Sunday, November 29, 2020

Niên Trưởng Nguyễn Văn Phẩm (Người Bảo Trợ Gia Đình Tôi)

 

                                                        Uống nước nhớ nguồn

                                        Ăn trái nhớ kẻ trồng cây

                                                       (Tục Ngữ)

 Thời gian trôi qua nhanh quá!Thấm thoát mà gia đình tôi định cư ở San José, Bắc Cali, thung lũng hoa vàng, thủ phủ của tình thương, Silicon Valley đã trên hai mươi sáu năm. Nếu không có người bảo trợ (Sponsor) thì có lẽ giờ này gia đình tôi đang sống ở một tiểu bang xa xôi, hẽo lánh, ít đồng hương Việt Nam, không được thưởng thức các hàng quán với các món ăn thuần túy Việt Nam, không được tham gia các sinh hoạt cộng đồng, hướng đạo, chùa chiền, nhà thờ, chợ Tết và nhiều hoạt động khác vì gia đình tôi không có ai ở Mỹ. Lúc đó, bà con gọi trường hợp này là nộp đơn đi định cư theo diện “HO Đầu Trọc, hay diện HO con Bà Phước”, có nghĩa là hồ sơ hoàn toàn không có thân nhân hay hội doàn nào đứng ra bảo lãnh. May mắn, một niên trưởng Không Quân đang định cư ở San José đã đứng ra làm thủ tục bảo trợ cho gia đình tôi. Niên Trưởng đó là cựu Thiếu Tá KQ Nguyễn Văn Phẩm, mà do một sự tình cờ tôi được quen anh và từ đó kết nghĩa anh em như ruột thịt.

Giữa anh và tôi hoàn toàn không có bất cứ quan hệ thân thuộc hay bà con gì hết! Anh gặp tôi giữa mùa hè đỏ lửa năm 1972. Thời gian này tôi đang phục vụ tại Trung Tâm 2 Kiểm Báo, KbC 6526, Sơn Trà, Đà Nẵng, mà hàng ngày được ngắm đỉnh núi Sơn Trà thường bị sương mù phủ trắng, nhìn những con suối nhỏ róc rách chảy theo triền núi, làm bạn với đàn khỉ lốm đốm ba, bốn màu trên mình mà dân địa phương gọi là con Vá Hoàng và thường chào đón những trận bão lớn và những cơn mưa dầm dề, có khi kéo dài lê thê nhiều ngày vào những tháng cuối năm.

Tuy nhiên, ở đây vào những tháng Hè thì rất hữu tình, với hoa Sim Tím và bông Trang Đỏ nở ngút ngàn dọc theo hai bên sườn núi. Có thể kể thêm các loài chim thú như: heo rừng, kỳ đà, rắn, bìm bịp…chưa kể, câu bắt được những con cá Chình vả cá Chép rất to vì chúng sống lâu năm ở những vực sâu của các con suối.Trung Tâm 2 Kiểm Báo là khu vực quân sự, nên tuyệt đối cấm người lạ mặt xâm nhập. Do đó, chỉ những quân nhân phục vụ trong đơn vị mới có thể câu bắt. Mỗi lần muốn tổ chức như thế, chúng tôi phải đợi NT Dupont không có mặt ở đơn vị thì lúc đó mới dám thực hiện.

Khi phu nhân NT biết được. Bà khuyên anh em đừng làm chuyện này nữa! Sát sanh những con vật vô tội làm gì! Hãy để cho chúng được sống bình yên với môi trường thiên nhiên. Còn như muốn ăn uống hay tiệc tùng gì cứ nói với bà một tiếng, bà sẽ sẵn sàng giúp. Phải công nhận về tài nữ công gia chánh của bà. Những buổi tiệc lớn của đơn vị đều đích thân bà đứng ra lo liệu cùng vài chị ở khu gia binh phụ một tay là xong ngay, không cần phải thuê người bên ngoài đến nấu, vì thế đơn vị tiết kiệm rất nhiều,

Vào một buổi chiều, sau khi xong phiên trực từ trên núi Sơn Trà theo xe GMC xuống, tôi lững thững đi về cư xá độc thân dành cho Sĩ Quan thì gặp một người dáng nhỏ nhắn, mặt có nét đôn hậu, nước da ngâm đen đang đi bộ dọc theo hành lang cư xá. Anh chào tôi với giọng miền Nam nhỏ nhẹ và gìới thiệu tên anh và đơn vị anh phục vụ là Phòng Điều Hành Không Vận thuộc Bộ Chỉ Huy hành Quân Không Quân (TACC). Sau đó, tôi cũng giới thiệu đôi nét về tôi cho anh biết. 

Hoá ra, anh cùng theo học khóa Tham Mưu ở Nha Trang với chỉ huy trưởng của tôi là Niên Trưởng Dupont Nguyễn Cầu mà quân nhân trong đơn vị đều thương quý, kính trọng ông ở tư cách, đạo đức và tài lãnh đạo chỉ huy. Anh có nửa tháng thực tập và viếng thăm Sư Đoàn 1 Không Quân. Nhân tiện, Niên Trưởng Dupont mời anh ghé thăm Trung Tâm 2 Kiểm Báo Sơn Trà, tức Panama hay Monkey Mountain.

Những ngày ở Sơn Trà anh và tôi có nhiều dịp trò chuyện, tâm sự. Hôm nào xuống phiên trực, tôi muợn Honda chở anh ra phố Đà Nẵng thưởng thức những món ăn của địa phương này. Đà Nẵng có rất nhiều hàng quán ngon như: bánh xèo, bánh khoái trên đường Lê Đình Dương với nước chấm đặc biệt, nhà hàng Thời Đại trên đường Độc Lập, đối diện nhà thờ Giáo Xứ Chính Toà Đà Nẵng, hay Nhà Thờ Lớn Đà Nẵng, hủ tiểu Mỹ Tho trên đường Nguyễn Thị Giang, nhìn sang bên kia đường là sân vận động Quang Trung, quán ăn nghệ sĩ của Hoạ Sĩ Mùi và thêm vài nơi khác nữa! Tuy nhiên, anh cho biết thích nhất là được thưởng thức món Bún Bò Bà Đào vì tô bún ở đây có hương vị đậm đà, không có nơi nào sánh bằng. Đặc biệt, món giò móng và ớt ngâm giấm tuyệt chiêu.

Một lần vào cuối tuần anh và tôi đi tắm biển Mỹ Khê. Anh lội rất giỏi vì trưởng thành từ sông Vàm Cỏ Tây, nên không cần mang phao. Còn tôi xuất thân từ cầu Kiệu, cầu Công Lý, cầu Trương Minh Giảng, cầu Bông và cầu Xa Lộ, nên cần phải đeo phao cho chắc ăn. Anh cứ thích bơi ra xa và kéo tôi theo.Tôi thì sợ chết. Anh nói với tôi trong khi bơi, nếu em có chuyện gì xảy ra anh sẽ đền. Tôi rất run, lỡ chẳng may bị chết chìm thì làm sao anh có thể đền mạng anh cho gia đình tôi được. Năn nỉ lắm anh mới đưa tôi vào gần bờ, chê tôi nhát gan, sau khi đã cho tôi uống một bụng nước biển kèm theo nước mắt, nước mũi chảy ràn rụa.

