Tuesday, July 27, 2021

Các căn cứ Thủy Quân Lục Chiến VNCH 1966

  

Hình ảnh thu thập từ bộ ảnh Frank Harris III Collection, US Marine Corps - trong bộ hình bao gồm Bộ Tư Lịnh TQLC ở Sài Gòn và Trung tâm Huấn Luyện gần Thủ Đức.
Vào năm 1966, chưa thành lập cấp Sư đoàn, Thủy Quân Lục Chiến VNCH, lúc đó còn là Lữ Đoàn TQLC, bao gồm 2 Chiến Đoàn A và B Thủy Quân Lục Chiến. Chiến Đoàn A hay còn gọi là Chiến Đoàn An Dương Vương, Chiến Đoàn B hay còn gọi là Chiến Đoàn Bắc Bình Vương. Bộ tư lệnh đặt tại trại Cửu Long, Thị Nghè.




 

Saturday, July 17, 2021

Chuyến xe tháng 5 (kỳ 3) - Vương Mộng Long

 

Lời giới thiệu: 

Tháng 5 năm 1975 chiến tranh đã hoàn toàn chấm dứt. Trên toàn cõi Việt-Nam không còn nghe bom nổ, không còn thấy đạn bay. Nhưng giữa tháng 5 năm 1975 cũng có những cựu chiến binh Việt-Nam Cộng-Hòa đã bị đem đi mất biệt, mãi mãi không về…

Tôi ghé phòng Y hỏi thăm một người đàn bà đang ngồi trước cửa,

– Chị ơi! Chị làm gì ở đây? Sao hôm nay phòng nào cũng trống không vậy chị? Bà con đi đâu hết rồi?

Người nữ quân nhân (hay công chức) trả lời,

– Tôi nhân viên của Ty Cảnh Sát tỉnh Bình-Thuận bị tập trung ở phòng Y. Hôm nay xe đã tới chở các ông, các ở mấy phòng khác đi sạch trơn. Cán bộ canh gác cũng lên xe đi hết, chỉ bốn người của Quân Khu 6 chúng tôi còn ở đây thôi anh ơi!

– Mấy người ở phòng “Zét” đi lúc nào vậy chị?

– Mấy ông phòng “Zét” tập trung từ sáng sớm, mãi tới hơn 3 giờ chiều họ mới bị còng tay đưa lên xe, chẳng biết đi đâu.

Phòng Y và phòng Z ở sát vách nhau, vậy mà cả tuần lễ sau tôi mới biết phòng Y chứa những người bị gọi tập trung theo lệnh của Quân Khu 6.

(Quân Khu 6 gồm các tỉnh Quảng Đức, Lâm Đồng, Ninh Thuận, Bình Thuận, Bình Tuy.)

Tôi cám ơn chị nữ công chức Việt-Nam Cộng-Hòa rồi lên văn phòng chính của trại để hỏi cho rõ sự tình. Ngay cửa vào, tôi chạm mặt một cán bộ người Nam.

Vừa nghe tôi xưng danh, hắn đã hét lên,

– Anh là Vương Mộng Long hả? Anh đi đâu mà giờ này mới vác mặt tới đây? Xe của Quân Khu 5 chờ anh cả nửa ngày mà không thấy anh, họ đã khởi hành rồi! Anh đúng là thằng phá hoại!

La hét xong, y quay vào trong ra lệnh,

– Ðồng chí trực trại đem thằng này đi nhốt cho tôi!  

Thế là tôi bị còng hai tay dẫn tới góc rào, tống vào cái điếm canh bỏ trống nằm đằng sau một cái lô cốt lớn bên phải cổng trại.

Tới 6 giờ chiều thì kẻng tan sở gióng lên. Mấy người bị quản thúc trong phòng Y lần lượt theo nhau đi ra cổng.

