Song song với các cơ quan hành chánh công nhận
quốc kỳ chúng ta, lá quốc kỳnền vàng ba sọc đỏ
của chúng ta cũng xuất hiện nhiều nơi trên thế
giới trong những trường hợp khác nhau nhưng ý
nghĩa vẫn là một: "Cùng dựng lại quốc kỳ chúng
ta bằng những cách khác nhau". Đồng thời, tại
nhiều nơi trên các quê hương thứ hai của Cộng
Đồng chúng ta tị nạn cộng sản, đã dựng lên các
Tượng Đài hoặc Bia Tưởng Niệm Chiến Sĩ Quân Lực
Việt Nam Cộng Hoà và Chiến Sĩ Quân Lực Đồng Minh.
Tại Tượng Đài cũng như Bia Tưởng Niệm, đếu có
quốc kỳ chúng ta cùng với quốc kỳ của quê hương
bản xứ trên hai cột cờ.
Trích trang 815, 816, và 817 trong quyển "Lược
Sử Quân Lực Việt Cộng Hòa, do cựu Đại Tá Trần
Ngọc Thống, cựu Thiếu Tá Hồ Đắc Huân, vàông
LêĐình Thụy biên soạn vàấn hành năm 2011. Theo
đó thì:
"Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa năm 1954 là
150.000 người, phát triển dần đến năm 1975
là1.025.000 người. Trong 21 năm chiến tranh, đã
có 259.300 Chiến Sĩ tử trận + 567.000 Chiến Sĩ
bị thương + 34.000 Chiến Sĩ mất tích. Về phía
quân đội Đồng Minh, thì: Hoa Kỳ có 58.200
Chiến Sĩ tử trận + 153.400 Chiến Sĩ bị thương +
1.700 Chiến Sĩ mất tích. Đại Hàn có 5.100
Chiến Sĩ tử trận + 1.000 Chiến Sĩ bị thương +
430 Chiến Sĩ mất tích. Australia có 430
Chiến Sĩ tử trận + 130 Chiến Sĩ bị thương.
Thái Lan có 350 Chiến Sĩ tử trận + 1.300
Chiến Sĩ bị thương. VàNew Zealand có 60
Chiến Sĩ tử trận + 210 Chiến Sĩ bị thương".Những
con số trên đây căn cứ theo tài liệu chưa đầy đủ.
Sau khi nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đánh
chiếm nước Việt Nam Cộng Hòa vào tháng 4/1975,
quân nhân, dân dự, cán bộ, và viên chức hành
chánh Việt Nam Cộng Hòa, bị cộng sản đẩy vào hệ
thống nhà tù trên toàn cõi Việt Nam, báo chí
thếgiới ước lượng khoảng85.000 tù chính trị
Việt Nam Cộng Hòa đã chết trong hơn 250 trại tù
+ Bị hành quyết khắp nên trên lãnh thổ Việt Nam
Cộng Hòa cũ 10.000 người + Chết tại các khu kinh
tế mới 9.500 người + Chết trên đượng vượt biên
vượt biển 450.000 người = 554.500 người".
Vì vậy mà công cuộc vận động xây dựng Đài Tưởng
Niệm Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa và Đồng Minh,
tôi nghĩ, làđiều nên làm khi có thể.
Và xin hiểu rằng, nhóm chữ "quốc kỳ Việt Nam", "quốc
kỳ chúng ta", "cờ vàng" trong bảng tổng hợp này,
là quốc kỳ Việt Nam nền vàng ba sọc đỏ của chúng
ta.
Phần một.
Tượng Đài Tưởng Niệm Chiến Sĩ.
1. Tượng đài tại NSW, Australia.
Ngày 31/8/1991,
lễ khánh thành Tượng Đài Chiến Sĩ Việt Nam Cộng
Hòa & Úc Đại Lợi rất trọng thể, do Đề Đốc Peter
Sinclair, Thủ Hiến tiểu bang New South Wales,
Australia, chủ tọa. Tượng đài đặt trong công
viên Cabra-Vale, thành phố Fairfield, ngoại ô
của Sydney, với quốc kỳ Việt - Úc cùng phất phới
trên kỳ đài.
20 năm sau. Khoảng 500 cựu chiến binh Việt Nam
Cộng Hòa & Australia và quan khách Việt - Úc, đã
khánh thành “Đài Tưởng Niệm Chiến Sĩ Việt Nam
Cộng Hòa & Uc Đại Lợi” tại Cabra-Vale Park
(Sydney) vào ngày 05/03/2011, với sự
chứng kiến của đại diện bà Thủ Hiến bang New
South Wales là Dân Biểu Tony Kelly. Sau lễ chào
quốc kỳ Việt - Úc và phút mặc niệm, ông Nguyễn
Văn Thành, Chủ Tịch Cộng Đồng NSW và ông Thị
Trưởng (cũng là Dân Biểu) Nick Lalich cùng mở
tấm vải che tượng đài trong tiếng vỗ tay vui
mừng, cũng là lúc cơn mưa đổ xuống nhưng mọi
người vẫn tiếp tục buổi lễ như không có chuyện
gì xảy ra.
Được
biết, Giám Đốc công trình là Luật sư Võ Trí Dũng,
và tượng đài do điêu khắc gia Đỗ Trọng Nhơn thực
hiện. Chi phí chung vào khoảng 90.000 Úc kim.
Theo “Hoa Bút News” trên Việt Luận ngày
08/03/2011 tại Sydney, tượng đài này là nâng cao
lên tượng đài đã khánh thành ngày
31/08/1991.
2. Tượng đài tại Perth, Australia.
Ngày 7/12/2002,
Cộng Đồng Việt Nam Tị Nạn chúng ta tại Australia
nói chung và miền Tây Australia nói riêng, đã
thực hiện và khánh thành Đài Tưởng Niệm Chiến Sĩ
Việt - Úc đã hi sinh vì dân chủ tự do tại thành
phố Perth, miền Tây Australia. Tại đó, quốc kỳ
Việt Nam chúng ta đã chánh thức phất phới trên
kỳ đài, dù rằng đại sứ cộng sản Việt Nam tại
Australia đã phản đối mạnh mẽ, nhưng họ đã thất
bại như đã thất bại với tượng đài năm 1991.
3. Tượng đài tại Westminster, Hoa Kỳ.
Ngày
27/4/2003,Đài
Tưởng Niệm Chiến Sĩ Việt Nam-Hoa Kỳ
đã được long trọng khánh thành tại công viên tòa
thị sảnh thành phố Westminster, tiểu bang
California, nơi được xem là “thủ đô” của Cộng
Đồng tị nạn chúng ta. Trong buổi lễ này, rất
đông nhân vật chánh quyền địa phương, chánhquyền
tiểu bang và liên bang Hoa Kỳ, nhiều quan khách
ngoại quốc mà trước kia có quân đội tham chiến
bên cạnh quân lực Việt Nam Cộng Hòa, và hằng
chục ngàn đồng hương Việt Nam tại địa phương, từ
nhiều tiểu bang khác, cùng với đồng hương từ
nhiều quốc gia xa xôi đến tham dự.
4. Tượng đài tại Dandenong, Australia.
Ngày 30/4/2005,
tượng đài được khánh thành trong buổi lễ thật
trang trọng tại Dandenong, tiểu bang Victoria,
Australia, với sự tham dự rất đông bà con Việt
Nam từ các tiểu bang qui tụ về đây. Trên bệ
tượng đài là Người Lính Australia & Người Lính
Việt gần như đâu lưng nhau trong tư thế sẳn sàng
chiến đấu trên đường hành quân.(trích e-mail
baokiem2005@aol.com ngày 15/5/2005)
5. Tượng đài tại Houston, Hoa Kỳ.
Ngày 11/6/2005,
rất đông bà con trong Cộng Đồng Việt Nam tị nạn
tại thành phố Houston và vùng phụ cận, và một
số nhân vật Hoa Kỳ địa phương -kể cả cựu chiến
binh Hoa Kỳ- đã tham dự ngày khánh thành tượng
đài Chiến Sĩ Việt Nam & Hoa Kỳ trong buổi lễ rất
trang trọng. Tượng chiến sĩ Việt Nam và Hoa Kỳ,
súng trong tay, cùng nhìn về phía trước trong tư
thế sẳn sàng tác chiến, do nhàđiêu khắc Phạm
Thông thực hiện. Tượng đài xây dựng tại số 11360
đại lộ Bellaire, khu tây nam thành phố Houston,
nơi qui tụ đông đảo đồng hương cư trú lẫn kinh
doanh thương mãi.
6. Tượng đài tại Brisbane, Australia.
Ngày 16/9/2002,
lễ khánh thành Tượng Đài Chiến Sĩ Việt - Úc do
Ủy Ban Xây Dựng Tượng Đài làông Huỳnh Bá Phụng,
và cựu Thiếu Tá quân đội Hoàng Gia Úc Alan
Cunninghamđồng tổ chức, tại Roma Street Pakland,
trung tâm thành phố Brisbane, tiểu bang
Queensland. Buổi lễ do Bà Anna BlighPhó Thủ Hiến
kiêm Bộ Trưởng Tài Chánh Queensland -thay mặt
ông Thủ Hiến Peter Beattie- chủ tọa, và bắt đầu
lúc 10 giờ sáng. Khoảng 700 bà con trong Cộng
Đồng người Việt tị nạn cộng sản trên toàn
Australia tham dự. Trong số quan khách, kháđông
các vị trong cơ quan lập pháp và hành pháp của
Brisbane và Queensland tham dự. Tượng đài Chiến
Sĩ Việt-Úc, do nhàđiêu khắc Federik Whittehouse
và kiến trúc sư Lê Cương đúc bằng đồng đen, đặt
trên bệ bằng cẩm thạch. Ông Bà Giào Sư Nhân Điện
Lương Minh Đáng và Bác SĩThủy, đã hỗ trợ vàđóng
góp rất nhiều cho Ủy Ban Xây Dựng Tượng Đài.
Buổi lễ chấm dứt lúc 12 giờ 15 phút trưa trong
niềm vui pha lẫn xúc động.
7. Tượng đài tại Adelaide, NamAustralia.
Ngày
15/10/2006,
tại thành phố Adelaide, sau hơn 3 năm phối hợp
công tác của Hội Cựu Chiến Binh Úc tham chiến
tại Việt Nam và Hội Cựu quân nhân Việt Nam Cộng
Hòa, tượng đài Chiến Sĩ Việt Nam &
Australiatrong công viên Torrens Parade Ground
trước Trung Tâm Quân Sự Tiểu Bang Nam Úc, được
khánh thành trong buổi lễ rất trang nghiêm và
cảm động, do ông Mike Rann, Thủ Hiến tiểu bang
Nam Úc chủ tọa. Khoảng 4.000 ngườiViệt Nam và
Australia tham dự, trong số đó có nhiều chính
khách của thành phố Adelaide, tiểu bang, và liên
bang. Đặc biệt là sựcó mặt của Trung Tướng
Donald Dunstan, cựu Tư Lệnh quân đội Úc tại Việt
Nam Cộng Hòa năm 1971-1972.
Tượng chiến sĩ Việt-Úc cùng đứng bên nhau trên
bệ đá hoa cương. Mặt Nam có dòng chữ “Vietnam
War Memorial” mạ vàng. Mặt Đông khắc huy hiệu
Hải Lục Không Quân Úc và huy hiệu Hải Lục Không
Quân VNCH. Mặt Bắc ghi tên 58 chiến sĩ của Nam
Úc đã hi sinh trên chiến trường VNCH. Nền gạch
màu đỏ theo hình huy chương Victoria Cross, huy
chương cao quí của quân đội Úc. Quốc kỳ Việt Nam
và quốc kỳ Úc phất phới trên đỉnh kỳ đài. Đây là
sự đánh đổi bằng cách không nhận tài trợ 40.000
Úc kim từ chánh phủ liên bang để hai lá quốc kỳ
được treo vĩnh viễn nơi đây. Tổng số chi phí
tượng đài khoảng 350.000 Úc kim, do Ủy Ban Hổn
Hợp Việt Úc vận động tài chánh trong cộng đồng
Việt Nam tị nạn và cộng đồng bản xứ.
8. Tượng đài tại Saint Cloud, Hoa Kỳ.
Ngày 2/6/2007,
Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản tại tiểu bang
Minnesota đã tổ chức lễ khánh thành “Đài Tưởng
Niệm Chiến Sĩ Việt-Mỹ” cạnh hồ George thuộc công
viên Eastman, thành phố Saint Cloud, với sự tham
dự của hằng ngàn đồng hương từ các thành phố của
tiểu bang Minnesota, còn có đồng hương từ các
tiểu bang lân cận và xa như Illinoise,
California cũng đến. Ba vị khách từ xa đến là
cựu Trung Tướng Lâm Quang Thi, Giáo Sư Nguyễn
Xuân Vinh, và chiến hữu Võ Văn Đức, Tổng Hội
Trưởng Tổng Hội Cựu SVSQ Trường Võ Bị Quốc Gia.
Về phía chánh quyền địa phương tham dự có Thống
Đốc tiểu bang, một số Thượng Nghị Sĩ và Dân Biểu,
ông Thị Trưởng Saint Cloud, một số Nghị Viên Hội
Đồng thành phố, Hội Đoàn VVA Chapter 290, Hội
Đoàn VVA Chapter của Anoka County, Ban nhạc của
City, và Đoàn Patriot Guard Riders với hằng trăm
xe Motor Harley biểu diễn ngoạn mục.