Sau gần hai tuần vui chơi, thưởng thức các món ăn đặc biệt và thăm thú những địa danh chung quanh Đà Nẵng. Khi chia tay, anh cho tôi địa chỉ và căn dặn khi nào có dịp đi phép về Sàigòn nhớ ghé nhà anh ở gần chợ Cây Quéo, nằm trên đường Ngô Tùng Châu, Gia Định để anh giới thiệu với vợ con anh một đứa em mà anh cho là dễ thương đã gặp bất ngờ trong chuyến công tác ngoài Trung.

Ngày 27 tháng 01, năm 1973 là ngày hiệp định Paris chính thức thi hành, tôi được thuyên chuyển về Sàgòn. Lúc này, tình huynh đệ giữa anh và tôi càng thêm bền chặt. Anh thường rủ tôi về quê nhà anh ở Xã Khánh Hậu, Long An thăm má anh và bà con. Anh còn hỏi tôi có muốn làm rể ở đây thì anh sẽ mai mối em cháu của anh cho tôi. Có lẽ anh không mát tay, hoặc tôi không có duyên lành với mảnh đất Long An phì nhiêu, hiền hoà, nên mọi giới thiệu của anh đều như nước đổ lá môn?

Cần viết thêm Xã Khánh Hậu có Lăng thờ Cụ Nguyễn Huỳnh Đức. Ngài là một danh tướng và là công thần khai quốc nhà Nguyễn. Xã Khánh Hậu có thể nói lả nơi điện khí hoá đầu tiên ở miền Nam. Con cháu được Ngài phù hộ, nên học hành và làm ăn hầu hết đều thành công. Hằng năm dân chúng trong xã đều tổ chức lễ Giỗ Ngài. Vào dịpTết đến, anh cũng hay rủ tôi về quê chung vui với gia đình và bà con của anh. Hai anh em chở nhau trên chiếc Vespa mini màu xanh nước biển của anh. Nhân dịp này được thưởng thức cảnh đẹp của đồng quê với hai bên đường những cánh đồng xanh mướt và các nông phu đang làm ruộng.

Có lần anh tâm sự với tôi. Ba anh mất sớm. Một mình má anh buôn bán tảo tần ở chợ Long An, hy sinh nuôi ba đứa con trai ăn học đều nên người. Anh lớn nhất đang làm Bác Sĩ ở Bệnh ViệnTây Ninh, cậu em tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm là Giáo Sư Đệ Nhị Cấp ở Long Xuyên, còn anh là Sĩ Quan cấp Tá của KQ/VNCH.

Tình nguyện nhập ngũ vào khoá 60 SVSQ/KQ Phi Hành cùng khoá với các Niên Trưởng  DHB, ĐVH…Anh không đi du học Hoa Kỳ mà theo học khoá Quan Sát ở Nha Trang. Khi mản khoá, anh được đổi ra phục vụ ở Phi Đoàn Thiên Phong 110, Đà Nẵng. Tại đây lập gia đình với một thiếu nữ ở phườngTam Toà. Chị có nét lai Pháp và xinh xắn. Anh chị có tất cả ba người con gồm: con gái đầu lòng và hai con trai. 

Vài ngày trước biến cố 30 tháng 04, năm 1975, có điều kiện và phương tiện di tản, nhưng anh và vợ con ở lại vì chữ hiếu không nỡ bỏ lại người Mẹ già đau yếu đã suốt đời hy sinh cho các con. Hệ quả, anh phải trả một giá quá đắt là hơn mười năm tu nghiệp ở Đại Học Máu (tựa tùy bút của nhả văn Hà Thúc Sinh.)

Khi được cho về. Anh và tôi thường hàn huyên bên ly cà phê đắng ở vĩa hè, cà phê Thái Chi cũ, số 5 đường Nguyễn Phi Khanh, Phường Đa Kao, Quận Nhứt. Trong khi ngồi tâm sự, anh nói với tôi bằng mọi giá anh phải ra đi. Anh không thể nào nhìn vợ con nheo nhóc, việc học hành của các con anh lỡ dỡ vì lý lịch, còn anh sẽ tàn phai theo thời gian và mọi thứ bế tắc ở cuối nẻo đường hầm. Phải đi mới có thể cứu vớt được gia đình. Còn không thì sẽ cùng nhau chết chùm. Anh muốn rủ tôi đi, nhưng tôi không có điều kiện vì lúc đó ba má tôi và anh em tôi đang gặp khó khăn trăm bề, không đủ ăn thì lấy gì lo đến chuyện đi đứng. Nên anh đành đi một mình.

Trong thời gian tìm đường đi. Anh kiếm chỗ học cách nấu phở, hớt tóc, sửa đồng hồ, làm chìa khoá..., để thủ thân, hy vọng khi tới vùng đất mới có dịp hành nghề mưu sinh. Ngoài ra, anh đến hồ tắm Nguyễn Bỉnh Khiêm tập bơi để có thể lực tốt khi hữu sự có thể dùng đến. Chính nhờ biết bơi giỏi, nên anh đã thoát hiểm trong đường tơ, kẻ tóc về sau này.

Anh đã nhiều lần tìm mọi cách vượt biên. Bị gạt, bị bể, có vài lần suýt ở tù, nhưng anh vẫn không hề nao núng, hay nản chí bỏ cuộc. Anh đã mất rất nhiều tiền trong chuyện đi đứng này. Chuyến cuối cùng coi như đã cạn láng. Anh không còn gì hết! Cũng may, có một người bạn chịu ơn anh hồi xưa giúp anh trả chi phí cho chuyến đi này. Nếu lần này không thoát là coi như không còn cơ hội nào khác! 

Anh cho biết trong chuyến đi có nhiều người bị kẹt lại vì giờ chót nuớc ròng, ghe nhỏ (Taxi) không vào bờ đón được bà con như nhóm tổ chức đã dự tính, nên họ yêu cầu ai biết bơi thì bơi ra ghe lớn (Cá Lớn) đang chờ ở ngoài xa, còn ai không biết lội thì hãy tìm đường tẩu thoát ngay. Nếu còn do dự, chần chờ ở lại thì chắc chắn sẽ bị công an địa phương tới bắt. Riêng, anh và vài người khác nhờ biết lội, nên đã leo lên được ghe lớn chỉ vài phút trước khi ghe khởi hành. Chuyến đi may mắn, nên sau hơn nửa tháng lênh đênh trên biển, ghe cạn xăng dầu, hết lương thực và mấy lần bị cướp biển. Cuối cùng, ghe đã an toàn cặp vào được Đảo Pulau Bidong (Malaysia). 

Tạm trú ở đây khoảng gần mười tháng, anh được phái đoàn Hoa Kỳ phỏng vấn chấp thuận cho đi định cư ở Hoa Kỳ. Anh chọn San José để bắt đầu cuộc sống mới, sau những năm tháng nghiệt ngã, khổ cực. Lúc đó, anh ruột anh là NVT đang hành nghề Bác Sĩ ở Oklahoma City muốn anh qua để anh em cùng sống chết có nhau, và có thể giúp đỡ anh dễ dàng, nhưng anh cương quyết từ chối.

Đến vùng đất hứa khi tuổi đời đã lớn, nhưng anh cũng đã cố gắng học xong chứng chỉ AS (Associate of Science) ở De Anza College trong hai năm. Sau khi tốt nghiệp anh xin làm Technician cho một hãng điện tử lớn. Anh ra sức cố gắng tốí đa làm việc miệt mài để gửi tiền về giúp vợ con nơi quê nhà có điều kiện sinh sống, trả nợ cho ân nhân và lo việc bảo lãnh vợ con sang đoàn tụ. Sau nhiều năm chờ đợi, vợ con anh đã được gặp lại anh ngày 06 tháng 07, năm 1990.