Trong khi đó tôi ngồi bên song sắt ngó ra ngoài. Tôi không biết những bạn bè cùng phòng Z của tôi đã bị đem đi đâu. Nhưng cứ nghĩ tới câu nói mà tên cán bộ người Hải Hưng đã nói với tôi: “Nếu anh mà bị đưa về Quân Khu 5 thì khó toàn mạng đó! Có trốn được thì trốn đi! Cố gắng kín miệng, đừng cho ai biết tôi đã nói với anh điều này!”

Tôi thấy số mình còn hên. Có khi phải bất đắc dĩ chạy xe ôm không công một ngày mà tôi đã được toàn mạng cũng nên.

Ðúng 6 giờ 5 phút, tên cán bộ đã ra lệnh nhốt tôi chợt đi xăm xăm tới cửa điếm canh,

– Anh đã cơm nước gì chưa? Nếu đói thì chờ đó! Chút nữa sẽ có người đem cơm cho anh ăn.

Chợt nhớ tới cái giấy chứng nhận của tên Việt-Cộng ở Tòa Ðô Chánh, tôi nói với tên cán bộ,

– Hôm nay tôi tới trễ là có lý do! Cán bộ hãy mở còng tay để tôi lấy bằng cớ cho cán bộ coi.

Ðọc xong những chữ viết và săm soi kỹ cái dấu mộc đỏ, y gật gù,

– Tôi sẽ giữ cái giấy chứng nhận này. Bây giờ tôi cho phép anh về. Sáng mai đúng 8 giờ anh phải tới trình diện tôi trong phòng trực. 

Năm phút sau tôi ra tới cổng, chị Bền đang chờ tôi, mặt chị không giấu nổi nỗi âu lo,

– Chuyện gì vậy chú?

Tôi vắn tắt kể cho chị biết lý do vì sao tôi tới trễ và lặp lại những lời người nữ Cảnh Sát tỉnh Phan-Thiết đã nói với tôi cho chị nghe.

Ngày 21 tháng 5 tôi gửi xe sau quán của chị Bền rồi vào văn phòng chính của trại. Ở đây đã có bốn người, ba nam, một nữ của phòng Y ngồi chờ sẵn.

Năm chúng tôi là những người còn sót lại sau cùng của đợt tập trung ngày 11 tháng 5 năm 1975 của Ủy Ban Quân-Quản Thành Phố Sài-Gòn, Gia-Ðịnh.

Sau này tôi mới hay, hôm qua, 20 tháng 5 là thời hạn chót để các đơn vị địa phương tới tiếp nhận người.

9 giờ sáng chúng tôi được lệnh lên xe. Tôi lựa một chỗ ngồi bên trái, đằng sau xe để khi ra tới đường Lê Văn Duyệt tôi có thể vẫy tay báo hiệu cho chị Bền.

Xe vừa ra tới cổng, tôi đã thấy chị Bền và đứa con gái lớn của chị đứng bên lề vẫy tay. Tôi chắc mẩm rằng, thế nào chiều nay gia đình tôi cũng sẽ nhận được tin tôi bị đưa đi xa rồi.

Chúng tôi được chở đi quanh co một hồi rồi đậu trước khám đường Chí -Hòa.

Tên cán bộ trưởng toán ra lệnh cho chúng tôi xuống xe rồi dẫn chúng tôi đi vòng vòng một lúc sau thì chui vào một cái sân cỏ nhỏ. Y bảo chúng tôi đứng chờ nơi sát cổng, còn y thì ôm một tập hồ sơ đi vào phòng trực.

Tôi thấy dưới hiên một dãy nhà có vài người đứng chen chúc nhau. Trong số những người đang đứng lố nhố đó, tôi nhìn mặt được ba ông Biệt Ðộng Quân là Hồ Văn Hòa, Lương Ðình Chi và Nguyễn Hiệp. Tôi giơ tay vẫy họ, họ vẫn tỉnh bơ, có lẽ họ không nhận ra tôi.