Buổi lễ bắt đầu lúc 11 giờ trưa. Sau lễ chào
quốc kỳ Mỹ-Việt và phút mặc niệm, Thống Đốc Tim
Pawlenty và cựu Trung Tướng Lâm Quang Thi, cùng
kéo bức màn phủ trên phiến đá hoa cương, hình
ảnh hai chiến sĩ Việt-Mỹ hiện ra giữa tiếng vỗ
tay kéo dài của khối người giữa rừng cờ vàng ba
sọc đỏ, cờ tiểu bang, và cờ liên bang. Sau nghi
thức cầu nguyện là lời giới thiệu của ông Thị
Trưởng Dave Kleis, ông Chủ Tịch VVA Chapter 290
Jim Bestick, và ông Trưởng Ban Xây Dựng Đài
Tưởng Niệm Nguyễn Kiếm Hoa. Kết thúc lễ khánh
thành với nghi thức đặt vòng hoa tại đài chiến
sĩ trong tiếng nhạc trầm buồn của xứ Tô Cách Lan,
hòa vào âm thanh nốt nhạc Chiêu Hồn Tử Sĩ của
Đoàn Cựu Chiến Binh Hoa Kỳ. Chấm dứt lúc 1 giờ
10 phút.
9. Tượng đài tại West Valley, Hoa Kỳ.
Sau
gần 4 năm vận động và thực hiện, Cộng Đồng Việt
Nam tị nạn cộng sản tại thành phố West Valley,
tiểu bang Utah, đã khánh thành Tượng Đài Chiến
Sĩ Việt Mỹ vào ngày 22/9/2007 trong buổi
lễ trang nghiêm và trọng thể. Chiến hữu Nguyễn
Mạnh Trí, Chủ Tịch Ủy Ban Xây Dựng, phụ trách
điều hợp chương trình và cô Jenifer Hà thông
dịch. Đông đảo cựu quân nhân Việt Nam Cộng Hòa,
quân nhân Hoa Kỳ gốc Việt Nam, các cháu trong
toán Young Marines Việt Nam, và cơ quan truyền
thông báo chí tham dự. Về phía Hoa Kỳ, nhiều
viên chức của Quận Hạt, thành phố, và cựu chiến
binh. Đặc biệt có sự tham dự của cựu Trung Tướng
Lâm Quang Thi, và Phó Thống Đốc tiểu bang Utah
thay mặt Thống Đốc bận công tác.
Tượng đài xây dựng trong khu Trung Tâm Văn Hoá
Các Sắc Tộc của thành phố. Với những gì liên
quan đến tượng hai chiến sĩ Việt Mỹ trên bệ đài,
kể cả hai lá quốc kỳ Việt Mỹ, là cả một nỗ lực
của Ủy Ban Xây Dựng và bà con trong Cộng Đồng
chỉ khoảng 8.000 người, đã vận dụng đến lịch sử
Việt Nam lẫn lịch sử Hoa Kỳ và tranh luận rất
gay go với Hội Đồng thành phố và Ủy Ban Duyệt
Xét của West Valley gồm cả Thị Trưởng + Ban Quản
Trị thành phố + Hội Đồng Nghị Viên + Luật Sư
đoàn, ..v..v.. , sau cùng mới đạt được như vậy.
Những khó khăn trở ngại mà Ủy Ban Xây Dựng phải
đương đầu, do quan niệm của Ủy Ban Duyệt Xét
muốn nhìn tượng đài dưới góc cạnh thuần túy văn
hoá và tránh né những gì liên quan đến chiến
tranh (trích e-mail vanlongtran@sympatico.ca
27/9/2007).
10.
Tượng đài tại Melbourne, Australia.
Sau hơn hai năm vận động và thực hiện, ngày
21/6/2008,”Văn Khố Thuyền Nhân Việt Nam” tổ
chức lễ khánh thành “Đài Tưởng Niệm Chiến Sĩ &
Thuyền Nhân Việt Nam” tại công viên Jensen,
Melbourne, tiểu bang Victoria, Australia. Vì
không có bài viết nên nhìn vào những tấm hình
ước lượng khoảng 300 đồng hương cùng với 30 quan
khách chánh quyền thành phố Melbourne và tiểu
bang Victoria (ghi trên thư mời) tham dự. Cũng
nhìn vào hình, tượng đài có hai cánh gắn liền
nhau như tượng trưng hai cánh buồm đặt trên nền
có dạng chiếc ghe. Chi phí 70.000 Úc kim do đồng
hương đóng góp (tôi đang xin thêm tin tức, sẽ bổ
túc khi nhận được).
11.Tượng đài tại Montréal, Canada.
Ngày
21/6/2008,
Hội Bảo Vệ Di Sản Việt Nam và Ủy Ban Xây Dựng
Tượng Đài đã tổ chức lễ khánh thành “Đài Tưởng
Niệm Chiến Sĩ & Thuyền Nhân Việt Nam” tại
Montréal, Canada, với khoảng 400 đồng hương và
đại diện cơ quan chánh quyền Montreal cùng quan
khách tham dự. Bắt đầu với nghi thức rước quốc
quân kỳ Việt Nam và quốc kỳ Canada, sau lời
tường trình của ông Ngô Anh Võ, Chủ Tịch Hội Bảo
Vệ Di Sản Việt Nam kiêm Trưởng Ban Xây Dựng
Tượng Đài, Hòa Thượng Thích Tâm Châu và Đức Ông
Pierre Vlanchard Giáo Phận Montreal, cùng kéo
tấm vải phủ bên trên thì “Tượng Đài Tưởng Niệm
Chiến Sĩ & Thuyền Nhân” từ từ hiện ra với sự xúc
động của đồng hương hòa trong tiếng vỗ tay kéo
dài của mọi người có mặt, làm cho rừng cờ vàng
trên những cánh tay đôi lúc cũng rung động.
Tượng đài gồm 3 phần liền nhau: Bên trái là quốc
kỳ Việt Nam, chính giữa là một Chiến Sĩ cầm súng
với thế ngồi phảng phất Tượng Thương Tiếc Nghĩa
Trang Quân Đội cạnh xa lộ Biên Hòa,và phần bên
phải có hình chiếc thuyền bé bỏng giữa biển khơi!
Thời gian thực hiện tượng đài 18 tháng kề từ
buổi họp quyết định thực hiện công trình, với
chi phí ước tính 75.000 gia-kim do đồng hương
chung góp, nhưng khi hoàn tất lên đến 100.000 (trích
e-mail nhan0912@yahoo.com ngày 21/6/2008)
12. Tượng đài tại Orlando, Florida.
Ngày
26/5/2012, ông Chu Bá Yến, Chủ Tịch Ủy Ban Xây
Dựng Tượng Đài, tổ chức lễ đặt viên đá đầu tiên
xây dựng Tượng Đài Chiến Sĩ Việt - Mỹ rất trọng
thể tại Baldwin Memorial Park, thành phố
Orlando, tiều bang Florida. Khoảng 300 người có
mặt. Chi phí chung dự trù khoảng 250.000 mỹ kim
mà trong tay mới có 130.000 MK. ông kêu gọi đồng
hương hưởng ứng giúp đỡ.
Ngày 27/4/2013,
tượng đài được khánh thành với sự tham dự khoảng
400 người trong buổi lễ rất trang trọng, do hai
MC là ông Nam Lộc và bà Xuân Lê điều hợp. Trong
số quan khách, có Giáo sư khoa học gia Nguyễn
Xuân VInh, cựu Thiếu Tướng Trần Bá Di, cựu Thiếu
Tướng Phan Hòa Hiệp. Sau lời ông Phạm Ngọc Cửu,
Trưởng Ban Tổ Chức, tuyên bố khai mạc lễ khánh
thành Tượng Đài, ông Chu Bá Yến, Chủ Tịch Ủy
Ban Xây Dựng Tượng Đài, tường trình tổng quát từ
ý niệm vào năm 1987, hình thành Ủy Ban Xây Dựng
năm 2006, đến lễ khánh thành hôm nay, với biết
bao khó khăn trở ngại mà các vị liên quan đã giữ
vững tinh thần trách nhiệm và lòng kiên nhẫn,
nên giúp vượt qua tất cả.
Ông
Phạm Ngọc Cửu và ông Phó Quốc Uy, Cựu Phó Chủ
Tịch Cộng Đồng Việt Nam tại Hoa Kỳ, cùng phần
cắt băng khánh thành và kéo tấm vải phũ Tượng
Đài. Bức tượng đồng của chiến sĩ Hoa Kỳ và Người
Lính Việt Nam Cộng Hòa,cao 12 feet hiện ra uy
nghiêm bóng loáng trong chất đồng đen, do Kiến
Trúc Sư Lê Huy Đức sáng tạo.
13. Tượng
đài tại Wichita, Hoa Kỳ.
Ngày.....
,khánh
thành tượng đài chiến sĩ Việt - Mỵ tại Wichita,
tiểu bang Kansas.
hình
11
Chung quanh lễ đài trang trí 50 lá cờ
của
các quân binh chủng của hai quốc gia Hoa Kỳ và
Việt Nam Cộng Hòa,
do Chi hội trưởng Nhảy Dù Wichita Kansas, Trần
Phú Muôn đem đến. Một lực lượng hùng hậu tham dự
thuộc Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam gồm có Chủ tịch
Tổng hội Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam, Bác sĩ Lê
Quang Tiến đến từ Canada, cựu Chủ tịch sáng lập
Bùi Đức Lạc đến từ San Jose, và cố vấn Mỹ Team
162, Gary Willis đến từ Houston, cùng với một số
các chi hội Nhảy Dù khắp nước Mỹ và
Canada. Chủ tịch Cộng đồng Việt Nam và Chủ tịch
Hội Cựu Quân Nhân tại Wichita Kansas. Các vị cựu
tướng lãnh Việt Mỹ như Trung Tướng Richard
Carey, Thiếu Tướng James William, Thiếu Tướng
Đặng Đình Linh, cùng một số niên trưởng trong
hai quân đội
Chương trình do các MC, Clete McAlister là Chủ
tịch Rotary Club (là một tổ chức gắn bó với
UBXDTĐ và đã yễm trợ 150.000
Mỹ kim để xây dựng tượng đài), ông Đào Chí Nhân,
nghệ sĩ Nam Lộc, và Thùy Dương của Trung tâm
Asia điều hành. Trước giờ khai mạc, Ban nhạc Mỹ,
The Cowtown Music Club phụ trách phần quân nhạc
trình diễn các bài hùng ca Việt Mỹ. Theo như
chương trình trước đây, thì có hai show nhảy dù
điều khiển xuống khu vực tượng đài,
mang theo hai lá cờ Việt Mỹ để làm lễ thượng kỳ,
nhưng vì thời tiết xấu nên phải đình lại
tiết mục này,
chỉ còn một show phi cơ biểu diễn thả khói trên
nền trời của một phi đội T28.
14. Tượng đài tại Arllngton, Dallas.
Ngày
25/10/2015,
lễ khánh thành tượng đài được tổ chức trong
khuôn viên Arlington Veterans Park, với sự tham
dự khoảng 1.000 bà con trong Cộng Đồng và quan
khách. Sau nghi thức chào quốc kỳ Mỹ-Việt và
phút mặc niệm, do hai toán quốc-quân kỳ Việt -
Mỹ thực hiện, làđọc văn tế, và đặt vòng hoa
tưởng niệm.Chiều cao của tượng đài theo dự trù
là cao hơn tượng đài ở Westminster (California),
nhưng Arlington Veterans Park không đồng ý vì
không muốn sự hác biệt về chiều cao đối với
tượng đài gần đó. Theo MC buổi lễ: "Sau
bao nhiêu sóng gió, tượng đài đã được dựng lên.
Đây
cũng là sư kiện lịch sử của thành phố Arlington,
thế hệ thứ hai của người Việt
tị
nạn cộng sản đã đứng ra nhận trọng trách xây
dựng này thật đáng khen".Sau
phần phát biểu của Bác SĩĐàng Thiện Hưng,Chủ
Tịch
Ủy Ban Xây Dựng Tượng Đài,
dựng
lại những đóng góp công sức của bà con trong
Cộng Đồng, làTướng
James William.
Ông
ca ngợi tinh thần anh dũng chiến đấu của quân
lực Việt Nam Cộng Hòa,nhưng
tiếc thay,
Việt Nam Cộng Hoà
đã vào tay cộng sản mà Kissinger đã góp phần
tiếp sức cho cộng sản,
khiến cho trên 58 ngàn chiến sĩ Hoa Kỳ và trên
300,000 chiến sĩ VNCH phải hy sinh. Đến
mũđỏ
Bùi Quang Thống,
với tư cách một người lính Việt
Nam Cộng Hoà,
và
làPhó
Chủ
Tịch
Uỷ
Ban
Xây
Dựng
Tượng
Đài,
phát biểu: "Tượng
đài
là biểu tượng
sự hy sinh cao cả của người lính hai quân đội
Việt - Mỹ
đã nằm xuống vì tự do".Trung
Úy hiện dịch bộ binh Hoa Kỳ Đàng Nguyên Vy,với
tư cách thế hệ nối tiếp
Người Lính, phát biểu: "Cháu
biết nhờ công lao và sự hy sinh của biết bao
nhiêu chiến sĩ Việt
-
Mỹ mà cháu và những người Việt Nam cùng thế hệ
mới có cơ hội sinh ra và lớn lên trong Tự Do ở
đất nước này, cháu biết rằng tự do không phải tự
nhiên mà có, biết bao nhiêu người đã hy sinh và
chiến đấu cho tự do. Cháu biết rằng đã có bao
nhiêu người đã bỏ nước ra đi tìm tự do và biết
bao nhiêu người đã chết trên đường tìm tự do, đó
là một trong những lý do khiến cháu vào quân
đội, tiếp tục theo gương của ông nội và của các
bác cựu chiến sĩ, để tiếp tục bảo vệ tự do,
chiến đấu cho quê hương thứ hai này của chúng ta".