Anh cho biết, sau khi ổn định anh đã tìm mọi cách dò hỏi tin tức về tôi. Không biết tôi đang trôi nổi ở phương trời nào? Cuối cùng, qua một người bạn cùng khoá làm chung hãng với anh cho anh biết, tôi vẫn còn kẹt lại ở Việt Nam. Khi có địa chỉ tôi, anh đã thư ngay cho tôi. Tôi rất mừng vì đã nối được liên lạc được anh. Hai anh em thư từ qua lại. Anh nói cuộc sống ở Mỹ giai đoạn đầu rất gian nan, mọi thứ đều xa lạ. Phải biết chịu đựng những khó khăn. Anh còn phải lo cho vợ con đang đói khổ nơi quê nhà, nên ngoài công việc chính ở hãng, cuối tuần phải làm thêm một công việc khác để kiếm thêm thu nhập cho gia đình.Tôi cũng nhận được một ít quà do anh gửi về vào dịp cuối năm.

Khi chương trình HO được mở ra.Tôi làm đơn xin đi định cư, nhưng không có thân nhân hay hội đoàn nào bảo trợ. Trường hợp này, gia đình tôi đành phó mặc cho sự may rủi, đưa đến bất cứ tiểu bang nào cũng dược. Thông thường là sẽ được đưa đến các tiểu bang như: Iowa, Idaho, Nebraska, New Hampshire, Utah, North và South Carolina…Tôi đã đò hỏi và cố tìm người bảo trợ, nhưng hoàn toàn tuyệt vọng.

Đang lo lắng thì nhận được thư anh về hỏi tôi có biết chương trình HO hay không? Tôi có nộp đơn đi theo chương trình này không? Nếu có thì hãy thư ngay cho anh biết để anh làm thủ tục bảo trợ.Tôi mừng quá và thư ngay cho anh là đã nộp đơn, nhưng chưa có ai bảo trợ. Anh yêu cầu tôi gửi những giấy tờ cần thiết, rồi anh đến nhờ cơ quan USCC ở San José tiến hành thủ tục bảo trợ. Với tư cách là Sponsor, anh sẽ chịu trách nhiệm khi nào gia đình tôi đến San José.

 Sau một thời gian dài chờ đợi. Gia đình tôi được rời VN để đi định cư Hoa Kỳ. Vào ngày 29 tháng 10, năm 1992 vợ chồng tôi và đứa con trai duy nhất bảy tuổi, sau hai ngày tạm dừng lại ở Thái Lan đã đến phi trường San Francisco. Sau khi làm xong mọi thủ tục, điền mẫu I-94 và nhận hành lý. Gia đình tôi chậm rãi bước ra cổng, nhẹ nhàng hít thở không khí tự do bắt đầu kể từ ngày hôm nay trên vùng đất tạm dung hoàn toàn xa lạ.

 Vừa bước ra khỏi cửa thì gặp toàn thể gia đình anh, Huỳnh Bá Thanh là bạn cùng khoá 7/68 KQ, Lê Chi Lăng thuộc binh chủng Biệt Động Quân và Mục Sư Kiều Tuấn Nam. Tôi đã bật khóc vì gặp lại anh và các bạn cũ. Cứ tưởng rằng mình đang sống trong mơ.

Lời đầu tiên anh nói với tôi“Anh chúc mừng gia đình em đã đến được bến bờ tự do. Anh tin là vợ chồng em sẽ thành công nơi vùng đất mới này. Hãy an tâm! Đừng lo lắng hay bi quan gì hết! Anh sẽ giúp gia đình em bằng mọi khả năng trong giai đoạn đầu. Em đừng nghĩ rằng Trâu chậm bị uống nước đục.” Trên đường từ phi trường San Francisco về nhà anh dưới cơn mưa tầm tã. Anh nói, San José rất mong có mưa vì đã hạn hán nhiều năm. Chính quyền đã phải ra lệnh cấm không được dùng nước tưới cây, rửa xe... Tự nhiên, hôm nay khi gia đình em đến, mưa xuất hiện để chào đón. Mưa mang đến cho cây cối xinh tươi, hoa trái sinh sôi nẩy nở. Anh tin đây là điềm lành đến với gia đình em.

Khi gia đình anh đi đón gia đình tôi thì trước đó đã chuẩn bị sẵn ở nhà buổi cơm gặp mặt rất tuơm tất. Anh đã chuẩn bị thuê cho gia đình tôi một phòng ở gần nhà anh trên đường Rexford, nằm sát bên trường San José City College, gần bệnh viện Bascom, các chợ SAFEWAY, Food 4 Less, K Mart, Lucky, Long Drugs, chợ Đại Thành,Thiên Thành…và gần lối ra vào các xa lộ. 

Anh đi làm ca đêm. Sau khi về nhà ăn sáng, uống cà phê là sang đón gia đình tôi chở đi ngay để lo các thủ tục cần thiết như: đến cơ quan USCC làm thủ tục giúp đỡ lúc ban đầu, đến bệnh viện Lenzen chích ngừa, khám sức khoẻ, làm các thủ tục cần thiết như xin số an sinh xã hội, mở chuơng mục ở ngân hàng, làm thủ tục ở DMV thi bằng viết lái xe, kiếm người dạy lái xe, tìm mua một chiếc xe cũ, đóng bảo hiểm xe, cách dùng máy giặt, máy sấy quần áo, đổi nước uống, giới thiệu Bác Sĩ gia đình, Pharmacy lấy thuốc, cách đi xe bus, xin cho con trai tôi học ở trường tiểu học Blackford gần nhà, còn vợ chồng tôi ghi danh học lớp ESL ban đêm ở trường Trung Học Del Mar.

Cuối tuần, anh chở vợ con anh và gia đình tôi đi chợ Senter trên chiếc xe Toyota cũ, ọp ẹp của anh. Phải chở làm hai lần mới xong. Bất cứ lúc nào có dịp nói chuyện là anh động viên, khuyến khích gia đình tôi. Anh thường nói những người đi trước có nhà, có cửa, có cơ ngơi đều phải cố gắng tối đa từ lúc ban đầu và thêm sự may mắn. Anh nhấn mạnh với tôi tuyệt đối “Đừng bao giờ dính dáng đến bài bạc, rượu chè”. Biết bao người nhà tan, cửa nát, gia đình ly tán cũng bởi nguyên nhân này. Em nên nhớ “Đồng tiền kiếm ra bằng công sức và mồ hôi của mình mới giữ được lâu dài, bền vững.”

Ngoài ra, anh cũng căn dặn rất kỹ trong vấn đề giao tiếp hàng ngày phải nhớ nói lời cảm ơn và biết xin lỗi. Đừng bao giờ nghe quảng cáo miễn phí gửi tới nhà qua đưng bưu điện hay trên điện thoại mà ham, vì sau đó hậu quả sẽ khôn lường, nếu như đặt viết ký tên trên các giấy tờ người ta gửi đến. Dứt khoát không cho bất cứ ai biết số an sinh xã hội trên điện thoại. Xứ Mỹ không có gì là miễn phí hay cho không hết!