Sau mười phút đợi chờ, tên cán bộ trưởng đoàn hối hả đi ra, y ngoắc tay cho chúng tôi đi theo.

Tới xe, y lớn tiếng nói với tên Việt-Cộng tài xế,

– Hết chỗ rồi! Chúng nó không nhận! Mình đi Quang Trung!

Xe nổ máy chạy ra ngoại ô Sài-Gòn, hướng về Trung Tâm Huấn Luyện Quang-Trung.

Tới cổng Trung Tâm Huấn Luyện Quang-Trung tên cán bộ trưởng đoàn lại lếch thếch ôm cái cặp đi vào.

Lần này chúng tôi không được xuống đất, mà phải ngồi yên tại chỗ.  

Mười phút sau thằng Việt-Cộng lại đi ra, lại ban lệnh cho thằng tài xế,

– Hết chỗ rồi! Chúng nó không nhận! Mình về Hoa Lư!

Trưa hôm đó chiếc GMC chở chúng tôi ngừng bánh trước một tòa nhà khá lớn nằm đối diện với sân vận động Hoa Lư trên đường Ðinh Tiên Hoàng. Vị trí này là cơ ngơi của một bộ gì đó tôi không nhớ, nay là chỗ đóng quân tạm thời của một đơn vị trực thuộc Quân Khu 7 Cộng-Sản. Trước sân có vài chiếc xe quân sự đang đậu.

Tên cán bộ dẫn giải ôm cặp hồ sơ đi vào cổng, mười phút sau lại đi ra.

Lần này y cho chúng tôi xuống xe. Chỉ tay về hướng căn phòng cuối dãy nhà, y ra lệnh,

– Các anh chị vào nghỉ trong đó, chờ phương tiện đi Quân Khu Ngoài!

Tôi nghĩ: “Quân Khu Ngoài chắc là Quân Khu 5 và Quân Khu 6”

Ngay khi đó, hai cán bộ Việt-Cộng khác từ sau khu dinh thự tiến ra vẫy tay gọi tên trưởng toán dẫn giải; rồi cả ba chụm đầu vào nhau bàn tán.

Mấy phút sau, ba tên này vừa nhìn về phía chúng tôi vừa viết viết, ký ký cái gì đó trên một mảnh giấy.

Cuối cùng, một thằng già Nghệ-Tĩnh bước tới trước mặt chúng tôi. Y hắng giọng “khạc! khạc!” vài ba cái rồi nói,

– Tôi đã ký nhận danh sách của các anh chị. Các anh các chị cứ ở tạm đây. Hôm nào có người ở Quân Khu Ngoài vào nhận, tôi sẽ cho các anh các chị đi. Bây giờ các anh các chị có thể về nhà, sáng mai đúng 8 giờ phải có mặt ngay chỗ này!

Nghe được câu này, tôi khoan khoái thở ra: “Thế là chưa sao! Chưa sao!”

Xế chiều, tôi mò về tới quán của chị Bền. Tôi kể cho chị hay diễn biến chuyện đã xảy ra trong ngày. Chị gật gật đầu,

– Như vậy chú còn hên hơn anh Bền! Không rõ giờ này anh Bền ở đâu? Chắc không lâu nữa chú sẽ bị chở đi gặp anh Bền. Gặp anh Bền, chú nhớ nói với anh ấy rằng, vợ con anh ấy suốt ngày cầu Trời Phật phù hộ, độ trì cho anh ấy. Vợ con anh ấy vẫn mong đợi từng ngày để gặp lại anh ấy!

Chị Bền đưa hai bàn tay lên vuốt mặt, nước mắt đã rơi, chị tôi không nói thêm được lời nào nữa…

Hôm đó tôi về tới nhà sớm hơn mọi ngày. Vợ chồng con cái chở nhau trên chiếc Honda đi quanh phố một vòng mà thấy trong lòng thật là vui, quên hết muộn phiền, lo âu.