Buổi tối cùng ngày tại Nhà hàng Thanh Thanh, một
dạ tiệc mừng khánh thành tượng đài thành công
tốt đẹp với khoảng 500 người tham dự, đây cũng
là lần gây quỹ cuối cùng vì còn thiếu khoảng 73.000
Mỹ kim.
Phần hai.
Bia Tưởng Niệm Chiến Sĩ.
1.Bia tưởng niệm tại Honolulu, Hoa Kỳ.
Tài liệu
từ Giáo Sư Nguyễn Văn Canh, “Ủy Ban Dựng Bia Đá
& Vinh Danh” gọi tắt là “Ủy Ban Vinh Danh” được
thành lập, do Luật Sư Đỗ Doãn Quế Chủ Tịch, cô
Nina Nguyễn Ngọc Nhung, Phó Chủ Tịch Điều Hành,
cựu Đại Tá Gene Castagnetti, Phó Chủ Tịch Đối
Ngoại, và một số vị trách nhiệm những bộ phận
khác nhau. Giáo Sư Nguyễn Văn Canh là Cố Vấn.
Bia đá ghi danh tử sĩ Việt Nam Cộng Hòa được
phép đặt cạnh bia đá của Không Quân Hoa Kỳ, cùng
hàng với khoảng 50 bia đá của Hoa Kỳ và các quốc
gia khác, trong khuôn viên “Nghĩa Trang Quốc Gia
Thái Bình Dương” (National Memorial Cemetery of
the Pacific = NMCP) tại Honolulu, tiểu bang
Hawaii. Nghĩa trang nằm trên miệng núi lửa
Puowaina, rộng 112 mẫu. Puowaina có nghĩa là “Hi
Sinh”. Bia đá nặng khoảng 2.000 lbs. trên đỉnh
núi Kapa’a do Giám Đốc công ty sở hữu núi Kapa’a
tặng. Chuyển xuống núi đưa đến nơi cưa, đục, và
hoàn chỉnh.
Ngày
30/4/2006,
Bia Đá Vinh Danh Tử Sĩ Việt Nam Cộng Hòa đã được
khánh thành trong buổi lễ rất trang nghiêm và
cảm động. Phần trên của bia đá: Chính giữa là
bản đồ Việt Nam. Bên trái là quốc kỳ Hoa Kỳ với
dòng chữ “Duty - Honor - Country”. Bên phải là
quốc kỳ Việt Nam nền vàng ba sọc đỏ với dòng chữ
“Tổ Quốc Ghi Ân - Vị Quốc Vong Thân”. Phần dưới
là một khung lớn với những dòng chữ bằng Anh ngữ
“Vinh Danh Quân Lực Hoa Kỳ, Quân Lực & Nhân Dân
Việt Nam Cộng Hòa, và các quốc gia Đồng Minh
Australia, New Zealand, South Korea,
Phillippines, Taiwan, và Thailand, đã chiến đấu
chống cộng sản để bảo vệ dân chủ tự do và nhân
quyền cho thế giới” (trích e-mail phungbahuynh@yahoo.com.au
ngày 1 May 2006).
Trong e-mail
lochuong65@............au,
viết về lễ khánh thành Bia Đá này, có bài thơ Vị
Quốc Vong Thân, như sau:
Vị Quốc Vong Thân Ất Mão niên.
Quốc suy Tướng sĩ chết theo thành.
Vong linh tuế nguyệt trầm hương tỏa.
Thân thế thiên thu khắc hãn thanh”.
2. Bia tưởng niệm tại South Carolina, Hoa Kỳ.
Ngày
29/4/2006,
Hội Cựu Quân Cán Chánh Việt Nam Cộng Hòa phối
hợp với Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia tại Greer,
tiểu bang South Carolina, tổ chức lễ khánh thành
Bia Tưởng Niệm Chiến Sĩ trong Công Viên Victor
Memorial Veterans do Disabled American Veterans
Greer Chapter 39 Quản Trị, bao quanh là các con
đường South Line St + 16 th. St. + 17 th. St. +
Old Woodruff giữa trung tâm thành phố. Công
trình này do Clayton Monuments thực hiện, với
giá 2.153 mỹ kim. Trước đó, ngày 12/12/2005 với
văn thư chánh thức, Ban Quản Trị Công Viên đồng
ý xây dựng các Bia Đá ghi tên các chiến sĩ Việt
Nam Cộng Hòa đã hy sinh cho dân chủ tự do. Mỗi
Bia Đá giá 5.630 mỹ kim, sẽ ghi tên được 57 tử
sĩ, có nghĩa là mỗi tên của tử sĩ ghi vào Bia Đá
với giá 98.78 mỹ kim.
Một Thông Báo được phổ biến rộng rãiđể bà con
muốn ghi tên thân nhân tử sĩ của mình vào Bia Đá,
xin liên lạc với Vietnamese Veterans Association
of South Carolina, PO BOX 1441. Taylors, SC
29687. ho ặc e-mail <svvasc@yahoo.com>
3. Bia tưởng niệm tại Fayetteville, Hoa Kỳ.
Nguồn tin từ tác giả Nguyễn Văn Lập. “Hội Ngộ Mũ
Đỏ” (Red Hat Reunion) được tổ chức tại thành phố
Fayetteville, tiểu bang North Carolina, từ
ngày 11-14/5/2006. Khoảng 300 Mũ Đỏ Hoa Kỳ
và Mũ Đỏ Việt Nam tham dự. Nhiều cơ quan truyền
thông Hoa Kỳ và Việt Nam cũng có mặt. Trong số
Mũ Đỏ Hoa Kỳ, có nhiều vị trước kia là cố vấn Sư
Đoàn Nhẩy Dù Việt Nam mà nay là Tướng Lãnh. Một
đoạn trong lời phát biểu, Trung Tướng James B.
Vaught -Cố Vấn Sư Đoàn Nhẩy Dù Việt Nam năm
1971- nhấn mạnh: “… Tưởng rằng làm cố vấn
giúp các bạn chiến đấu, nhưng thật sự thì chúng
tôi học tinh thần chiến đấu anh dũng tuyệt vời
của các bạn. Và buổi lễ tưởng niệm này để tưởng
nhớ sự hy sinh của trên 20.000 Người Lính Nhẩy
Dù Việt Nam Cộng Hòa trong suốt cuộc chiến,
trong đó có nhiều Cố Vấn thuộc Team 162 đã nằm
xuống vì tự do cho Việt Nam…”
Lễ đặt Bia Đá Tưởng Niệm và khánh thành
Khu Bảo Tàng dành cho Mũ Đỏ Việt Nam được thực
hiện ngày 12/5/2006, rất trang trọng với đầy đủ
lễ nghi quân cách của quân lực Hoa Kỳ và Việt
Nam Cộng Hòa. Trên Bia Đá có dòng chữ “Dedicated
to the 20,000 + Vietnamese Airborne who died
fighting for freedom and democracy in South
Vietnam 1960-1975. Military Assistance Command
Vietnam Advisory Team 162 The Red Hats”. Tấm bia
này được khắc xuống nền sân trước của Bảo Tàng
Viện.
Trích lời phát biểu của Đại Tá Paul Devries,
Trưởng Ban Tổ Chức trong lễ khánh thành “Khu Bảo
Tàng” bên trong Bảo Tàng Viện:
“… Phải gọi là lịch sử, vì đây là lần đầu
tiên và duy nhất, một Binh Chủng thiện chiến của
quân đội Đồng Minh -Việt Nam Cộng Hòa-
được đặt Bia Tưởng Niệm và có một Khu Bảo Tàng
vĩnh viễn trong Bảo Tàng Viện nổi tiếng của Lục
Quân Hoa Kỳ …”
Chủ Tịch Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam, ông Nguyễn
Thành Phúc, đã cảm tạ Toán Cố Vấn Nhẩy Dù 162
thuộc MACV về nghĩa cử và hành động ghi nhớ sự
hy sinh của chiến sĩ Nhẩy Dù Việt Nam Cộng Hòa.
4. Bia tưởng niệm tại Colorado, Hoa Kỳ.
Khu Đài Tưởng niệm chiến tranh Việt Nam có cả
tiếng Việt được phát giác giửa vùng đồi núi vùng
Gunnison, Colorado, Hoa Kỳ. Đúng là Danh dư
và Trách Nhiệm của một chiến binh. TNT
AEHD thân mến
(nhóm chữ AEHD, có lẽ là Anh Em Hướng Đạo. PB
Hoa)
Phải
khó khăn, với nhiều kiên nhẩn và thì giờ tôi mới
tìm được video khoảng 5 phút của người nữ
reporter tường trình về The Mysterious War
Memorial không biết do ai dựng
lênở
vùng Gunnison,vùng
đồi núi hẻo lánh
của tiểu bang
Colorado, Hoa Kỳ.
Bia
tưởng niệm chiến tranh Việt Nam,
theo nhận xét của tôi
làđề
cập đến cuộc chiến từ năm 1945- 1975, trong đó
có ghi khắc nhiều thứ tiếng Anh, Việt, Laos,
Campuchia. Tôi khá ngạc nhiên khi đọc được dòng
chữ sau trên mặt của đài, thật cảm động đến rơi
lệ:
"Nếu khóc than mà tôi có thể biến đổi tiến trình
sự việc, thì dòng lệ của tôi sẽ đổ xuống không
ngừng cho đến ngàn thu".
Ngoài
bia
chính, còn có nhiều bia nhỏ nằm rải rác nơi khu
rừng khá rộng. Trong một bia tôi đọc được bài
thơ:
"Khi mơ ước mãi không thành hiện thực
Sẽ trở thành viên đá tưởng lì trơ
Để óc tim ta nặng trĩu không ngờ.
Ta hất xuống những thường không dư lực."
Một bia khác khắc:"Ai bảo trời không có mắt".
Một bia khác khắc bằng tiếng Pháp.
Rõ ràng
Bia Tưởng Niệm
này có sự góp tay của người có khả năng tiếng
Việt lưu loát.Cuối video có hướng dẫn đường đến
đài tưởng niêm.
"Xin
cám ơn những người đã mất khá nhiều thời giờ và
tâm huyết dựng tượng đài để ghi nhớ những người
anh em của chúng tôi đã nằm xuống
trong
cuộc chiến 1945-1975.
Xem xong mà lòng tôi nặng trỉu tâm tư về cuộc
chiến đã giết bao nhiêu triệu sinh linh".
"Xin
cho những người đã nằm xuống vì cuộc chiến được
an nghỉ chốn an bình, nơi không có hận thù, chém
giết". TVMinh.
(trích e-mail của Hội Người Già Sydney,
Australia)
4. Bia Tưởng Niệm tại San Jose, Hoa Kỳ.
Ngày 5/4/2014,
dưới bầu trời nắng ấm, lễ khánh thành Bia Tưởng
Niệm những vị anh hùng của Quân Lực Việt Nam
Cộng Hoà trong khuôn viên "Việt Museum" của
người Việt tị nạn tại San Jose, tiểu bang
California, Hoa Kỳ, do "Viet Museum"
tổ chức trang
nghiêmvàxúc
động. Được biết những ngày sau cùng khi Sài gòn
bị quân cộng
sảnđánh
chiếm,
một số các vị anh hùng đã tự kết liễu mạng sống
hoặc đã cương quyết chiến đấu tới cùng để rồi bị
hành quyết một cách man rợ.
Chúng ta thường nghe đến “Ngũ Hổ Tướng” là các
vị tướng lãnh:"Nguyễn
Khoa Nam, Nguyễn văn Hưng, Phạm Văn Phú, Lê
nguyên Vỹ, và Trần Văn Hai".
Ngày
hôm nay, Bia Tưởng Niệm do sự vận động của Biệt
Đoàn Văn Nghệ Lam Sơn phối hợp cùng Viện Bảo
Tàng thuyền nhân Việt
Nam
tại San Jose,
thêm vào hai vị anh hùng nữa là Cố Đại Tá Hồ
ngọc Cẩn và Cố Trung Tá Cảnh Sát Nguyễn Văn
Long, đồng thời để tưởng niệm Quân, Dân, Cán,
Chính của Việt Nam Cộng Hoà đã
hy sinh
trong
20 năm
chiến
tranh tự vệ.
Buổi lễ được đông đảo
bà con trong Cộng Đồng,
viên chức dân cử lập pháp của chính phủ là bà
dân biểu Zoe Lofgren và nhiều vị trong hội đồng
thành phố như Dase Cortese, Phó Thị Trường
Madison Nguyen, Sam Ricador, nhiều viên chức
khác của thành phố tham dự,
vượt qua sự mong đợi của Ban
TổChức
buổi lễ. Chị Hoàng Mộng Thu, người “kiến trúc”
của dự án bia tưởng niệm hơn một năm trước đây,
đã không nén được sự vui mừng và xúc động do
sự thành công của buổi lễ.
Phần kết.
Nhìn lại lịch sử thế giới, hầu như chưa có
trường hợp nào một quốc gia không tồn tại mà
quốc kỳ của quốc gia đó vẫn tồn tại một cách
mạnh mẽ trên văn kiện, trên cột cờ cạnh Tượng
Đài cũng như Bia Tưởng Niệm, tại các địa phương
có Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản cư trú
trên thế giới, như quốc kỳ Việt Nam nền vàng ba
sọc đỏ của chúng ta.