 Những kinh nghiệm thực tế mà anh đã từng gặp được trao lại cho tôi là những bài học rất quý giá mà tôi luôn luôn ghi nhớ trong đầu. Qua hai tháng tiếp xúc và làm quen với môi trường mới, gia đình tôi đã từ từ quen dần. Lúc này, vợ chồng tôi đã thi đậu lái xe, đã mua được chiếc xe cũ, nhưng máy móc vẫn còn tốt. Chúng tôi có thể tự mình lo được nhiều chuyện hàng ngày, không còn nhờ đến anh giúp nữa. Anh cảm thấy rất vui và tự hào khi thấy chúng tôi đã hội nhập các sinh hoạt hàng ngày rất nhanh, không như ban đầu anh tưởng,gia đình tôi phải mất nhiều thời gian.

Một số bạn bè khi hay tin gia đình tôi đến San José. Họ gọi điện thoại chúc mừng. Anh em cùng khoá 7/68 KQ ở Bắc Cali tổ chức gặp mặt và tặng chúng tôi nhiều vật dụng dùng trong gia đình vẫn còn tốt. Họ động viên tinh thần vợ chồng tôi để chúng tôi an tâm “Ai ai cũng đều gặp những khó khăn lúc ban đầu, rồi sau đó sẽ đi vào ổn định, nếu như cố gắng và biết chấp nhận gian khổ. Giống như xe hàng chở các bao gạo lổn ngổn không thứ tự. Sau khi tài xế lái một đoạn đường các bao gạo sẽ tự sắp xếp lại đâu vào đó”.

 Họ khuyên chúng tôi tập xem chương trình TV, nghe Radio, đọc báo bằng tiếng Anh, dành thời gian tìm hiểu bạn bè đi trước để lấy kinh nghiệm. Nếu như chịu khó trở lại trường học thì sẽ tốt cho tương lai về sau. Vợ chồng tôi cùng bàn đi, tính lại. Cuối cùng, tôi quyết định làm toàn thời gian, lấy một số lớp Anh Văn ở College và tự học tại nhà để có chút chữ nghĩa khi đi xin việc và những lúc cần giao tiếp, còn vợ tôi làm bán thời gian và ghi danh học toàn thời gian ở San José City College. Cố gắng tự lực cánh sinh, không bám vào các phúc lợi của chính phủ cung cấp, dù gia đình tôi có con nhỏ và được hưởng quy chế tị nạn,

Sau những tháng năm dùi mài kinh sử, vợ tôi đã lấy được bằng M.A (Master of Arts) về Pháp Văn ở San José State University. Năm1996, trong khi đang theo học năm thứ hai ở San José City College đã nhận được giải thưởng hạng Nhất về viết Luận Văn bằng tiếng Pháp do the Alliance Francaise tổ chức trong khu vực Bắc Mỹ và Canada. Phần thưởng là học bổng đi thăm nước Pháp với vé máy bay khứ hồi và các chi phí trong thời gian ở Paris. 

Tham dự cuộc thi có 966 thí sinh, trong số đó có sinh viên của các Đại Học danh tiếng như: Columbia University, University of Virginia, và Marquette University. Đề thi“Bạn sẽ nghĩ gì về ý kiến của Jean Moiné, người đứng ra khởi xướng phong trào kỹ nghệ hoá và xây dựng thị trường chung Âu Châu vào những năm 1950, như sauNếu như phải xây dựng lại tất cả thì tốt hơn hết chúng ta nên bắt đầu bằng văn hóa hơn là bằng than củi và sắt thép.”

Đây là một đề tài trừu tượng, bao quát, hóc búa đòi hỏi mỗi thí sinh phải am hiểu về nền kinh tế chung của Châu Âu trong giai đoạn 1950, phải biết phân tích và lý luận chính xác, có đầy đủ các dẫn chứng cụ thể, tỉ mỉ. Thí sinh có hai giờ để viết và không được dùng tự điển để tra cứu.

Tốt nghiệp xong, vợ tôi xin đi dạy được một thời gian, nhưng cảm thấy không thích hợp, nên xin vào làm công chức cho County of Santa Clara cho đến nay đã hơn 20 năm. Con trai tôi cũng xong Đại Học và đang làm chuyên viên cho một bệnh viện nổi tiếng ở vùng Bắc Cali.

 Còn phần tôi, làm cho hai hãng điện tử Flextronics, IBM và Bưu Điện San José được hơn mười năm. Hiện nay đã nghỉ hưu, đang làm nhân viên Crossing Guard có nhiệm vụ hướng dẫn học sinh và bộ hành qua đường cho School Safety and Education Unit trực thuộc San José Police Department. Muốn xin vào đây phải nộp đơn, chờ gọi, qua phỏng vấn, khám sức khoẻ tốt, làm việc trong mọi điều kiện thời tiết, DMV xác nhận bằng lái xe không có lỗi nặng, điều tra lý lịch rất kỹ lưỡng. Sau cùng, tham dự một lớp hướng dẫn và đi thực tập. Lúc đó mới chính thức được tuyển dụng. Hàng năm, trước khi tựu trường, các Crossing Guard tham dự một buổi họp để trao đổi kinh nghiệm, hướng dẫn lại một số nguyên tắc căn bản, nhắc nhở nhiệm vụ, khen thưởng các nhân viên có thành tích tốt và nhận thời khoá biểu cho niên học mới. Từ nhiều năm qua thành phố San José chưa hề xảy ra bất cứ một tai nạn đáng tiếc nào cho học sinh hay bộ hành trong giờ các nhân viên Crossing Guard có mặt làm nhiệm vụ.

 Vài năm trước, nhân viên gốc Việt chiếm tỷ lệ gần 40/%, trong số đó có nhiều Công Nhân Viên Chức, Sĩ Quan VNCH. Hiện nay, chỉ còn đếm trên đầu một bàn tay. Một cựu Đại Tá Tỉnh Trưởng cũng từng làm công việc này. Ông đã xin nghỉ vì tuổi già (85t), sức khỏe kém.Thỉnh thoảng tôi ghé thăm ông, để nghe ông tâm sự  về cuộc đời thăng trầm trong binh nghiệp, những nỗi oan thiên từ đâu đưa đến, thời gian dài tù đày nghiệt ngã và thế thái nhân tình sau khi vật đổi sao dời, để thấy rõ lòng dạ trắng đen của con người.

Hiện ông đang sống cô đơn trong một căn phòng nhỏ của một chung cư dành cho người già có lợi tức thấp ở San José. Ông không hề ta thán hay oán trách bất cứ ai! Ông đặt niềm tin tuyệt đối vào Đức Mẹ Maria và Thánh Martinô (Martin de Porres) đã che chở cho ông trong những lúc bi đát nhất cuộc đời, nên ông còn sống sót cho đến ngày hôm nay. Giờ đây, ông an tâm chờ khi nào được Chúa gọi thì sẽ vui vẻ ra đi, không còn gì để hối tiếc.

Công việc Crossing Guard tương đối nhẹ nhàng, thoãi mái, không bị gò bó, xem như hàng ngày tập thể dục, hít thở ngoài trời, khỏi cần phải đi đến phòng Gym, nhưng được lãnh lương. Vào những hôm mưa gió, bão tố, thời tiết lạnh lẽo và nắng gắt thì rất vất vả.