Từ ngày 22 tháng 5 tôi không còn dùng Honda để làm phương tiện di chuyển nữa; tôi tới sân vận động Hoa Lư theo hai tuyến đường xe Lamb. Vì nếu tôi tiếp tục dùng Honda mà bất chợt người ta bắt tôi đi, thì gia đình tôi làm sao hay biết mà đi tìm xe? Vả lại cái sổ chủ quyền của chiếc xe lúc nào cũng phải nằm trong túi người lái nó. Lái xe mà không có sổ chủ quyền, gặp các trạm kiểm soát giao thông thì xe sẽ bị tịch thu ngay. Người nhà có tìm ra xe mà không có sổ chủ quyền thì cũng bó tay. Trong thời gian gửi xe ở quán cháo lòng của vợ anh Bền, tôi cũng gửi chị Bền cái sổ chủ quyền chiếc Honda của tôi.

Ðược cái là vấn đề kiểm soát giờ giấc của bọn Việt-Cộng này cũng rất dễ dãi, không chút khắt khe. Chúng tôi có tới trễ, tới muộn nửa giờ, một giờ, cũng không ai làm khó dễ gì.

Hàng ngày chúng tôi chỉ cần có mặt ký tên trên sổ điểm danh một lần, rồi muốn đi đâu thì đi, lâu lâu lại tạt về phòng cho có mặt.

Gần tới cuối tháng chúng tôi có thêm hai ông bạn mới. Hai ông này là hai ông thiếu tá khóa 10 Ðà Lạt; một ông làm Trưởng ty Cảnh-Sát, một ông làm Trưởng ty Chiêu-Hồi. Chẳng rõ các ông này do cơ quan nào mang tới gửi ở đây. Chắc hai vị này cũng là những người đang chờ bị bốc đi như chúng tôi.

Mãi hai ngày sau tôi mới biết ông Trưởng ty Cảnh-Sát tên là Nguyễn Hồ Ðịch, còn ông Trưởng ty Chiêu-Hồi tên là Trần Hướng Trung.

Một buổi trưa tôi rủ hai ông đàn anh Võ-Bị tản bộ ra ngã tư ăn bún bò. Khi chúng tôi quay về thì thấy bốn người Quân Khu 6 đang tụ họp trong văn phòng để làm việc gì đó. Lúc trở ra mặt người nào người nấy đều có vẻ tươi vui. Chúng tôi đang chuẩn bị đi về, nên không kịp hỏi han xem có chuyện gì đã xảy ra. Sáng hôm sau thì bốn người bạn này không xuất hiện nữa.

Thấm thoát đã qua đầu tháng 6, qua tin truyền đi trên Truyền Thanh và Truyền Hình thì Ủy Ban Quân Quản Thành Phố đã ra thông cáo rằng sĩ quan cấp thiếu tá trở lên sẽ phải trình diện đi học tập cải tạo tại vài địa điểm trong Sài-Gòn.

Tên Việt- Cộng thường ngồi nhận chữ ký hằng ngày của chúng tôi cho chúng tôi biết rằng từ nay Quân Khu 7 sẽ không cho phép các Quân Khu khác tới nhận người nữa. Như thế là chúng tôi không còn phải lo lắng chuyện sẽ bị chuyển giao cho các Quân Khu Ngoài.

Y nói, chúng tôi chỉ cần có mặt ở đây vào ngày các lớp học tập khai giảng thì đơn vị này sẽ cung cấp phương tiện để đưa chúng tôi tới trường, tới lớp. Y nhắc nhở chúng tôi nhớ chuẩn bị đem theo áo quần cùng những vật dụng cần thiết như kem đánh răng, bàn chải để tiện dùng trong thời gian một tháng học tập xa nhà.

Cũng từ ấy, chúng tôi có thể chia phiên nhau, một người có mặt, hai người kia ở nhà. Ba chúng tôi đều biết địa chỉ của nhau. Do đó, người trực có thể đi kêu hai người kia nếu có chuyện gì cần gấp.