Vậy, với đà chiến thắng này, mong rằng Cộng Đồng
chúng ta khắp nơi liên tục vận động với chánh
quyền địa phương, để nhanh chóng có thêm nhiều
cơ quan hành chánh hỗ trợ Cộng Đồng chúng ta xây
dựng thêm những Bia và Tượng Đài Tưởng Niệm
Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa và Đồng Minh. Tôi rất
tin tưởng vào tương lai, những cuộc vận động
thành công của bà con trong Cộng Đồng Việt Nam
Tị Nạn Cộng Sản Tại Hải Ngoại.
Người tổng hợp xin được góp lời vinh danh và cám
ơn quí vị cùng quí bạn trẻ, đã vận động thành
công với các cơ quan hành chánh địa phương tạo
nên “Bảng Tổng Hợp Bia và Tượng Đài Tưởng Niệm
Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa và Đồng Minh”
của Cộng Đồng chúng ta.
Tôi tin rằng, lá quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ
chính là điểm tựa vững chắc của Cộng Đồng
Việt Nam chúng ta tị nạn cộng sản với những quốc
tịch khác nhau trên khắp Đông Tây Nam Bắc địa
cầu./.
Houston, 19 tháng 6 năm 2003.
Bổ túc ngày 10/6/2016.
Phạm Bá Hoa tổng hợp
Khánh thành tượng đài Tưởng Niệm Chiến Sĩ Việt Mỹ New Jersey do phụ nữ gốc Việt tài trợ
Jersey Shore Online
Một
buổi lễ sẽ diễn ra vào đúng Ngày Cựu Chiến Binh Việt Nam của Hoa Kỳ 29
tháng 3, tại một công viên ở thành phố Barnegat, tiểu bang New Jersey,
để khánh thành một tượng đài nhỏ tri ân các cựu chiến binh trong Chiến
Tranh Việt Nam.
Tượng đài do bà Thy Cavagnaro và chồng là ông
James tài trợ toàn bộ. Tượng đài sẽ được dựng trong công viên Gazebo,
góc Route 9 và West Bay Avenue. Bà Thy cùng gia đình rời khỏi Việt Nam
năm 1975, khi bà mới lên 1 tuổi. Bà quyết định đền ơn các quân nhân Mỹ
đã tham chiến vì tự do của miền Nam Việt Nam bằng cách tài trợ cho việc
hình thành tượng đài này. Bà cũng thường xuyên tổ chức những bữa dạ tiệc
khoản đãi những nhóm nhỏ cựu chiến binh Chiến Tranh Việt Nam trong
thành phố. Bà Thy cho biết bà không quyên tiền cũng như không nhận tiền
góp tặng cho tượng đài.
Theo báo mạng Jersey Shore Online, lễ
khánh thành tượng đài vinh danh các cựu chiến binh Chiến Tranh Việt Nam
sẽ quy tụ một số nhân vật nổi tiếng như nhà bình luận Jonathan T.
Gilliam là diễn giả chính, ca sĩ cụt cả hai chân Ron Brooks là người
trình diễn quốc ca Hoa Kỳ. Hiệp Hội Exercise Tiger sẽ cung cấp huy hiêu
tưởng niệm và quà tặng cho các cựu chiến binh.
Buổi lễ cũng có sự
hiện diện của ông Nguyễn Đức Huy, chủ tịch Cộng Đồng Việt Nam South
Florida, người cũng là kiến trúc sư và điêu khắc gia thực hiện tượng
đài.
Những nữ Quân nhân có cấp bậc cao trong QUÂN ĐỘI HOA KỲ (United States Armed Forces)
Trước
1975 quân lực VNCH cũng có Nữ quân nhân phục vụ trong công tác xã hội,
tâm lý chiến và một thiểu số nữ trong ngành CSQG. Những người có cấp bậc
cao nhất được nhiều người biết đến ở hải ngoại là bà cố Trung tá Nguyễn
Thị Hạnh Nhơn, (Hội Trưởng Hội HO Cứu Trợ Thương Phế Binh) và thiếu tá
Nguyễn Thị Thanh Thuỷ, Biệt Ðội Trưởng Thiên Nga (Khối Ðặc Biệt – Bộ Tư
Lệnh CSQG). Sau 1975 thế hệ thứ 2 theo gia đình đến định cư tại Hoa Kỳ,
thành công trên mọi lãnh vực: kinh tế, khoa học kỹ thuật, chính trị,
thương mãi, văn học nghệ thuật, âm nhạc … và một bước tiến xa hơn các
cô vào quân đội chiến đấu anh hùng như những đấng mày râu, thật đáng tự
hào là con cháu Hai Bà Trưng, làm rạng danh cho người Việt Nam chúng ta
và cũng cho thế giới thấy người đàn bà Việt Nam rất thông mình, trí tuệ
không có thua ai trên thế giới.
Hàng
ngàn quân nhân gốc Việt văn vỏ song toàn phục vụ trong quân đội Hoa Kỳ
Trong số đó có Thiếu Tướng Lương Xuân Việt; Chuẩn Tướng Châu Lập Thể
Flora, Chuẩn tướng William H. Selly III, và rất nhiều sĩ quan cấp Tá
cũng như cấp Uý gốc VN. Trong bài nầy chúng tôi chỉ sưu tầm những nữ chỉ
huy có cấp bậc cao trong quân đội:
Ðại Tá nữ bác sĩ Mylene Trần Huỳnh (sắp lên Chuẩn Tướng).
Ðại
Tá Bác Sĩ Không Quân Mylene Trần Huỳnh, giám đốc của Air Force Medical
Service(AFMS), thuộc chương trình Chuyên Viên Y Tế Quốc Tế
(International Health Specialist – IHS), trực thuộc văn phòng “Office of
the Air Force Surgeon General,” Đại Tá Trần Huỳnh là con của cựu Y Sĩ
Thiếu Tá Trần Đoàn thuộc binh chủng Nhẩy Dù QLVNCH. Năm 2017 nằm trong
danh sách đề nghị vinh thăng Chuẩn Tướng.
ĐẠI TÁ HẢI QUÂN HK VŨ THẾ THÙY ANH
Cô
Vũ Thế Thùy Anh, ái nữ của Cựu Đại úy Hải Quân VNCH, Vũ Thế Hiệp,
được vinh thăng Đại Tá (Hải Quân HK) hồi Tháng Bảy, 2015. Hiện trong
danhsách hàng đầu vinh thăng Chuẩn Tướng.
Cô
Thùy Anh sinh năm 1968, theo gia đình định cư ở Hoa Kỳ năm cô lên 7
tuổi. Lớn lên cô theo học ngành Dược ở University of Maryland, tốt
nghiệp năm 1994. Sau khi ra trường cô làm việc ở John Hopkin Hospital.
Chín năm sau, năm 2003 cô gia nhập Hải Quân Hoa Kỳ vì lý tưởng thích đi
xa để phục vụ, giúp đỡ nhiều người. Hiện cô làm việc tại một căn cứ Quân
sự ở Bethesda.
ĐẠI TÁ DANIELLE NGÔ – US CORPS OF ENGINEERS (Công Binh) (sắp lên Chuẩn Tướng).
Đại tá Danielle Ngô tốt nghiệp cử nhân ngành tài chánh tại đại học Massachusetts. Cô cũng đã hoàn tất 2 vănbằng
cao hoc tại trường chỉ huy và tham mưu (Command and General Staff
College) và đại học Georgetowns. Ngoài ra, cô cũng theo các khóa học
quân sự như: khóa căn bản và cao cấp sĩ quan công binh; khóa CAS3 tại
trường chỉ huy tham mưu và trường cao cấp quân sự (School for Advanced
Military Studied).
Đại
Tá Danielle J. Ngô hiên là Lữ Đoàn Trưởng, Lữ Đoàn 130 Công Binh Lục
Quân Hoa Kỳ. từng tham dự cuộc hành quân Operation Iraq Freedom I, Iraq;
Sĩ quan bộ tham mưu liên quân (Joint Chiefs of Staff Intern) …Phụ tá
quân sự cho Chủ tịch ủy ban quân sự khối NATO tại Brussels, Bỉ quốc…Cô
được thăng cấp Đại tá ngày 28/8/2014.
Trung Tá ELIZABETH PHẠM – US MARINE CORPS (Thuỷ Quân Lục Chiến).
Cô
Elizabeth Phạm sinh tại Seattle, Washington (hậu duệ VNCH), tốt nghiệp
đại học University of California, San Diego (UCSD). Sau khi tốt nghiệp
đại học, cô gia nhập Không Quân. Học kỹ thuật bay tại trường huấn luyện
phi hành T34 của Hải Quân Hoa Kỳ tại Pensacola, Florida, với cấp bậc
thiếu úy. Sau đó, cô tiếp tục theo học về kỹ thuật bay cấp cao T45
Goshawk tại trung tâm huấn luyện Meridian của Hải Quân Hoa Kỳ tại tiểu
bang Mississippi. Cuối năm 2003, Trung Úy Elizabeth Phạm tốt nghiệp “Top
Hook” (thủ khoa), được đại tướng chỉ huy trưởng đích thân trao bằng tốt
nghiệp và được tuyển chọn là phi công đầu tiên của Thủy Quân Lục Chiến
Hoa Kỳ điều khiển một chiến đấu cơ siêu thanh F-18 Hornet trị giá $66
triệu. Elizabeth Phạm được thăng đại úy năm 2005.
Cô
đã từng phục vụ tại lực lượng tiền phương vùng Thái Bình Dương, chiến
trường Trung Đông. Tại Iraq, Đại Úy Liz Phạm phục trong Không Đoàn 242
TQLC Yễm Trợ và Tấn Công Dưới Mọi Thời Tiết (Marine All Weather Attack
Fighter Squadron 242). Không Đoàn này còn vang danh trong Quân Chủng
TQLC Hoa Kỳ với danh xưng là Không Đoàn “Bats” (Con Dơi – Cú đánh bất
ngờ và chính xác, không chậm trễ). Không Đoàn này có nhiệm vụ không yễm
cực cận cho các lực lượng bộ binh khi chạm địch trên các mặt trận tại
Iraq. Những phi công của không đoàn này được tuyển từ những phi công ưu
tú nhất của Quân Chủng TQLC Hoa Kỳ và Elizabeth Phạm là người nữ phi
công duy nhất có mặt trong không Đoàn này. Trung Tá Phạm có khả năng yểm
trợ hỏa lực chính xác nơi mục tiêu cách xa với đồng ngũ Thủy quân Lục
chiến dưới đất không tới 200 yards, vì bay rất thấp nên F-18 của Phạm đã
nhiều lần trúng đạn tại Iraq. Bạn đồng ngũ gọi Phạm là “miracle woman”.
Phạm là phụ nữ gốc Á châu đầu tiên lái Fighter F-18.
Sau
một thời gian phục vụ tại Bộ Quốc Phòng tại vùng thủ đô Hoa Thịnh Đốn,
nhiệm vụ mới của tân trung tá Elizabeth Phạm sẽ là phi công trong lực
lượng ứng chiến thường trực tiền phương của Quân Lực Hoa Kỳ tại Thái
Bình Dương, căn cứ tại Nhật Bản với hàng không mẫu hạm Kitty Hawk.
Trung Tá Michelle Vũ là nữ phi công duy nhất trong Phi đội kỵ binh 6-17.
Nữ
phi công chiến đấu của quân đội Hoa Kỳ. Người trước là Elizabeth Phạm
lái phi cơ phản lực F18. Người sau này là Michelle Vũ lái trực thăng. Cả
hai đều có thời kỳ phục vụ tại chiến trường Iraq.
Trung Tá JOSEPHINE CẨM VÂN – US NAVY (Hải Quân) .
Cô
Josephine Cẩm Vân Nguyễn đỗ hạng nhì (Á khoa) tại Học Viện Hải Quân
Annapolis, Maryland năm 1999; đây là nơi đào tạo với chương trình 4 năm
các sĩ quan hiện dịch của quân chủng Hải Quân và Thủy Quân Lục Chiến.
Vài
cựu sinh viên sĩ quan nổi tiếng trong số nhiều vị khác là cựu tổng
thống Jimmy Carter (sĩ quan tiềm thủy đĩnh nguyên tử), nghị sĩ John
McCain (sĩ quan phi hành trên hàng không mẫu hạm), nghị sĩ Jim Webb (sĩ
quan Thủy Quân Lục Chiến). Theo hệ thống tự chỉ huy của quân trường, cô
Cẩm Vân chỉ huy 2 tiểu đoàn sinh viên sĩ quan với quân số 2,000. Mỗi năm
Học Viện tiếp nhận một khóa khoảng 1,000 sinh viên và luôn có 4 khoá
tại trường.
Cô
theo học y khoa tại Stanford University, khi tốt nghiệp thực tập tại
Bethesda Naval Medical Center, trung tâm y tế có nhiệm vụ theo dõi và
săn sóc sức khoẻ cho các tổng thống đương nhiệm. Sau khi theo học phi
hành tại Pensacola, Florida, cô được thăng cấp hải quân đại úy với nhiệm
sở tại Yokosuka và đi theo hàng không mẫu hạm Kitty Hawk trong vai trò
bác sĩ quân y phi hành từ 2005-2009. cô là Trung Tá làm việc tại Trung
tâm quân y Walter Reed, tiểu bang Maryland.
Bà Dương Nguyệt Ánh, Tổng Giám Đốc về Khoa Học và Kỹ Thuật của Trung Tâm Nghiên Cứu và Chế Tạo VũKhí Hải Quân Hoa Kỳ ở Maryland
Bà Giao Phan giữ chức vụ Phó Tổng Giám Đốc về “Điều Hành” dự án đóng Hàng không mẫu hạm. Công việccủa bà rất quan trọng trong việc làm sao cho dự án được thực hiện đúng thời hạn, trong vòng ngân khoản đã được chấp thuận.