Làm để tìm thấy nguồn vui, được nhìn các em nhỏ tung tăng đến trường, hầu tìm lại một chút tuổi thơ đã đi qua, cũng như cảm thấy phần nào ấm lòng với những câu chào hỏi, các lời cảm ơn chân tình của phụ huynh khi gặp mình mỗi ngày. Ngoài ra, còn nhận được những món quà nho nhỏ của các học sinh vào dịp Lễ Tạ Ơn, Giáng Sinh và cuối năm học. 

Làm cho quên đi những tháng ngày còn lại tha phương nơi xứ người để lòng mình cảm thấy rằng vẫn còn giúp ích và đóng góp cho xã hội khi tuổi sắp gần đất xa trời, mà trên tay đã cầm sẵn tấm vé xe đò một chiều, chờ tài xế ngừng lại mời lên xe đưa về cõi bồng lai, tiên cảnh.

Ngoài sinh hoạt hàng ngày. Gia đình tôi còn tham gia các công tác thiện nguyện phục vụ cộng đồng và đóng góp cho phong trào Hướng Đạo ở địa phuơng. Con trai tôi đạt đẳng hiệu Đại Bàng (Eagle Scout) năm mười bảy tuổi. Chúng tôi đã tình nguyện tham gia các khoá huấn luyện do Hội Hướng Đạo Hoa Kỳ và Hội Đồng Trung Ương Hướng Đạo Việt Nam tổ chức. Các bạn Hướng Đạo Hoa Kỳ và Việt Nam rất ngạc nhiên khi thấy cả gia đình tôi đều tham gia hướng đạo và nhận chuyên hiệu Rừng (Wood Badge) cùng một ngày, mà điều này từ khi tham gia hướng đạo họ chưa từng thấy xảy ra. Hiện nay gia đình tôi tham gia Hướng Đạo Trưởng Niên thuộc Làng Bách Hợp Vùng Vịnh, nơi tập họp các anh chị em đã từng một thời khoác bộ đồng phục hướng đạo và những ai lớn tuổi vì nhiều lý do không có cơ hội tham gia hướng đạo lúc còn trẻ, nay tìm đến sinh hoạt để cùng chia sẻ những vui buồn, những kinh nghiệm sống, nhớ lại thuở hồn nhiên và cùng hát bài “Anh Em Ta Về.” (Tác giả Linh Mục Tiến Lộc)

Anh em ta về cùng nhau ta quây quần này, 1-2-3-4-5

Anh em ta về cùng nhau ta sum họp này, 5-4-3-2-1

Một đều chân bước nhé!

Hai quay nhìn nhau đi.

Ba cầm tay chắc nhé, không muốn ai chia lìa!

Bốn nhớ rằng chúng ta bốn bể anh em một nhà.

Năm nhớ mãi tình người trong câu ca.

Tôi xin cảm ơn bạn bè, những ân nhân đã nhiệt tình hướng dẫn và giúp đỡ gia đình tôi khi chân ướt, chân ráo đặt chân đến San José. Đặc biệt, Niên Trưởng Nguyễn Văn Phẩm và gia đình đã không ngại khó khăn, phiền phức đứng ra bảo trợ, đã bỏ ra nhiều thời gian, công sức giúp đỡ gia đình tôi.

Chúng tôi cũng không quên những tình cảm thân yêu, trìu mến mà tất cả bạn bè đã đem đến, nhờ thế gia đình tôi mới có được cuộc sống ổn định như hiện tại.

Giờ đây, Niên Trưởng Nguyễn Văn Phẩm đã đi về miền miên viễn. Xin Niên Trưởng hãy phù hộ cho vợ con, gia đình tôi và tất cả bạn bè còn lại.

 Gia đình tôi luôn luôn dành tấm lòng trân quý đến NT. Người đã không quản ngại đứng ra bảo trợ “Hát Ô Mồ Côi”cho gia đình tôi.

 Xin vô vàn cảm ơn anh. Xin được đốt một nén hương lòng để tưởng nhớ đến“Một Niên Trưởng Không Quân VNCH khả kính, hiền hậu mà suốt đời tôi không bao giờ quên.”

 Trần Đình Phước

(San José, California – Thanksgiving 2019)

Monday, November 23, 2020

CHUYỆN THẬT KỂ VỀ “TẤM THẺ BÀI” CỦA NGƯỜI CHA.

Con gái 9 tuổi lạc qua Mỹ ngày 30 tháng 4 năm 1975, trở thành bác sĩ về Việt Nam chửa bệnh từ thiện, ra Nha Trang tìm lại cha mẹ các em, tình cờ xe hết xăng ngay chỗ mẹ ruột và hai đứa em đang cải táng mộ cha là một quân nhân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa cấp bậc Trung Sĩ tử thương vào ngày 30/04/1975, sau đó cô đã bảo lãnh cả mẹ và các em qua định cư tại Hoa Kỳ.

Câu chuyện được bắt đầu vào sáng ngày 23-3-1975

Sau khi chồng và con trai bị chết vì đạn pháo kích của Việt Cộng đồng thời bị thất lạc đứa con gái trong ngày di tản tại bãi biển Chu Lai tại Quảng Tín, chị Buôn tất bật chạy khắp nơi để hỏi thăm về đứa con gái của mình…chị đã được một người chạy nạn cho biết:

“Con bé khoảng 9 hay 10 tuổi mặc cái áo xanh, quần đen, cổ có đeo cái thẻ bài của lính là con chị sao?

Nó được một người trên ca-nô nhào xuống nước bơi vào vớt nó đưa lên ca-nô ra tàu lớn rồi.

Thật là may mắn cho nó!”…

Lệ, đứa con gái thất lạc của chị Buôn được đưa lên tàu Hải quân với chiếc thẻ bài đeo tòng teng nơi ngực.

Người ta thấy có khắc tên:

Lê văn Buôn Số quân: …. Họ hỏi Lệ.

Lệ nói đó là tên ba nó, ba Buôn của nó, bị lọt lại với má và ba đứa em tại bãi biển Chu Lai.

Mới đầu Lệ sụt sùi khóc nhưng có người đàn bà ngồi gần bảo nó khóc không ích gì.

Nó cắn răng nghe lời bà này, làm theo những gì người ta chỉ bảo. Tiếng nổ làm cho nó ù tai nhưng cái sợ làm nó quên cả.

Kể từ lúc quả lựu đạn nổ, nó gần như mê đi cho đến khi có người vớt nó đưa lên ca-nô rồi lên tàu.

Người vớt nó lên ca-nô và đưa nó lên tàu, nhận nó là con nuôi là một Thiếu Uý Hải quân.

Sau thời gian huấn luyện dài đằng đẳng, tim anh còn đầy ắp tình người dành cho đồng hương và cả nhân loại.

Ước mơ của anh là những chuyến hải hành xa, đi đến chân trời góc biển, đi đến những đô thị lớn hoa lệ, nguy nga, ngợp ánh đèn về đêm và nườm nượp xe cộ, người đi bộ trên hè phố ban ngày.

Anh tên Lê trọng Nghĩa, 28 tuổi, quê quán ở miệt Thủ Dầu Một, ra trường với hạng cao trong số hơn 60 sinh viên tốt nghiệp trường Sĩ Quan Hải Quân Nha Trang và hiện là một sĩ quan ưu tú của Giang đoàn 240 đóng ở miền Trung.

Chiếc tàu Nghĩa và đứa con nuôi là Lệ về đến bến Bạch đằng Sàigòn vào tuần đầu tháng 4-1975, đang lúc Sàigòn lên cơn sốt y như miền Trung mấy tuần trước.