Tên cán bộ quản chế cho chúng tôi biết rằng các trung tâm sẽ nhận người đăng ký từ ngày 13 tới 15 tháng 6 năm 1975. Chúng tôi sẽ được chở tới trung tâm vào ngày cuối, tức là 15 tháng 6 để khỏi phải chờ lâu tại trung tâm trước khi tới địa điểm học tập.

Ðúng 12 giờ trưa ngày 15 tháng 6 năm 1975 tôi và hai ông đàn anh được đưa lên xe để di chuyển tới các trung tâm tiếp nhận.

Xe chạy thẳng một lèo tới Trường Trung Học Lasan Taberd thì ngừng, tôi bị gọi xuống. Tên cán bộ hướng dẫn đem tôi vào văn phòng của trường, giao nạp tôi cho một sĩ quan Cộng-Sản.

Cầm cái biên nhận tù binh, tên cán bộ dẫn giải bắt tay tôi rồi nói,

– Mừng anh! Chúc anh học tập tốt, lao động tốt để sớm về sum họp với gia đình.

Sau đó tôi được một tên bộ đội dẫn lên lầu để nhập bọn cùng vài sĩ quan cấp thiếu tá đã trình diện sáng nay; vì vậy tôi không rõ hai ông thiếu tá khóa đàn anh của tôi bị đưa tới trung tâm nào. Mãi tới sáu năm sau, 1981 tôi mới gặp lại hai vị này ở Trại Z30C Hàm-Tân, Thuận-Hải.

Từ 15 tháng 6 năm 1975 tôi bắt đầu một chuyến đi xa dài ngày…

Nửa năm đầu, từ tháng 6 năm 1975 tới giữa tháng 10 năm 1975 tôi bị giam tại trại Long-Giao. Qua một tháng sống đời tù đày, tôi bắt đầu có ý định vượt ngục. Tôi đã bàn chuyện trốn trại cùng hai ông thiếu tá cựu quận trưởng, nhưng giờ chót hai ông này thối chí, nên tôi đành phải huỷ bỏ mưu đồ.

Nửa năm kế đó tôi bị chuyển về trại giam Suối Máu, Tam-Hiệp, Biên-Hòa, chờ ngày bị đưa ra Bắc.

Hai tuần lễ sau ngày bị đưa ra đất Bắc, nửa đêm 8 tháng 8 năm 1976, tôi vượt ngục lần đầu. Trải qua mười ngày lặn lội trong rừng dưới cơn bão số 6, tôi và người bạn đồng hành bị bắt lại, bị cùm, bị đánh đập, khảo tra, rồi được cho về Ðội 11, Trại 4, Liên Trại 4 để tiếp tục lao động.

Một hôm trời giăng giăng mưa phùn, tôi và bạn tù đi cấy lúa vần công cho Thôn Nam Xã Cẩm-Nhân, Yên-Bình, Yên-Bái thì thấy hai ông tù cải tạo khiêng một cái võng có người nằm bên trong.

Cái võng được phủ bằng chiếc mền Trung Cộng màu đỏ. Theo sau cái võng là một ông tù đeo cái balô, có lẽ trong balô là tài sản của người nằm trên võng.

Có một vệ binh Việt-Cộng đeo AK đi canh chừng đằng sau ông tù đeo balô. Chắc mấy người này đang đưa một ông tù bệnh nặng lên bệnh xá của liên trại để chữa trị.

Tôi ngừng tay cấy, lớn tiếng hỏi,

– Ê! Ai đó? Các cha?

Ông tù mang ba lô liền lớn tiếng đáp lời,

– Tước! Tước rằn ri!

– Phải Nguyễn Ðỗ Tước Biệt Ðộng Quân không?

– Ðúng rồi!

– Bệnh gì vậy?

– