xinh đẹp. Chàng ký tên bút hiệu Châu Nguyên năm 1970 gửi bài thơ cho Lý thị Thương Uyên.


Lời hứa buổi hoang sơ tương ngộ.

Chỉ một lần xin nhớ đến trăm năm.

Đó là đoạn mở đầu. Và đây là những trích đoạn tiếp theo:

Bụi đường và tháng ngày còn đó.

Gửi cho Uyên làm kỷ niệm chia ly

Mai anh đi, nghe thời gian rũ cánh

Kiếp phong trần cháy đỏ trên tay

Đắng cay cho trọn tháng ngày

Cung thương một gánh, tình sầu chưa nguôi…

…………..

Đá trong ly, đá tan thành rượu

Rượu lên men, rượu ngọt lịm môi…

……………

Có một ngàn vì sao

Nằm trong đáy mắt

Như một ngàn hỏa châu thắp sáng

Như một ngàn đóm thuốc trong đêm…

…………….

Em ơi! Thương Uyên! Anh là người lính

Mà số trời đã định, cho một cuộc sống

Với quá khứ là tủi nhục,

Hiện tại là đắng cay

Và tương lai chỉ là nấm mồ không tên nơi chiến địa…

Châu Nguyên, cuối thu 1970.

Bút tích TQLC Bùi Năng Vũ

Với lá thư tình não nuột như vậy, anh trung úy thủy quân lục chiến đã chiếm được trái tim cô gái Tân Châu. Và như chúng ta đã nghe cô hạ sĩ truyền tin kể lại, khi khám phá ra anh trung úy Bắc Kỳ bắt cá hai tay, cô đã bỏ đi để buộc anh phải trở lại với mối tình đầu. Để anh lấy chị Sương, người con gái Mỹ Tho.

Cô Uyên nói rằng, thưa với bác, em nhường Vũ cho chị Sương, nhưng em hỏi bác vì bác cũng là Bắc Kỳ, thơ này có phải thực lòng của anh Vũ không. Có phải thơ của Vũ làm không? Bác trả lời rằng, thơ này nhiều phần chính Vũ đã làm. Bác chưa từng đọc được lời thơ này ở đâu cả. Rất chơn thành tuy cũng có phần cường điệu. Người lính trên khắp thế giới đều vẫn thường đưa cái chết ra để dọa dẫm người tình và dọa dẫm cả chính mình. Ngày xưa, ở tuổi 20, mới vào quân đội, Vũ cũng là hình ảnh của những anh Bắc Kỳ như bác… Anh nào cũng thơ thẩn bước vào đời. Thơ không làm được thì chép thơ thiên hạ tán đào. Bây giờ nhớ lại, ngượng chín cả người.

Quý vị đã nghe tôi kể chuyện của cô Uyên với nội dung không phải là một bi kịch ai oán não nùng. Không hề có những tình tiết éo le rắc rối. Nhưng mối tình đầu đã làm cô tưởng nhớ về những năm còn trong quân đội. Tuy bom đạn triền miên nhưng sao lại quyến rũ như vậy. Dù cô chỉ là 1 người lính đàn bà. 18 tuổi nhập ngũ, 25 tuổi tan hàng, với 7 năm quân vụ. Bây giờ đã 35 năm sau cô vẫn còn nhớ mãi về đời lính.

Bác có nhận giữ hộ lá thư của anh Vũ không. Cô gái Tân Châu hỏi tôi như vậy. Trả lời rằng, bác sẽ lưu giữ trong Museum câu chuyện tình của anh chị. Xin gửi kèm cho bác vài tấm hình kỷ niệm. Báu vật quý giá của cô sẽ là di vật của Việt Nam Cộng Hòa. Ở đây không phải chỉ toàn là những trận đánh oai hùng. Phải có cả những câu chuyện tình hết sức đơn giản như mối tình của cô Uyên với anh Vũ, chuyện vợ chồng của anh Vũ với chị Sương. Chuyện chia tay của cô Uyên với anh Nhiều. Những đứa con mang tên Hoàng Sa và Trường Sa. Và sau cùng là chuyện cô gái cựu chiến binh, cô cai sếp Việt Nam Cộng Hòa giữa trời mưa bão mùa đông Oklahoma ngồi khóc cho mối tình 40 năm về trước.