Nghĩa đưa Lệ đến gửi tại nhà vợ một người bạn trong trại Sĩ quan bến Bạch đằng, lại gửi tiền và nhờ Xuân Hà, tên vợ người bạn, đi mua sắm quần áo và những thứ cần thiết hàng ngày cho Lệ.

Xuân Hà nhìn Nghĩa rồi nhìn Lệ và hỏi nhỏ Nghĩa:

“Con bé xin được ở đâu mà xinh quá vậy?

Tốn vài tạ gạo nữa là đã ra dáng tiểu thư rồi.

Anh lựa hay lắm.”

Nghĩa nghiêm nét mặt bảo Xuân Hà:

“Chị đừng nghĩ vậy.

Ba má nó và ba đứa em còn kẹt lại Chu Lai.

Chỉ có mình nó được tôi cứu lên tàu. Tôi nhận nó làm con nuôi.”

Xuân Hà tính đùa thêm một câu nhưng thấy mặt Nghĩa lạnh như tiền nên không dám cợt nhả nữa.

Ngày 28-4-1975, Nghĩa lại mang Lệ lên một chiếc tàu Hải Quân HQ lớn để chạy sang Guam.

Nghĩa con một, cha mẹ Nghĩa đã lớn tuổi muốn sống và chết ở Thủ dầu Một nên không đi mặc dù trong thời gian ở Sàigòn, Nghĩa đã cải trang về thăm và mời ông bà đi.

Sau 5 tháng ở trong trại tạm cư ở Guam, Nghĩa và Lệ được một nhà thờ bảo trợ đi định cư tiểu bang South Carolina.

Từ đây, Nghĩa xin Basic Grant của tiểu bang để vào Đại học học Kỹ sư cơ khí.

Ngoài giờ học, Nghĩa đi làm part time cho tiệm Sears ở downtown để lấy tiền chi phí ăn ở cho hai cha con. Nghĩa xin cho Lệ vào học ở trường tiểu học địa phương, có xe bus nhà trường đưa đón mỗi ngày và ăn sáng, ăn trưa miễn phí vì hai cha con Nghĩa chưa có lợi tức.

Nghĩa chỉ thêm bài vở cho Lệ mỗi buổi tối sau khi cơm xong.

Lệ thông minh nên học rất nhanh.

Để giúp ba Nghĩa, nó biết đặt nồi cơm điện, luộc rau, luộc trứng, làm những món giản dị rồi chờ ba Nghĩa về ăn cơm.

Mặc dầu vào ngang thiếu căn bản 4 lớp đầu (học trình Hoa Kỳ), nhưng Lệ đã học xong lớp 5 Việt Nam, Lệ học lại với ba Nghĩa và một cô giáo Mỹ dạy kèm (tutor) tất cả những gì cần thiết chưa được học ở các lớp dưới, nhất là Anh ngữ, vì vậy Lệ tốt nghiệp Trung học lúc mới 17 tuổi với điểm trung bình 4.0, một thành tích vượt mức ngay với học sinh bản xứ.

Nhiều lúc Lệ nhớ ba má, nhớ các em day dứt nhưng nghe ba Nghĩa khuyên, Lệ phải cố quên.

Lệ cũng nghĩ và tự nhủ lòng, có khóc, có nhớ ba má và các em cũng không làm được gì, chỉ cản trở việc học.

Đã từng ở trong cảnh nghèo của cha mẹ ở Việt Nam, Lệ biết được đi học thế này là một diễm phúc vì vậy Lệ cố gắng và chăm chỉ hết mức.

Ba Nghĩa cũng khuyên Lệ, sau này có thể có bang giao giữa Hoa Kỳ và Việt Nam, khi ấy Nghĩa sẽ tìm cách hỏi thăm tìm ra tung tích ba má và các em Lệ. Lệ nghe thế lại tạm yên lòng và hy vọng.

Mùa Thu năm đó, Lệ vào trường Đại học Y khoa South Carolina.

Sau 3 năm, Lệ lấy Cử nhân Sinh Vật học với lời khen của Hội đồng Giám Khảo. Lệ chuyển qua học ngành Nhãn Khoa (Opthalmology).

Năm 1990, Lệ đậu bằng Bác sĩ Nhãn Khoa hạng tối Ưu với lời ngợi khen của Ban Giám Khảo.

Lệ được mời dạy môn Nhãn Khoa cho sinh viên cùng trường.

Lệ hỏi ý kiến ba Nghĩa, sau đó Lệ xin khất cho đến khi trở về từ Việt Nam.

Tốt nghiệp xong, Lệ bàn với ba Nghĩa, lúc này đã có vợ và một đứa con trai 2 tuổi, ba Nghĩa đồng ý, Lệ đi mua vé máy bay về Việt Nam tìm cha mẹ và các em.

Sau hơn 10 năm bế quan toả cảng cả nước sắp chết đói, lúc này (từ 1985) chế độ bắt buộc phải mở cửa cho kinh tế thị trường nên cũng dễ dàng cho Lệ đi lại.

Lệ và một người bạn thân về đến Chu Lai vào một buổi chiều mùa Hạ năm 1990 sau khi đã lặn lội đi bằng đủ thứ xe từ Sàigòn ra miền Trung.

Sau 15 năm, quang cảnh cũ đã thay đổi nhiều.

Có những căn nhà mới mọc lên nhưng cũng có nhiều căn trại cũ biến mất.

Chỉ có bãi biển, trông vẫn như trước mặc dù có nhiều hàng quán mọc lên bán thức ăn, thức uống cho du khách.

Trại Gia binh ngày nào không còn. Lệ muốn được gặp lại những người hàng xóm của ba má Lệ ngày xưa như vợ chồng bác Sáu, vợ chồng chú Đàm, vợ chồng cô Bé để hỏi thăm về cha mẹ và các em nhưng đi quanh quanh làng xóm, Lệ không kiếm ra một người quen cũ.

Lệ đeo cái thẻ bài vào cổ như ngày 23-3-1975 ra bãi biển Chu Lai, nhà nào Lệ cũng vào hỏi thăm và cho con cái họ quà bánh Lệ đem từ Hoa Kỳ về, giơ chiếc thẻ bài cho họ coi và hỏi thăm xem có ai biết ba má và các em Lệ không?

Nhưng tuyệt nhiên không ai biết. Vốn đã có định kiến, Lệ xin phép chính quyền sở tại, không quên quà cáp cho họ, để mở phòng mạch khám mắt miễn phí cho mọi người.

Một nữ bác sĩ Hoa Kỳ, cô Ruthie O’Brien, bác sĩ gia đình, vốn là bạn thân và cùng ra trường một ngày với Lệ, cùng đi với Lệ về chơi thăm miền Trung Việt Nam, nhân dịp cũng bỏ đồ nghề ra khám bệnh và cho thuốc cùng những lời khuyên hữu ích để phòng ngừa bệnh tật.

Các gia đình đến khám mắt và khám tổng quát, nhất là những ông già bà cả đều được hỏi về Trung sĩ Lê văn Buôn, Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 1, Sư đoàn 2 Bộ binh vào tháng 3 năm 1975 nhưng không một ai biết.

Mỗi buổi chiều khi khám bệnh xong, Lệ và Ruthie thường ra bãi biển Chu Lai ngồi ngắm sóng và ngắm hoàng hôn trên biển, nghe những tiếng rì rào của sóng biển chạy vào bờ rồi lại trườn ra xa.