Trong thập niên 1960, tại Miền Nam, trong dân gian đã truyền tụng câu “Nhứt Thắng, nhì Chinh, tam Thanh, tứ Trưởng,” nói lên lòng ngưỡng mộ của người dân đối với bốn vị tướng lãnh trong sạch, thanh liêm của QLVNCH.
Nhứt Thắng Vị tướng được kể tên trước nhứt là Trung Tướng Nguyễn Ðức Thắng (1930- ).Ông
sinh vào tháng 1-1930 tại tỉnh Cao Bằng, Bắc Việt, theo hoc Khóa I
Trường Sĩ Quan Trừ Bị Nam Ðịnh khai giảng ngày 1-10-1951 nhưng sau 2
tuần lễ được chuyển vào Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Ðức, và tốt nghiệp
ngày 11-6-1952 với cấp bậc Thiếu Úy ngành Pháo Binh. Ông lần lượt thăng
cấp như sau:(1)·
Thăng cấp Trung Úy vào tháng 2-1953· Thăng cấp Ðại Úy vào tháng
10-1954· Thăng cấp Thiếu Tá vào năm 1955· Thăng cấp Trung Tá tạm thời
vào năm 1958· Thăng cấp Trung Tá thực thụ vào ngày 26-10-1959· Thăng cấp
Ðại Tá tạm thời vào tháng 2-1961· Thăng cấp Chuẩn Tướng vào ngày
11-8-1964· Thăng cấp Thiếu Tướng nhiệm chức vào ngày 1-11-1965· Thăng
cấp Trung Tướng nhiệm chức vào ngày 3-6-1968 Tướng Thắng đã từng được bổ
nhiệm vào chức vụ Tư Lệnh của một số đại đơn vị của QLVNCH như sau:· Sư
Ðoàn 1 Bộ Binh: từ ngày 1-1-1961 đến ngày 15-10-1961· Sư Ðoàn 5 Bộ
Binh: từ ngày 16-10-1961 đến ngày 19-12-1962· Quân Ðoàn IV: từ ngày
29-2-1968 đến ngày 1-7-1968Ông cũng từng tham chính trong hai chính phủ
liên tiếp:· Chính phủ Nguyễn Cao Kỳ: Ủy Viên Xây Dựng Nông Thôn, từ ngày
1-10-1965 đến ngày 8-11-1967· Chính phủ Nguyễn Văn Lộc: Tổng Trưởng Xây
Dựng Nông Thôn từ ngày 9-11-1967 đến ngày 23-2-1968Trong dân chúng VNCH
đã truyền tụng khá nhiều câu chuyện, giai thoại về tính cương trực,
thanh liêm của ông. Một số giai thoại về đức tính trong sạch, thanh liêm
và yêu lính, yêu dân của ông đã được kể lại như sau:
“Có
lần tướng Thắng đã cầm đầu một phái đoàn đi tham quan ngoại quốc. Trên
nguyên tắc, tùy thời hạn, mỗi sĩ quan trong phái đoàn đều được đổi mỗi
người một ít ngoại tệ để tiêu xài và chánh phủ cho riêng một ít tiền
túi. Còn ông tướng trưởng phái đoàn thì có thêm một ngân khoản gọi là
“ngân sách tiếp tân.” Khi ra nước ngoài, tướng Thắng đã không xử dụng số
tiền tiếp tân của chánh phủ cấp phát. Lúc về nước, ông đã đem trả đủ số
tiền không chi tiêu ấy vào ngân sách cho chánh phủ… Vốn là một sĩ quan
to con, khoẻ mạnh, hiếu động, tướng Thắng thích tự thân xông pha với các
chiến sĩ của ông trong những cuộc hành quân bình định đại qui mô. Những
dịp này, nếu có đồng bào hay thường dân từ trong những vùng quê xa xôi,
hẻo lánh, mất an ninh, bồng bế, dắt díu nhau đi ra, tướng Thắng thường
làm gương cho binh sĩ là đi bộ, nhường xe vận tải chở thường dân, nhất
là đàn bà và trẻ thơ… Hôm ấy là dịp tướng Thắng, tư lệnh vùng, đi thị
sát lãnh thổ trách nhiệm và hội họp bộ tham mưu tại tiểu khu Rạch Giá.
Như thế, tất nhiên vị tiểu khu trưởng kiêm tỉnh trưởng địa phương, theo
lệ thường, phải khoản đãi quan khách một bữa ăn thịnh soạn. Bữa ăn đó
thường diễn ra trong tỉnh đường và do công quỹ đài thọ. Nhưng tướng
Thắng đã không dự tiệc, mà lại ra ngồi ngoài xe Jeep, gân cổ lên “quạp” ổ
bánh mì thịt to tổ nái.”
2Người
Mỹ cũng nghe danh ông là một vị Tướng lãnh trong sạch, thanh liêm, và
làm việc đàng hoàng, nghiêm túc, nên họ rất kính phục, ngưỡng mộ ông.
Chính vì vậy các giới chức quân sự và dân sự Hoa Kỳ tại Việt Nam rất
tích cực ủng hộ ông. Một tác giả Mỹ đã ghi nhận như sau: “Thang
had a reputation for honesty and hard work, which won him not only the
respect of his American civilian and military advisors but also
substantial American support for his revolutionary development
campaign.” 3 (Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau:“Thắng
nổi tiếng lương thiện và làm việc tích cực, điều này giúp ông có được
không những sự kính trọng của các cố vấn dân sự và quân sự của ông mà
còn cả sự hỗ trợ đáng kể của Hoa Kỳ đối với công cuộc vận động xây dựng
nông thôn của ông.”). Cơ Quan
Trung Ương Tình Báo của Hoa Kỳ (Central Intelligence Agency = CIA),
trong nhiều báo cáo hàng tuần của họ về tình hình tại VNCH (Weekly
report on the Situation in South Vietnam) cũng đã có những nhận xét rất
tốt về con người, tác phong làm việc cũng như những suy nghĩ của ông về
vấn đề xây dựng nông thôn. Báo cáo hàng tuần của CIA, đề ngày
24-10-1966, ghi nhận như sau trong phần II, Revolutionary Development
(xây dựng nông thôn):
“He
was particularly critical of the “new life hamlet program” which was
designed to provide security from Viet Cong incursions and to provide a
“new life” to the peasant. Thang maintains that the latter goal of the
program has not been successfully achieved and in his words, “has not
provided a new life for the people in the hamlets.” There has been no
true social revolution, he asserted and “the Communists… have not been
wiped out.” Thang implied that government interference in the life of
the peasants must be minimal and that hamlet residents should control
their own programs. The Revolutionary Development Cadres, which he
claims have started to take hold in the provinces, should act mainly as
an “emotional bridge” between the peasant and the government, according
to Thang.”4 (Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: “Ông
đặc biệt chỉ trích “chương trình ấp tân sinh” được thiết kế nhằm đem
lại an ninh chống lại các xâm nhập của Việt Cộng và tạo ra “một đời sống
mới” cho nông dân. Thắng tin rằng mục tiêu thứ nhì của chương trình đã
không được thực hiện thành công và, theo lời ông, “đã không đem lại một
đời sống mới cho dân chúng trong các ấp.” Ông cũng xác nhận “Đã không có
một cuộc cách mạng xã hội, và, bọn Cộng sản đã không bị tiêu diệt.”
Thắng ngụ ý rằng sự can thiệp chính phủ vào cuộc sống của nông dân nên
giữ ở mức tối thiểu và nên để cho người dân trong các ấp quyền kiểm soát
các chương trình sinh hoạt của họ. Theo ông các Cán Bộ Xây Dựng Nông
Thôn, mà ông tin là đã bắt đầu bám rể được tại các tỉnh, chỉ nên giữ vai
trò làm “nhịp cầu giao cảm” giữa nông dân và chính quyền mà thôi.”) Vì
bản tính trong sạch, thanh liêm, vì cách làm việc thẳng thắn, nghiêm
túc, với những tư tưởng về xây dựng nông thôn tích cực đó, lại được sự
ủng hộ mạnh mẻ của các giới chức Hoa Kỳ như vậy, Tướng Thắng không thể
tránh khỏi bị các tướng lãnh khác của VNCH nghi ngờ và ganh ghét, khiến
cho ông có lúc đã nghĩ đến việc từ chức. Một báo cáo hàng tuần của CIA
đã ghi nhận điều này như sau:“There
is some indication that Minister of Revolutionary Development General
Nguyen Duc Thang may be thinking of resigning his post because of
criticism from other members of the Directorate… Part of the difficulty
in Thang’s relationship with other members of the Directorate may stem
from the fact that he has received a great deal of support and praise
from American advisers, which has probably generated envy and
suspicion.” 5(Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: “Có
một số dấu hiệu cho thấy Ủy Viên Xây Dựng Nông Thôn Tướng Nguyễn Ðức
Thắng có thể đang nghĩ đến việc từ chức vì sự chỉ trích từ các thành
viên khác của Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia… Một phần của khó khăn trong mối
quan hệ của Thắng với các thành viên khác của Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia
có thể bắt nguồn từ việc ông nhận được rất nhiều ủng hộ và ca ngợi từ
các cố vấn Mỹ, một điều có thể đã tạo ganh tỵ và nghi ngờ.”). Ðầu
năm 1968, ông bàn giao Bộ Xây Dựng Nông Thôn cho Trung TƯớng Nguyễn Bảo
Trị, và ngày 29-2-1968 ông nhận chức Tư Lệnh Quân Ðoàn IV thay cho
Thiếu Tướng Nguyễn Văn Mạnh. Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, vốn dĩ không
thích Tướng Thắng từ khi Tướng Thắng đại diện cho các tướng lãnh thuộc
phe Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ đã khuyên ông Thiệu rút lui đừng ra tranh
cử tổng thống hồi giữa năm 1967,6 đã
bị áp lực từ phía Hoa Kỳ phải chấp nhận việc bổ nhiệm Tướng Thắng là
một tướng lãnh được tiếng thanh nliêm làm Tư Lệnh Quân Ðoàn IV để thay
thế cho Tướng Mạnh đã bị tiếng tăm quá nặng nề về tham nhũng. Vì vậy,
Tướng Thắng đã không giữ được chức vụ này lâu. Tướng Thắng phải bàn giao
chức Tư Lệnh Quân Ðoàn IV cho Thiếu Tướng Nguyễn Viết Thanh vào ngày
1-7-1968. Sau đó ông giữ chức vụ Chỉ Huy Trưởng Pháo Binh một thời gian
ngắn trước khi về Bộ Tổng Tham Mưu ngồi chơi xơi nước trong chức vụ Phụ
Tá Kế Hoạch cho Tổng Tham Mưu Trưởng Cao Văn Viên. Năm 1973 ông xin nghĩ
dài hạn không ăn lương để đi học lại và cuối năm đó ông được cho giải
ngũ. Cuối tháng 4-1975, ông được tái trưng dụng nhưng chưa kịp được bổ
nhiệm chức vụ gì trong quân đội thì VNCH đã sụp đổ. Sau ngày 30-4-1975,
ông định cư tại tiểu bang Connecticut, Hoa Kỳ.
Nhì Chinh
Vị tướng được kể tên thứ nhì là Trung Tướng Phan Trọng Chinh (1930-2014)
Ông
sinh ngày 1-2-1931 tại tỉnh Bắc Ninh, Bắc Việt, theo học Khóa 5 Trường
Võ Bị Liên Quân Ðà Lạt, mãn khóa ngày 24-4-1952 với cấp bậc Thiếu Úy, và
lần lượt thăng cấp như sau:7 · Thăng cấp Trung Úy vào tháng 1-1954· Thăng cấp Ðại Úy ngày 29-9-1954· Thăng cấp Thiếu tá vào tháng 9-1956· Thăng cấp Trung Tá vào tháng 12-1963· Thăng cấp Ðại Tá nhiệm chức vào ngày 6-3-1965· Thăng cấp Ðại Tá thực thụ vào ngày 1-11-1965· Thăng cấp Chuẩn Tướng nhiệm chức năm 1966· Thăng cấp Chuẩn Tướng thực thụ năm 1967· Thăng cấp Thiếu Tướng nhiệm chức năm 1968· Thăng cấp Trung Tướng thực thụ năm 1973
Hình
ảnh Trung Tướng Phan Trọng Chinh cùng Tổng Thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu
đến dự lễ mãn khoá của SVSQ tại trường Bộ Binh Thủ Đức ( Ngày 4 Tháng
12, Năm 1971 )
Trong
thời gian 1954-1956, ông là vị Tiểu Ðoàn Trưởng đầu tiên của Tiểu Ðoàn 3
Nhảy Dù. Cuối tháng 9-1956, ông thăng cấp Thiếu Tá và đảm nhận chức vụ
Tham Mưu Trưởng Liên Ðoàn (đến năm 1959 đổi tên thành Lữ Ðoàn) Nhảy Dù.
Ngày 26-10-1960, ông rời Lữ Ðoàn Nhảy Dù và đảm nhận chức vụ Chỉ Huy
Trưởng Biệt Ðộng Quân. Ngày 11-11-1960, ông tham gia cuộc đảo chánh của
lực lượng nhảy dù dưới sự lãnh đạo của Ðại Tá Tư Lệnh Nguyễn Chánh Thi.