Thưa bác, bây giờ em phải làm gì, cô Uyên hỏi tôi lần nữa.

Tôi trả lời rằng: Trung úy Vũ là người yêu đầu tiên của cô năm 1970 và bây giờ sẽ là người yêu cuối cùng vào năm 2010. Trong đoạn cuối của bài thơ, Vũ đã viết rằng tương lai của anh chỉ là nấm mồ không tên nơi chiến địa.

 

Vậy cô Uyên hãy thắp cho anh Vũ một ngọn đèn.

Ngọn đèn tưởng niệm…

Hãy thắp cho anh một ngọn đèn…

Hãy thắp cho em một ngọn đèn…

Hãy thắp cho nhau một ngọn đèn…*

*(thơ Nguyễn Đình Toàn)

Hãy Thắp Cho Nhau Một Ngọn Đèn
Nhạc và lời : Nguyễn Đình Toàn
Khánh Ly trình bầy
I.
Hãy thắp cho anh một ngọn đèn
Dù mịt mùng xa xăm,
Một ngọn đèn trong đêm mờ ám.
Hãy thắp cho anh một ngọn đèn
Dù chẳng còn hơi ấm,
Cho lạnh lùng thấm qua lòng anh.

Hãy thắp cho anh một ngọn đèn
Một ngọn đèn trăm năm,
Rồi thả đèn trôi trên dòng sông.

Như tháng giêng trong đêm nguyệt rằm
Người thả đèn trên sóng,
Cầu nguyện cho những ai trầm luân.

Đêm quê hương
Đêm treo trên một cành ngang,
Chôn nhau xong làm dấu nhớ chỗ ai nằm.

Cơn mưa giông
Đêm qua đông trời lạnh lắm,
Gió khắp bốn bể cây rừng.
Núi run hình bóng
Mai rạng đông
Đến lượt ai đem chôn?

Hãy thắp cho anh một ngọn đèn
Dù tình đời mong manh,
Lòng chẳng còn trong mong gì nữa.

Hãy thắp cho anh một ngọn đèn
Tình còn là tình nhắn,
Chẳng còn đèn sẽ soi ngày không.

Hãy thắp cho anh một ngọn đèn
Để một mình trong đêm,
Anh tưởng nhìn ra em còn hơn.

Hãy thắp cho anh một ngọn đèn
Một ngọn đèn tai biến,
Một ngọn đèn tóc tang dửng dưng.

II.
Cố thắp cho em một ngọn đèn
Bằng lửa sầu tim anh,
Một ngọn đèn lênh đênh ngày tháng.

Cố thắp cho em một ngọn đèn
Dù mệt nhoài trông ngóng,
Để nhủ lòng gắn nuôi niềm tin.

Cố thắp cho em một ngọn đèn
Một ngọn đèn đau thương,
Đã nhạt nhòa hơn hơi tình duyên.

Cố thắp cho em một ngọn đèn
Bằng nhọc nhằn cay đắng,
Bằng hình hài rã trong trại giam.

Ôi đêm đen
Đêm mang trăm niềm ai oán
Đêm chôn ta từng canh vắng
Đêm âm thầm.
Đêm thê lương
Đêm không mong trời sẽ sáng
Đêm nghe xương rời rã buồn.
Ngón tay bẻ đôi
Như ngày xanh
Gẫy từ em qua anh.

Cố thắp cho em một ngọn đèn
Dù lửa tàn trong anh,
Không còn đủ khêu thêm đèn sáng.

Cố thắp cho em một ngọn đèn
Để dù trong tăm tối,
Có mộng còn biết nơi tìm sang

Cố thắp cho em một ngọn đèn
Rồi thả hồn bay lên,
Nơi hẹn hò không tên gặp em.

Cố thắp cho em một ngọn đèn
Để dù trong xa vắng,
Em còn được cháy trong lòng anh.

III.
Cố thắp cho nhau một ngọn đèn
Để dù trong tăm tối,
Ta còn được cháy trong lòng nhau.