Thấy bạn buồn vì không tìm ra gia đình, Ruthie lựa lời khuyên nhủ và hỏi Lệ có còn muốn đến nơi nào khác để kiếm không?

Lệ nghĩ chỉ có hai nơi khác ba má Lệ có thể ở là Nha Trang, quê của ba và Trà Vinh, quê của má. Lệ nói cho Ruthie nghe những nơi Lệ hy vọng nhiều nhất, sau đó Ruthie khuyên Lệ nên đi Nha Trang.

Nha Trang không hứa hẹn nhiều cho việc tìm kiếm vì Lệ đã đến đây gần một tuần, đi khắp nơi hỏi nhưng không ai biết cựu Trung sĩ Lê văn Buôn và vợ con.

Lệ thất vọng hoàn toàn, thầm nghĩ chỉ còn một nơi nữa là Trà Vinh.

Nếu tại Trà Vinh cũng không có tung tích thì coi như gia đình Lệ đã bị tiêu tán trong hoặc sau ngày 23-3-1975. Nghĩ đến đó, Lệ cảm thấy buồn muốn khóc.

Ba má và các em đi hết chỉ để lại mình con thôi sao, thế thì con có sống cũng mang mối u hoài đau khổ ấy suốt đời!

Thà con ở lại nhà chia sẻ những đau khổ với ba má và các em rồi chết chung một huyệt cũng là xong một kiếp người.

Lệ buồn khôn tả và khóc mỗi đêm về nhưng không dám cho Ruthie biết.

Một buổi sáng, Lệ cùng Ruthie mướn một chiếc xe hơi với tài xế để đi thăm Hòn Chồng, nơi thắng cảnh đẹp có tiếng của Nha Trang.

Thật ra Lệ không còn tâm trí đâu ngoạn cảnh vì “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” nhưng để chìu Ruthie, Lệ cho Ruthie đi nơi này nơi kia chụp hình lưu niệm và dọc đường có thể tìm vào các quán ăn ngon, các khách sạn sang trọng mướn phòng ngủ qua đêm.

Lẽ ra trong chuyến đi này, Lệ mang theo vị hôn phu là bác sĩ Vĩnh quang Dũng, chuyên khoa bệnh tiêu hoá, tốt nghiệp trước Lệ 3 năm và hai người quen nhau khi cùng làm việc trong một bệnh viện nhưng Dũng phải đi Á căn Đình dự một Đại Hội Y Khoa toàn cầu về bệnh tiêu hóa, đại diện cho Bộ Y Tế Hoa Kỳ.

Còn vị hôn phu của Ruthie có cha già đang nằm bệnh viện chữa trị bệnh tiểu đường nên anh cũng không thể theo Ruthie đi du lịch Việt Nam được.

Sau khi đã dạo chơi bãi biển hơn hai tiếng đồng hồ, Lệ đề nghị tài xế chở vòng qua con đường phía sau, nơi đây lưa thưa có dăm cái nhà trên bãi cỏ hoang.

Phong cảnh quá tiêu sơ và u buồn, không có bóng một đứa trẻ.

Lệ và Ruthie bàn với nhau đi xuống cuối con đường rồi trở lại, trở về thành phố Nha Trang.

Mới đi thêm một khoảng ngắn, đột nhiên chiếc xe bốc khói ở máy.

Tài xế vội cho xe ngừng lại và kiểm soát máy thấy máy cạn khô không còn một giọt nước.

Anh ta hoảng hồn tắt máy và ngơ ngáo đi tìm xung quanh để kiếm nước châm vào máy.

Đó đây, ngoài con lộ đắp bằng đất đỏ thì toàn là gò đống và bụi cây mọc lưa thưa, tít tắp xa mới thấy vài mái tranh hiện trên nền trời xanh lơ.

Lệ và Ruthie phải ngồi chờ dưới gốc cây cho bớt nắng trong khi bác tài lội bộ đi tìm nước.

Chợt Lệ trông thấy một đám người lố nhố trên một cái gò, cách xa Lệ khoảng 400 mét.

Lệ chợt nghĩ hay là họ đào huyệt chôn người chết như hồi còn bé Lệ đã thấy ở Chu Lai nhưng sao không nghe tiếng khóc cũng không thấy quan tài.

Trí tò mò thúc đẩy Lệ vào đó coi xem sao. Lệ cũng có ý nghĩ giúp đỡ công việc họ đang làm, nếu họ quá nghèo, cần đến một, vài chục đô-la của Lệ.

Lệ nói cho Ruthie nghe ý nghĩ của mình, bảo Ruthie ngồi đó chờ mình nhưng Ruthie không chịu, đứng lên cùng đi với Lệ.

Hai cô gái cứ tưởng gần và ruộng khô, nào ngờ coi vậy nhưng khoảng cách khá xa và có những chỗ nước ngập mắt cá, hai cô phải tháo giầy cầm trên tay để đi.

Khoảng sáu, bảy người vừa đàn ông, đàn bà, thanh niên, thiếu nữ cắm cúi nhìn vào một cái lỗ huyệt đang đào do 4 thanh niên khoẻ mạnh, người cầm xẻng xúc đất đổ vào mê tre, kẻ bê đất đổ lên bờ, để dần dần hiện ra tấm nắp thiên bằng gỗ đen sì một cái quan tài.

Từ xa lội tới, hai cô gái đã bị những cặp mắt tò mò của đám người trên gò nhìn thấy và theo dõi.

Khi hai cô tới gần, tất cả đều ngừng tay nhìn chằm chằm như nhìn một hiện tượng lạ.

Họ quá lạ lùng bởi từ xưa đến nay chưa có người ngoại quốc nào ăn mặc đẹp đẻ thế kia – đám người cho rằng cả hai cô là gái Mỹ, Pháp, Anh, Úc chi đó, lại lội ruộng vào cái gò này để coi cải mả.

Phải, họ đang cải mả.

Họ đào cốt người thân chết đã lâu năm, bỏ sang một cái tiểu sành, kiếm chỗ thuận tiện, gần gũi hơn đặt xuống.

Lệ mở lời khi nhìn một người đàn bà lam lũ, già yếu, mặt mày nhăn nheo:

“Chào các bác, các chú, các anh, các chị.

Cháu là người Việt sống tại Hoa Kỳ về thăm quê hương.

Các bác, các chú đang cải táng cho thân nhân, phải không ạ?”

Nghe cô con gái nói tiếng Việt, cả đám người thật ngạc nhiên.

Sao cô gái trông như Mỹ này, chỉ khác mớ tóc đen, lại là người Việt, nói tiếng Việt thạo quá.

Họ bỏ xẻng cuốc đứng vây xung quanh hai cô gái.

Người đàn bà lớn tuổi trả lời: “Phải, người ở dưới huyệt là chồng tôi, chết từ năm 1975.”

Lệ nghe giọng nói người đàn bà có điều ngờ ngợ nhưng chưa dám tin là mình có thể đúng.

Nhân tiện, cứ hỏi thăm xem có ai biết được ba mình không?

Lệ chìa tấm thẻ bài đeo trong ngực áo ra cho họ coi, nói:

“Tấm thẻ bài này của ba tôi. Tôi không biết gia đình ông còn sống không và nay ở đâu.

Ông tên là Trung sĩ Lê văn Buôn.”

Người đàn bà trân trối nhìn Lệ xong ngập ngừng nói:

“Thế này thực không phải.

Xin lỗi…Có phải tấm thẻ bài này của lính Việt Nam Cộng hoà và cô là …Lệ phải không?”

Điều Lệ nghi ngờ đã đúng.

Giọng nói người đàn bà và nhìn kỹ từ đầu đến chân, Lệ thấy đúng là má Lệ, không còn sai vào đâu được.

Lệ ôm chầm lấy bà khóc rưng rức:

“Má ơi! Con đây, Lệ của má đây.

Má còn nhận ra con không?”

Bà Buôn, phải, vì người đàn bà đó chính là vợ goá của Trung sĩ Lê văn Buôn, càng ôm chặt Lệ hơn.

Bà rên rỉ:

“Lệ ơi, má đâu có ngờ Trời Phật còn cho gia đình mình ngày hôm nay. Người nằm dưới huyệt kia chính là ba con đó.

Quả lựu đạn ngày 23-3 đã giết ba và thằng Chưởng.

Còn lại hai đứa đứng kia, thằng Tung, con Bi giờ đã lớn từng đó.”

Lệ quay ra ôm hôn đứa em gái và thằng em trai.

Chúng cũng xúc động nhưng không xúc động bằng má Lệ và Lệ vì khi xẩy ra biến cố tan nát gia đình, chúng còn quá nhỏ.

Bà Buôn hỏi Lệ:

“Con đeo tấm thẻ bài này 15 năm nay để đi tìm ba má và các em phải không?”

“Dạ, đúng thế má.

Con đi tìm ba má và các em vì con đâu biết ba đã hy sinh ngày hôm đó.”

Ruthie đứng ngó mấy mẹ con ôm nhau cũng xúc động nhưng trong ánh mắt cô đọc thấy những tia sáng hân hoan vô bờ của bạn và của mẹ của bạn.

Chuyến đi hoàn toàn thành công quá sức mong mỏi, cô lẩm bẩm.

Bốn thanh niên lại tiếp tục đào.

Họ cậy tấm nắp thiên.

Bộ xương người đen sì lõng bõng nước.

Ruthie nhìn thấy sợ quá phải đứng tránh ra xa.

Cô đã quen với xác chết trong các bệnh viện nhưng không phải là bộ xương đã rữa mục này.

Lần đầu tiên Lệ nhìn thấy bộ xương cải táng nhưng Lệ không sợ mà Lệ muốn đứng thật gần để nhìn cho rõ hình hài của người cha đã sinh ra mình.

Khi má Lệ hỏi Lệ vì sao biết mà vào đây.

Lệ thuật lại từ đầu tới cuối, vì sao xe phải ngưng lại, bác tài xế phải đi kiếm nước đổ vào máy xe để đi tiếp v.v…

Bà Buôn thắp lên mấy cây nhang và hai ngọn nến trong khi mấy người đàn ông đổ rượu trắng ra cái chậu sành và rửa từng khúc xương cho sạch, lấy giấy bản lau khô xong xếp vào một cái tiểu sành mầu đất nung đỏ quạch.

Trong số người lo chuyện cải táng, có chú Năm thợ hồ có nhiều kinh nghiệm.

Chú vừa làm vừa chỉ dẫn cho mấy anh thanh niên làm. Chú nói:

“Tôi học nghề cải táng từ năm mới 16 tuổi mà năm nay đã 55, coi như 39 năm trong nghề mà tôi chưa thấy một vụ nào lại linh thiêng như Trung sĩ Buôn đây.

Nghe cháu Lệ vừa nói thì cháu đã để tâm tìm ba má cháu nhiều năm nhưng không ra tung tích; đến bữa nay hồn thiêng Trung sĩ dun dủi làm cho chiếc xe hơi đang chạy ngon lành bỗng hết nước ở ngay khúc đường này, xe bốc khói xuýt cháy máy và từ đó cháu Lệ mới có cơ hội lặn lội vào cái gò này vì tính tò mò và cũng vì tính thương người, muốn giúp đỡ người nghèo.

Vì thế mà Trời Phật không bỏ cháu.”

Bác tài xế đã lặn lội đi xin được một bình nước đổ vào xe.

Thay vì hai thanh niên phải khiêng chiếc tiểu sành, giờ này chiếc tiểu sành được bỏ lên xe, mọi người về nghĩa trang gần nơi cư ngụ của gia đình bà Buôn.

Nghe Lệ kể sơ lược từ lúc được ba Nghĩa nuôi vớt lên tàu và được học hành ở Hoa Kỳ, hiện đã là một bác sĩ Nhãn khoa Hoa Kỳ, tiền bạc dư dã, tương lai sáng lạn, bà Buôn quá sung sướng lại khóc.

Bà chạnh lòng nghĩ đến người chồng bạc phước đã chẳng được sống thêm để nhìn thấy sự thành công của đứa con gái ông yêu quý nhất đời.

Huyệt mộ cho cái tiểu sành đựng nắm xương của người cha bạc số của bác sĩ Vivian Le đã đào xong, nhỏ và nông nên đào rất nhanh.

Lần này nó không nằm trên gò đất chung quanh là sa mạc sỏi đá, cây cỏ hoang vu mà ở trong một nghĩa trang đẹp đẽ bên ngoài thành phố Nha Trang.

Khoảng 4 giờ chiều, mọi việc hoàn tất, bà Buôn, Lệ và hai đứa em của Lệ thắp hương, sụp quỳ, vái lậy, khấn khứa.

Lệ cố hết sức giữ cho khỏi quá xúc động nhưng khung ảnh trắng đen của cha Lệ trước mặt lúc nào cũng như đang nhìn Lệ âu yếm làm Lệ tràn nước mắt và cái ngày độc địa 23-3-1975, tại bãi biển Chu Lai, lại hiện rõ mồn một như Lệ đang đứng sát bên cha Lệ, bám vào tay ông cho khỏi sóng đánh ra xa.

Nỗi buồn năm xưa dù chưa quên được nhưng hiện tại vẫn là đáng sống. Mẹ con bà Buôn đành phải khép lại trang sử đẫm máu của gia đình và của xóm giềng, thân thuộc để xây dựng ngày mai tươi sáng hơn.

Lệ đã đưa tiền cho má và em đi chợ mua các thức ăn về làm một bữa cơm đãi đằng chòm xóm và những người thân thuộc, trả công hậu hỉnh cho những người cải táng hôm đó. Ai cũng tấm tắc khen sao lại có cái thần giao cách cảm đó để mà đến đúng chỗ, đúng lúc, gặp lại mẹ và em và nhìn được hài cốt của cha. Chuyện thực mà khó tin, xẩy ra như trong một giấc mơ.

Nhờ có nghề nghiệp cao và lợi tức vững vàng lại công dân Mỹ của Lệ, hơn hai năm sau bà Buôn và Tung, Bi đã đoàn tụ với Lệ ở Hoa Kỳ.

Bà Buôn lập một bàn thờ, một bên để di ảnh cuối cùng của thằng Chưởng khi nó 3 tuổi, một bên treo tấm thẻ bài, ở giữa bàn thờ là bát hương, có bài vị và di ảnh đen trắng của Trung sĩ Lê văn Buôn, người Chiến sĩ kiêu dũng VNCH đã hy sinh vì Tổ quốc, người chồng, người cha thân yêu vẫn luôn luôn như đang mỉm cười với vợ và các con!

Đây là câu chuyện thật mà người viết đã lấy từ bài viết “Tấm Thẻ Bài”

ST