Cuộc đảo chánh thất bại, ông bị bắt giam và bị Tòa án mặt trận Sài Gòn
xử 18 năm khổ sai và đày ra Côn Ðảo. Sau
khi cuộc đảo chánh ngày 1-11-1963 thành công, lật đổ được chính phủ Ngô
Ðình Diệm, ông được Hội Ðồng Quân Nhân Cách Mạng trả lại tự do, xóa bản
án, thăng cấp cho ông lên Trung Tá, và bổ nhiệm ông làm Tỉnh Trưởng
Pleiku. Ngày 6-3-1965, ông thăng cấp Ðại Tá nhiệm chức và được bổ nhiệm
vào chức vụ Tư Lệnh Sư Ðoàn 25 Bộ Binh.Chính trong
thời gian nắm giữ chức vụ Tư Lệnh Sư Ðoàn 25 Bộ Binh này, Tướng Chinh
đã để lại những dấu ấn rõ rệt về các đức tính tốt đẹp của ông: trong
sạch thanh liêm, không bao giờ lợi dụng chức vụ để lo cho gia đình, tận
tâm trong công việc và nhiệm vụ, thương yêu, gần gủi và chia xẻ mọi hiểm
nguy với binh sĩ dưới quyền. Dưới đây là một số giai thoại về các đức
tính đó của ông đã được truyền tụng trong dân gian: “Trong
suốt mấy năm liền đảm nhiệm trọng trách đó, tôi thấy tướng Chinh không
mấy khi về Sài Gòn thăm gia đình vợ con và bạn bè. Ông bận lo thị sát
chiến trường, thanh tra các địa phương. Một đặc điểm đáng nêu lên đây là
tướng Chinh đi thanh sát toàn bằng xe, di chuyển trên đường bộ, mặc dù
vùng ông trấn đóng rất nguy hiểm. Bọn CS địa phương thường hay đặt mìn,
bắn sẻ và phục kích từng toán lẻ tẻ. Thỉnh thoảng về thăm gia đình, vợ
con, ông cũng dùng xe chớ không bao giờ dùng trực thăng như đa số các vị
tướng lãnh khác. Đoàn xe của tướng Chinh di chuyển thường chỉ gồm có
một chiếc Dodge 4×4 trí súng đại liên với mấy tay xạ thủ, một jeep ông
ngồi cùng với tài xế và đại úy Đoàn, sĩ quan tùy viên của ông.” 8“Khoảng
năm 1966-67, đường Saigon – Đức Hòa còn là đường đất bụi. Hôm đó, tôi
trên xe cứu thương, trương cờ Hồng Thập Tự mà chạy. Xe tôi đi sau một
đoàn xe của quân đội, tôi bóp kèn, thì tất cả đều dạt vào trong. Nhưng
đến xe đầu tiên thì tôi biết là xe của ông Tướng (vì có gắn ngôi sao),
xe tôi không dám vượt qua. Nhưng tôi thấy Tướng Chinh vỗ vai người tài
xế, và xe ông dạt vào trong cho xe tôi chạy. Đến tối, tôi xin gặp Trung
Tướng và xin lỗi.. Nhưng Tướng Chinh nói: “NGÔI SAO CỦA TÔI KHÔNG THỂ
BẰNG SINH MẠNG CỦA MỘT THƯƠNG BINH”. Câu nói đó đã chạm vào tim tôi,
nước mắt tự rơi không kềm được. Một câu nói thật ngắn, gọn, nhưng sao
hay trong văn chương, đẹp trong tình người đến như vậy???. Sau đó ông
hỏi tôi: “Cô có biết tại sao Trung Tướng Chinh là ông Tướng duy nhất
không dùng trực thăng khi đi hành quân hay không? Dạ, lúc đó cháu còn
nhỏ nên không biết điều đó ạ! Tại vì ông muốn chia xẻ tất cả những nguy
hiểm, gian khổ cùng chiến sĩ, chứ không như các ông Tướng khác cô à.
Nước mắt tôi lại rơi cho điều vô cùng tốt đẹp ấy. Có người còn kể:
“Tướng Chinh thường nói: “Là lãnh đạo, lúc nào cũng phải đi tiên phong.
” 9
Với
bản chất cương trực như thế, ông không tránh khỏi đã có những đụng chạm
với một số cố vấn Mỹ khi những vị cố vấn này có những cử chỉ hay hành
động có tính cách khinh thường hay nhục mạ QLVNCH. MỘt sĩ quan trong bộ
tham mưu Sư Ðoàn 25 Bộ Binh đã kể lại cuộc đụng độ nẩy lửa giữa Tướng
Chinh và viên sĩ quan đại tá cố vấn Mỹ như sau:
“Những
chuyến đi thanh sát như thế, không mấy khi tướng Chinh đem viên đại tá
Mỹ cố vấn trưởng sư đoàn đi theo. Việc ấy không ngờ đã khiến cho tên cố
vấn Mỹ, có máu thực dân phong kiến và xấc láo, tên Hê-Li-Cớt, để tâm
hiềm khích. Hôm ấy tướng Chinh về nhà thăm gia đình một đêm. Sáng hôm
sau, ông lên bộ chỉ huy sư đoàn như thường lệ. Các bạn quân nhân nào đã
từng phục vụ trong vùng Hậu Nghĩa đều biết chuyện này. Mỗi sáng, trước
khi cho phép xe cộ lưu thông, gồm cả xe nhà binh lẫn xe dân sự, xe vận
tải, xe đò, v.v…tiểu đoàn 25 công binh phải lo mở đường xong xuôi để bảo
đảm an toàn cho mọi người. Đoàn xe mở đường thường gồm có một chiếc GMC
và 1 chiếc Dodge 4×4 chở đầy các chuyên viên rà mìn. Bởi thế, không một
xe nào, dù là xe của ông tướng tư lệnh có thể vượt qua luật lệ ấy. Khi
tướng Chinh vừa bước vào văn phòng tư lệnh sư đoàn, viên đại tá Mỹ
Hê-Li-Cớt, từ phòng bên cạnh đã bước sang, hạch hỏi tướng Chinh, tại sao
đến giờ này ông mới đến văn phòng. Trước thái độ hỗng hách ấy, tướng
Chinh đã dạy cho hắn biết bài học về quân phong và quân kỷ, đồng thời
cũng nhắc cho anh ta biết rằng, dù sao anh ta cũng chỉ là một đại tá
đang đứng trước một vị tư lệnh sư đoàn. Nhưng viên đại tá Mỹ phách lối
này đã chẳng biết phục thiện, về sau lại còn tỏ ra xấc láo hơn nữa, nên
tướng Chinh đã phải ra lệnh trục xuất tên cố vấn Mỹ ấy ra khỏi văn phòng
làm việc, sát vách với văn phòng của ông. Tướng Chinh đuổi tên
Hê-li-Cớt qua vùng Compound của Mỹ. Nhưng Hê-Li-Cớt cũng bướng, không
chịu dọn đi. Tướng Chinh liền ra lịnh cho trung tá Trà, chỉ huy trưởng
tổng hành dinh sư đoàn 25, dọn dùm đồ đạc của hắn qua bên Compound Mỹ,
dưới sự bảo vệ của quân cảnh VN. Bên phía Mỹ, chẳng hiểu viên đại tá
thực dân này đã nói gì vơi binh sĩ Mỹ dưới quyền của y, người ta thấy
bọn quân cảnh Mỹ cũng lên súng M.16 và gờm sẵn trong tư thế chiến đấu.
Nhưng rất may đã không xảy ra vụ sô sát đáng tiếc nào giữa binh sĩ Mỹ và
binh sĩ VNCH thuộc sư đoàn 25BB. Dù vậy, báo chí Mỹ và báo chí Việt Nam
cũng đã bình luận sôi nôi một thời về hành động cứng cỏi, để bảo vệ
danh dự của quân đội VNCH và thể diện dân tộc.” 10
Sau
cuộc đụng độ nảy lửa đó, các giới chức Hoa Kỳ tỏ ra không thích Tướng
Chinh, và vì vậy trong các báo cáo, tài liệu của Hoa Kỳ, Tướng Chinh
không được đánh giá tốt. Sau đây là một bằng chứng về nhận xét lệch lạc
của CIA về Tướng Chinh:“The controversial commander of the ARVN 25th Division,
General Phan Trong Chinh has stepped-up the tempo of hamlet
construction to one month, and consolidation phases to one and one-half
months. Chinh’s order has been issued in an apparent attempt to make the
pacification effort in his area look good.” 11(Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: “Viên
tư lệnh gây tranh cải này của Sư Ðoàn 25 QLVNCH, Tướng Phan Trọng
Chinh, đã tăng nhịp độ xây dựng các ấp lên một tháng, và các giai đoạn
củng cố các ấp lên một tháng rưởi. Lệnh của Chinh đã được ban hành thấy
rõ là nhằm giúp cho cố gắng bình định trong khu vực của ông ta có vẻ tốt
đẹp.”).Dĩ nhiên, nhận xét như
vậy của người Mỹ về Tướng Chinh chắc chắn đã có ảnh hưởng không tốt đến
cấp lãnh đạo của VNCH. Sau đây là một bằng chứng rõ rệt về việc Tổng
Thống Nguyễn Văn Thiệu đã quyết định không bổ nhiệm Tướng Chinh vào chức
vụ Tư Lệnh Quân Ðoàn II vào tháng 4-1972:“MR
2 commander Gen. Ngo Dzu simply panicked and fled from Corps
headquarters at Pleiku to coastal Nha Trang, leaving the de facto
leadership of ARVN forces in the interior to MR 2 senior adviser John
Paul Vann… Thieu was considering replacing him with a known incompetent
named Phan Trong Chinh. Acting on an ostensibly spontaneous impulse,
Bunker sent Thieu a list of candidates on which Chinh’s name did not
appear. Thieu picked one that did, that of Gen. Nguyen Van Toan.” 12(xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: “Tư
Lệnh Vùng II Tướng Ngô Dzu hoảng hốt bỏ bộ tư lệnh Quân Ðoàn ở Pleiku
chạy về Nha Trang ở duyên hải, trên thực tế giao quyền chỉ huy các lực
lượng của QLVNCH trong nội địa lại cho cố vấn trưởng Vùng II Jean Paul
Vann… Thiệu đang tính thay thế hắn [tức là Tướng Ngô Dzu] bằng Phan Trọng Chinh, một người đã được biết là không có khả năng. Hành động theo phản ứng liền lập tức, Bunker[đại sứ Mỹ tại VNCH lúc đó] gửi
đến Thiệu một danh sách của những ứng viên trong đó không có tên của
Chinh. Thiệu chọn một tên có trong danh sách, đó là Tướng Nguyễn Văn
Toàn.”).Sau khi rời chức vụ Tư
Lệnh Sư Ðoàn 25 Bộ Binh, Tướng Chinh đã liên tục đảm nhận các chức vụ
sau đây:· Tư Lệnh Phó Quân Ðoàn III, 1968· Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Quân
Huấn, 1969-1973· Chỉ Huy Trưởng Trường Chỉ Huy và Tham Mưu từ năm 1974
đến năm 1975. Sau ngày 30-4-1975, ông định cư tại thành phố Rockville,
tiểu bang Maryland, Hoa Kỳ. Ông qua đời ngày 17-11-2014 tại thành phố
Vienna, tiểu bang Virginia, Hoa kỳ, hưởng thọ 85 tuổi. Lễ an táng của
ông đã được cử hành rất trọng thể và theo đúng lể nghi quân cách dành
cho một tướng lãnh của QLVNCH.
Tam Thanh Vị tướng được kể tên thứ ba là Trung Tướng Nguyễn Viết Thanh (1931-1970)
Ông
sinh ngày 31-3-1931 tại Tân An, Long An, theo học Khóa 4 Trường Võ Bị
Liên Quân Ðà Lạt, mãn khóa ngày 1-12-1951 với cấp bậc Thiếu Úy, và lần
lượt thăng cấp như sau: 13 ·
Thăng cấp Trung Úy tháng 12-1953 · Thăng cấp Ðại Úy năm 1955 · Thăng
cấp Thiếu Tá tạm thời ngày 26-10-1959 · Thăng cấp Trung Tá nhiệm chức
năm 1964 · Thăng cấp Ðại Tá nhiệm chức ngày 9-10-1965 · Thăng cấp Ðại Tá
thực thụ tháng 12-1965 · Thăng cấp Chuẩn Tướng nhiệm chức ngày
19-6-1966 · Thăng cấp Chuẩn Tướng thực thụ ngày 19-6-1967 · Thăng cấp
Thiếu Tướng nhiệm chức ngày 19-6-1968 Ông cũng đã chỉ huy các đơn vị tác
chiến sau đây: · Trung Ðội Trưởng, Trung Ðội 12, Ðại Ðội 51, Tiểu Ðoàn
15 Việt Nam vào tháng 12-1951 · Ðại Ðội Trưởng, Tiểu Ðoàn 15 cuối năm
1952 · Tiểu Ðoàn Trưởng, Tiểu Ðoàn 707 ÐỊa Phương vào năm 1953 · Trung
Ðoàn Trưởng, Trung Ðoàn 12, Sư Ðoàn 7 Bộ Binh năm 1962 · Tư Lệnh Sư Ðoàn
7 Bộ Binh ngày 9-10-1965 · Tư Lệnh Quân Ðoàn IV ngày 1-7-1968 Tướng
Thanh nổi tiếng trong QLVNCH là một sĩ quan gương mẫu và trong sạch,
thanh liêm với khá nhiều giai thoại về đức tính liêm khiết và tận tụy
với quân vụ của ông, như trong lời kể lại sau đây: “Vào
giữa năm 1968, Thiếu Tướng Nguyễn Viết Thanh được bổ nhiệm làm Tư Lệnh
Quân Đoàn IV, Quân Khu IV. Lúc đó tôi làm Tổng Thư Ký Hội Đồng Tái Thiết
Phát Triển kiêm Trung Tâm Trưởng Trung Tâm Điều Hợp Tỉnh Kiên Giang.
Hàng tháng tôi thường về họp tại Trung Tâm Điều Hợp Quân Khu do Đại Tá
Phạm Văn Út làm Trung Tâm Trưởng và thỉnh thoảng có ghé qua thăm Thiếu
Tướng Thanh. Nhân một buổi họp cuối năm, tôi có chở theo vài món đặc sản
Rạch Giá như nước mắm nhĩ Phú Quốc, khô cá thiều và một ít bánh ú lá
dừa biếu gia đình ông. Vì biết tôi có quà cho Tướng Thanh nên Trung Tá
Tỉnh Trưởng Kiên Giang cũng nhờ tôi chở theo một số quà biếu Tư Lệnh.
Ông nghe tiếng Thiếu Tướng Thanh rất thanh liêm, không ưa vụ biếu xén
quà cáp, nên ông không dám đích thân đi biếu mà nhờ tôi là chỗ thày trò
cũ, may ra được nhận chăng? Hôm đó sau buổi họp ở văn phòng Đại Tá Út,
tôi qua thăm Tư Lệnh. Thiếu Tướng Thanh niềm nở tiếp tôi, hỏi thăm
chuyện vợ con, hỏi thăm Thiếu Tướng Khuyên, rồi ông nói: “Bây giờ cũng
trưa rồi, Quý qua bên nhà ăn cơm với vợ chồng tôi nhé, ăn chay đó.” Tôi
thưa: “Cám ơn Thiếu Tướng, hôm nay đàn em không xin được trực thăng,
phải đi đường bộ, về trễ sợ nguy hiểm, lần sau sẽ xin ghé tư dinh thăm
chị luôn.” Tôi tranh thủ trình bày vụ biếu quà, ông bảo: “Thôi được, món
nào của anh thì tôi nhận, nhưng chỉ lần này thôi nhé. Còn của anh Tỉnh
Trưởng thì anh đem về nói là tôi rất cám ơn, nên đem mấy món quà đó tặng
cho anh em thương bệnh binh nhân dịp Tết cho họ mừng. Đó là điều mà cấp
chỉ huy nên làm.” Bất giác tôi chợt nhớ đến cái Tết 10 năm trước ở Vĩnh
Bình. Sáng mồng một Tết, ông cùng Thiếu Tá Khuyên vào bệnh viện tỉnh
thăm thương bệnh binh. Rồi suốt ngày mồng hai Tết, ông hết đứng lại ngồi
đăm chiêu trước bản đồ hành quân để nghiên cứu địa hình và tình hình
địch. Hình như ông nóng lòng trông cho mau đến ngày mồng 3, hết hạn hưu
chiến để tổ chức hành quân Bình Định. Cuộc đời của ông chỉ biết phục vụ,
phục vụ và phục vụ, chí công vô tư, xả thân vì nước.” 14
Ngoài
đức tính cương trực và thanh liêm giống như hai Tướng Thắng và Chinh,
Tướng Thanh còn một đặc điểm nữa là gần gủi và chăm lo cho dân rất nhiều
trong thời gian ông đảm nhiệm chức vụ Tỉnh Trưởng tại 2 tỉnh Long An
(1961) và Gò Công (1963). Do đó mới có một chuyện xảy ra như sau ngoài
sức tưởng tượng của mọi người như trong lời kể lại của chính Chuẩn Tướng
Hoa Kỳ William R. Desobry (1918-1996), Cố Vấn Trưởng Vùng IV:“Vị
Tướng Cố Vấn Quân Đoàn IV đã kể chuyện Tướng Thanh được ái mộ như thế
nào: Trong một dịp, lúc đó Tướng Thanh còn làm Tư Lệnh Quân Đoàn IV ở
Cần thơ, ông cùng vị Tướng Cố Vấn bay lên Bản Doanh BTL Sư Đoàn 7 Bộ
Binh ở Mỹ Tho. Hai vị Tướng ăn cơm trưa một cách kín đáo trong một nhà
hàng ở Thị Xã; người ta xầm xì rỉ tai và mọi người cuối cùng rồi cũng
hay tin. Dân chúng và binh sĩ ùn ùn kéo đến chào mừng vị Tư Lệnh cũ của
họ. Trong suốt cả tiếng đồng hồ, Tướng Thanh phải gật đầu, bắt tay liên
tục cả trăm người.” 15 Ngoài
đức tính cương trực, thanh liêm, lúc nào cũng chăm lo cho đời sống của
binh sĩ và dân chúng trong vùng trách nhiệm của mình, Tướng Thanh còn
được cấp dưới kính trọng vì sự dũng cảm gần như huyền thoại của ông
trong trận mạc. Ông là một trong số rât ít những tuớng lãnh của VNCH
được Chính phủ Hoa Kỳ ban thưởng huy chương cao quý Silver Star khi đã
là một tướng tư lệnh vùng như chúng ta thấy trong bản tuyên dương sau
đây:
Bản Tuyên Dương Kèm Theo Huy Chương Silver Star Trao Tặng Thiếu Tướng Nguyễn Viết Thanh Tư Lệnh Quân Ðoàn 4 Do Hành Ðộng Dũng Cảm Phi Thường
Ngày 24-2-1969 Tại Tân Châu(Xin tam dịch sang Việt ngữ như sau: “Tồng
Thống Hoa Kỳ, được phép do Ðạo Luật của Quốc Hội ngày 9-7-1918, hân
hạnh ban thưởng huy chương Ngôi Sao Bạc cho Thiếu Tướng Nguyễn Viết
Thanh, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, vì sự dũng cảm phi thường trong hành
động vào ngày 24-2-1969, gần Tân Châu, trong lúc đang phục vụ với tư
cách Tướng Tư Lệnh Quân Ðoàn IV, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Vào ngày
hôm đó, Chi Ðội A, thuộc Chi Ðoàn 1 của Thiết Ðoàn 12 Kỵ Binh và Ðại Ðội
226 Ðịa Phương Quân đụng nặng với Tiểu Ðoàn Mười Trí. Việt Cộng đã bắt
đầu cuộc tấn công ác liệt với rốc-kết, bích kích pháo, và các súng liên
thanh nhỏ vào cánh phải của đơn vị kỵ binh.. Tướng Thanh phản ứng ngay
lập tức bằng cách thiết lập liền một căn cứ yểm trợ hỏa lực và sau đó ra
lệnh cho cạnh trái phản công để tái lập thế trận. Ðịch quân phản công
và đẩy lui quân bạn. Hoàn toàn bất kể sự an nguy của bản thân, Tướng
Thanh xông lên giữa trận, kêu gọi và cỗ vũ binh sĩ của mình, tiếp đó ông
sử dụng một thiết vận xa để tiến về phía Ðại Ðội 226 Ðịa Phương Quân,
tập họp họ lại và ra lệnh phản công. Tướng Thanh từ trên nóc chiến xa
chỉ huy cuộc phản công mãnh liệt vào địch quân. Ðịch quân bị đẩy lui với
rất nhiều thương vong, và quân ta chiếm lại trận địa. Sư hiện diện của
ông tại mặt trận, vào lúc quyết định nhứt của trận đánh, là tác nhân
trực tiếp khôi phục lại sức chiến đấu của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Sự
anh dũng nổi bật trong hành động của Tướng Thanh phản ánh rõ rệt công
trạng của ông cũng như của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.”). Ngày
2-5-1970, lúc 1 giờ 40 trưa, trong khi đang thị sát mặt trận tại biên
giới Việt-Miên, ông đã tử nạn khi chiếc trực thăng chở ông bị rớt vì
đụng phải một chiếc trực thăng Cobra. Ông được Tổng Thống VNCH Nguyễn
Văn Thiệu truy thăng lên cấp Trung Tướng và truy tặng Ðệ Nhị Ðẳng Bảo
Quốc Huân Chương.
Tứ Trưởng Vị tướng được kể tên thứ tư là Trung Tướng Ngô Quang Trưởng (1929-2007)
Ông
sinh ngày 13-12-1929 tại tỉnh Bến Tre (sau đổi tên là Kiến Hòa), theo
học Khóa 4 Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Ðức, mãn khóa ngày 1-6-1954 với cấp
bậc Thiếu Úy, tình nguyện vào Binh chủng Nhảy Dù, và là một Trung Ðội
Trưởng của Tiểu Ðoàn 5 Nhảy Dù. Ông đã lần lượt thăng cấp như sau:16 · Thăng cấp Trung Úy ngày 1-12-1955· Thăng cấp Ðại Úy năm 1961· Thăng cấp Thiếu Tá năm 1964· Thăng cấp Trung Tá tháng 4-1965· Thăng cấp Ðại Tá nhiệm chức ngày 19-6-1966· Thăng cấp Chuẩn Tướng nhiệm chức ngày 4-2-1967· Thăng cấp Thiếu Tướng nhiệm chức ngày 3-6-1968· Thăng cấp Trung Tướng nhiệm chức ngày 1-11-1971.
Ông
nổi tiếng là một tướng lãnh rất gương mẫu về quân phong, quân kỷ, rất
tận tụy với trách nhiệm, và luôn luôn có mặt tại những điểm nóng trong
khu vực thuộc trách nhiệm của mình, như đoạn văn mô tả sau đây: “Tư-Lệnh
Quân-Ðoàn I & Quân-Khu I Ngô Quang Trưởng được hầu hết mọi người
khâm-phục. Ông đã dành nhiều tâm-trí, công-sức, và thì-giờ vào các cuộc
hành-quân hơn là vào công việc văn-phòng. Ông thường-xuyên mặc
chiến-phục, đội mũ sắt, mang áo giáp, bay đến tận từng đồn , chốt khắp
Quân-Khu, để quan-sát, nghiên-cứu tình-hình tại chổ, và kiểm-tra
tác-phong, kỷ-luật của các cấp quân-nhân. Bản-thân
ông ít thích truy-hoan, nên cấm sĩ-quan thuộc quyền đến khiêu-vũ ở các
nhà hàng ca vũ nhạc, khiến các Tỉnh-Trưởng và Thị-trưởng cấm luôn cả các
phòng trà ca-nhạc tổ chức khiêu-vũ cho bất cứ giới khách hàng nào.” 17 Ông
cũng nổi tiếng là một tướng lãnh trong sạch, thanh liêm, và không dung
túng cho cấp dưới làm bậy, xâm phạm tài sản của dân chúng, như trong
giai thoại sau đây: “Trong
giữa năm 1974, Ông đã có một hành động rất ngoạn mục. Lính của một sư
đoàn tại vùng I đã lùa một đàn bò của dân chúng, đem cất giấu tại thung
lũng Quế Sơn. Khi nghe dân chúng tố cáo, ông đích thân bay đi tìm và đem
trao trả cho khổ chủ. Số bò còn thiếu, ông trừ lương từ Trung Ðoàn
Trưởng đến binh sĩ, lấy tiền mua bò trả đủ số cho dân, không dung dưỡng
bao che các việc làm mờ ám của thuộc cấp, như một số các vị chỉ huy
khác.” 18
Ông
cũng là một trong số rất ít các tướng lãnh hoàn toàn không có tham vọng
chính trị và không bao giờ dính líu vào các âm mưu, biến cố chính trị.
Ông dành toàn thời gian cho quân vụ. Cũng như Tướng Thanh, Tướng Trưởng
là một trong số ít các vị tướng lãnh của QLVNCH đã chỉ huy các đơn vị
tác chiến từ cấp thấp nhứt đến cấp cao nhứt: · Trung đội trưởng: tháng
7-1954 (một trung đội của Tiểu Ðoàn 5 Nhảy Dù) · Ðại đội trưởng: đầu năm
1955 (Ðại Ðội 1, Tiểu Ðoàn 5 Nhảy Dù) · Tiểu đoàn trưởng: năm 1961
(Tiểu Ðoàn 5 Nhảy Dù) · Tư lệnh sư đoàn: năm 1966 (Sư Ðoàn 1 Bộ Binh) ·
Tư lệnh quân đoàn: năm 1972 (Quân Ðoàn IV và Quân Ðoàn I) Ông đã tham dự
nhiều trận đánh quan trọng khi còn phục vụ trong Binh chủng Nhảy Dù,
nhưng nổi tiếng nhất là trận Hắc Dịch vào tháng 2-1965. Lúc đó ông còn
mang cấp bậc Thiếu Tá và là Tiểu Ðoàn Trưởng Tiểu Ðoàn 5 Nhảy Dù.
Hắc
Dịch là một mật khu của Công Trường 7 (tức Sư Ðoàn 7) của Việt Cộng nằm
trong một khu rừng ở phía Bắc Núi Ông Trịnh thuộc tỉnh Phước Tuy (Bà
Rịa). Cuộc hành quân tấn công vào Hắc Dịch do Bộ Tư Lệnh Vùng III tổ
chức để càn quét các lượng Cộng quân đã gây thiệt hại nặng cho Tiểu Ðoàn
4 Thủy Quân Lục Chiến (TQLC) trong trận Bình Giả (gần khu vực mật khu
Hắc Dịch, vào cuối năm 1964 đầu năm 1965). Cuộc hành quân này được đặt
tên là Chiến dịch Nguyễn Văn Nho (đặt theo tên của vị Tiểu Ðoàn Trưởng
Tiểu Ðoàn 4 TQLC đã tử trận trong trận Bình Giả) và bắt đầu vào ngày
9-2-1965. Tham gia cuộc hành quân có Chiến Ðoàn II Nhảy Dù dưới quyền
chỉ huy của Trung Tá Trương Quang Ân (về sau thăng cấp Chuẩn Tướng, làm
Tư Lệnh Sư Ðoàn 23 Bộ Binh, và tử nạn trực thăng vào ngày 8-9-1968).
Chiến Ðoàn II Nhảy Dù gồm 3 tiểu đoàn trong đó Tiểu Ðoàn 5 của Thiếu Tá
Ngô Quang Trưởng là chủ lực. Tiểu Ðoàn 5 đã gây thiệt hại rất nặng nề
cho 2 Trung Ðoàn Q761 và Q762 của Công Trường 7, với “hằng
trăm xác cộng quân tràn ngập chung quanh tuyến phòng thủ, đầy dẫy hằng
trăm vũ khí đũ loại từ AK47, súng trường CKC, súng chống chiến xa B40,
B41 đến trung liên nồi, đại liên 12.8 ly, cối 61 ly, đạn dược quân trang
quân dụng nhiều vô kể.” 19 Thiếu
Tá Ngô Quang Trưởng được vinh thăng lên Trung Tá đặc cách tại mặt trận
và được ban thưởng Ðệ Tứ Ðẳng Bảo Quốc Huân Chương. Sau trận này, ông
rời Tiểu Ðoàn 5 về làm Tham Mưu Trưởng Lữ Ðoàn Nhảy Dù, và qua năm sau,
1966, khi Lữ Ðoàn Nhảy Dù được nâng lên thành Sư Ðoàn, ông được bổ nhiệm
vào chức vụ Phó Tư Lệnh. Tuy nhiên, đối với gần như tất cả quân dân
VNCH, ông nổi tiếng nhứt về chiến công giữ vững được Huế và tái chiếm
Quảng Trị trong trận Tổng Tấn Công của Cộng sản vào Mùa Hè năm 1972 khi
ông được Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu bổ nhiệm vào chức vụ Tư Lệnh Quân
Ðoàn I thay thế Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm. Giữa trưa ngày Thứ Năm,
30-3-1972, trong Mùa Lễ Phục Sinh, Cộng quân bắt đầu cuộc Tổng Tấn Công
trên khắp lãnh thổ của VNCH. Riêng tại vùng giới tuyến ngay phía Nam vĩ
tuyến 17, sau một loạt pháo kích dữ dội, 3 sư đoàn chủ lực của Bắc Việt
(các Sư Ðoàn 304, 308, và 320B), vượt Vùng Phi Quân Sự, tấn công vào
phía Bắc và phía Tây của tỉnh Quảng Trị. Phòng thủ lãnh thổ của tỉnh
Quảng Trị là trách nhiệm của Sư Ðoàn 3 Bộ Binh dưới quyền tư lệnh của
Chuẩn Tướng Vũ Văn Giai (tốt nghiệp Khóa 10 Trường Võ Bị Liên Quân Ðà
Lạt), gồm có 3 trung đoàn (2, 56 và 57) và được tăng viện với 2 lữ đoàn
Thủy Quân Lục Chiến (Lữ Ðoàn 147 TQLC và Lữ Ðoàn 258TQLC). Tất cả các
căn cứ đóng quân và căn cứ hỏa lực của Sư Ðoàn 3 lần lượt thất thủ rất
bi thảm, trong đó có vụ đầu hàng của cả Trung Ðoàn 56 tại trại Carroll
dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Phạm Văn Ðính (tốt nghiệp Khóa 9, Trường
Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Ðức, năm 1960) làm chấn động QLVNCH và Ðồng Minh.
Ngày 1-5-1972, tỉnh Quảng Trị thất thủ, Sư Ðoàn 3 Bộ Binh tan rã, tháo
chạy về Huế ở phía Nam, dân chúng thạy theo, bị địch quân truy kích rất
tàn bạo, tạo ra “Ðại Lộ Kinh Hoàng” trên
đoạn Quốc Lộ 1 giữa Quảng Trị và Thừa Thiên (Huế), và kế tiếp gây ra
cảnh hỗn loạn ngay trong thành phố Huế, với một số binh sĩ QLVNCH rời bỏ
đơn vị, vô kỷ luật, cướp bóc , hà hiếp dân. Trong cảnh hỗn loạn này,
người dân Huế còn có thêm nổi lo sợ Huế có thể sẽ lại rơi vào tay Cộng
quân và họ nhớ lại trong kinh hoàng vụ tàn sát hồi Tết Mậu Thân 1968, và
họ không còn cách nào khác hơn là tìm mọi cách thoát ra khỏi Huế, làm
cho tình hình rối loạn tại Huế càng tệ hại thêm. Ngày 3-5-1972, Tổng
Thống Nguyễn Văn Thiệu bổ nhiệm Trung Tướng Ngô Quang Trưởng làm Tư Lệnh
Quân Ðoàn I thay cho Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm. Ngay buổi chiều hôm
đó, Tướng Trưởng cùng bộ tham mưu của ông bay ra Huế liền lập tức. Ngày
hôm sau, ông ban hành 2 lệnh quan trọng: 1)
Thiết lập Bộ Tư Lệnh Tiền Phương của Quân Ðoàn I ngay tại phía Bắc
thành phố Huế với nhiệm vụ chận đứng tất cả các cuộc tấn công của Cộng
quân; và, 2)
Tất cả quân nhân, lạc đơn vị, bỏ đơn vị, hay không còn đơn vị nữa đều
phải lập tức trình diện tại những nơi có các cấp thẩm quyền quân sự;
quân nhân nào bất tuân lệnh này sẽ bị bắn bỏ tại chổ. Trật tự lập tức được vãn hồi ngay. Ðồng thời, dân chúng Huế rĩ tai nhau là “Tướng Trưởng đã về” và tất cả mọi người yên tâm không bỏ chạy nữa. Chuyện
này không có gì lạ vì người dân Huế hết sức tin tưởng Tướng Trưởng vì
họ đã biết quá rõ tính cương quyết và tài dụng binh của ông trong Trận
Mậu Thân 1968 khi gần như toàn thành phố Huế đã lọt vào tay Cộng quân
ông vẫn tiếp tục chiến đấu cùng với quân nhân các cấp của Sư Ðoàn 1 Bộ
Binh mà ông là Tư Lệnh và giữ vững được tổng hành dinh tại Mang Cá trong
Thành Nội Huế, và sau đó phản công giải phóng Huế. Trong suốt lịch sử
của VNCH và chiến tranh Việt Nam, chưa bao giờ có hiện tượng này: một cá nhân có thể làm thay đổi diễn tiến của cuộc chiến một cách rõ rệt như vậy. Sau
khi ổn định tình hình và chận đứng được cuộc tấn công của Cộng quân vào
tỉnh Thừa Thiên và thành phố Huế, Tướng Trưởng lập tức lên kế hoạch
phản công để chiếm lại Quảng Trị.20 Ðịch
quân cố thủ trong Cổ Thành Quảng Trị chống trả mãnh liệt. Tướng Trưởng
phải sử dụng đến 2 đại đơn vị thiện chiến nhứt của QLVNCH là Sư Ðoàn
Nhảy Dù và Sư Ðoàn TQLC để tấn công tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị. Trận
đánh này trở thành trận đánh gây thương vong nhiều nhứt cho cả 2 phía
trong Chiến tranh Việt Nam. Sau cùng chính các binh sĩ của Ðại Ðội 2,
Tiểu Ðoàn 3, Lữ Ðoàn 147 TQLC đã thượng kỳ VNCH trên Cổ Thành Quảng Trị “vào
lúc 12 giờ 45 ngày 16/9/1972 sau 51 ngày đêm nhận lãnh trách nhiệm mà
Sư Ðoàn Dù giao lại và sau 78 ngày cuộc Hành quân tái chiếm Quảng trị
được khởi sư.”21 Khả
năng lãnh đạo và điều quân ở cấp đại đơn vị của Tướng Trưởng không phải
chỉ nổi tiếng trong hàng tướng lãnh của QLVNCH mà nay cả các cấp tướng
lãnh của quân đội Hoa Kỳ đã từng tham chiến tại VNCH cũng đều khâm phục.
Lời phẩm bình sau đây của một tác giả Mỹ đã mô tả một cách ngắn gọn
nhưng vô cùng chính xác về con người và tài năng quân sự của Tướng
Trưởng:
“He
was considered one of the most honest and capable generals of the South
Vietnamese army during the long war in Southeast Asia. General Bruce
Palmer described him in his book The 25-Year War as a “tough, seasoned,
fighting leader” and “probably the best field commander in South
Vietnam.” 22 (Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: “Ông
được xem như là một trong những vị tướng lãnh lương thiện nhứt và có
khả năng nhứt của quân đội Nam Việt Nam trong cuộc chiến dài tại Ðông
Nam Á. Trong tác phẩm “Cuộc chiến tranh 25 năm” của ông, Tướng Bruce
Palmer [là Trung Tướng Phó Tư Lệnh MACV dưới quyền tư lệnh của Ðại Tướng Westmoreland] mô
tả Tướng Trưởng như là một nhà lãnh đạo cứng cỏi, dày kinh nghiệm, và,
có lẻ là vị tướng cầm quân giỏi nhứt của Nam Việt Nam.”).
Sau
ngày 30-4-1975, Tướng Trưởng định cư tại tiểu bang Virginia, Hoa Kỳ.
Ông mất ngày 22-1-2007 tại thành phố Fairfax, tiểu bang Virginia, Hoa Kỳ
và tang lễ của ông đã được cộng đồng người Việt trong vùng tổ chức rất
trọng thể với đầy đủ lễ nghi quân cách dành cho một tướng lãnh của
QLVNCH.. Theo ý nguyện của ông, tro hài cốt của tướng quân Ngô Quang
Trưởng đã được gia đình ông mang về Việt Nam và rải trên Ðèo Hải Vân.23
Thay Lời Kết LỊch
sử VNCH chỉ khoảng 20 năm và gần như lúc nào cũng ở trong tình trạng
chiến tranh. Trong dân chúng, gần như không có gia đình nào không có con
em trong quân đội. Càng gần cuối cuộc chiến, vai trò của các tướng lãnh
ngày càng quan trọng hơn. Một số không nhỏ các tướng lãnh đã tham nhủng
và làm giàu, nhiều khi là trên xương máu của chính binh sĩ dưới quyền
mình. Dân chúng rất bất mãn với tình trạng tham nhủng này. Do đó họ đặc
biệt quan tâm theo dõi các vị tướng trong sạch thanh liêm, và, sau cùng,
đã “xếp hạng” 4 vị tướng trong sạch nhứt của QLVNCH: ‘Nhứt Thắng, nhì Chinh, tam Thanh, tứ Trưởng.”Cả 4 vị tướng được dân chọn đều rất xứng đáng với lòng tin của dân chúng VNCH.
__________________________
Ghi Chú: 1. Trần Ngọc Thống, Hồ Ðắc Huân, Lê Ðình Thụy, Lược sử Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.California: Hương Quê, 2011. Tr. 203-204. 2. Những Giai Thoại Sạch của Tướng Thắng, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: http://www.generalhieu. com/ndthang-u.htm 3. Clarke, Jeffrey J., United States Army in Vietnam: advice and support: the final years, 1965-1973. Washington, D.C.: U.S. Army Center of Military History, 1988, tr. 256. 4. “CIA report on the Situation in South Vietnam as of 10/24/66,” tài
liệu mật của CIA, đề ngày 24-10-1966, giải mật ngày 4-3-1994, gồm 15
tr., có thể truy cập trực tuyến và toàn văn từ cơ sở dữ liệu Declassified Documents Reference System (DDRS), các tr. II-1 và II-2. 5. “CIA report on the Siituation in South Vietnam covering period 10/31-11/6/66,” tài
liệu mật của CIA, đề ngày 7/11/1966, giải mật ngày 16/12/1993, gồm 24
tr., có thể truy cập trực tuyến và toàn văn từ cơ sở dữ liệu DDRS, các tr. II-1 và II-2. 6. Lâm Vĩnh Thế, Việt Nam Cộng Hòa, 1963-1967: những năm xáo trộn. Hamilton, Ont.: Hoài Việt, 2010. Tr. 192. 7. Trần Ngọc Thống, Hồ Ðắc Huân, Lê Ðình Thụy, Lược sử Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, sđd, tr. 127-128. 8. Nguyễn Ðức Thắng, Phan Trọng Chinh, Lê Minh Ðảo, Lý Tòng Bá, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: http://vanghe.blogspot. ca/2011/09/ng…-chinh-le.html 9. Tưởng nhớ Trung Tướng Phan Trọng Chinh, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: http://vietnamcuongthinh. blogspot.ca…ong-chinh.html 10. Tướng Phan Trọng Chinh, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: http://www.generalhieu. com/ptchinh-u.htm 11. “Intelligence report on the situation in South Vietnam,” tài
liệu mật của CIA, đề ngày 19-12-1966, giải mật ngày 16-6-1998, gồm 24
tr., có thể truy cập trực tuyến và toàn văn từ cơ sở dữ liệu DDRS, tr. II-4. 12. Ahern, Thomas L., Jr., CIA and the generals: covert support to military government in South Vietnam. Langley, Va.: CIA, 2009. Tr. 113. 13. Trần Ngọc Thống, Hồ Ðắc Huân, Lê Ðình Thụy, Lược sử Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, sđd, tr. 199-202. 14. Nguyễn Mậu Quý, Trung Tướng Nguyễn Viết Thanh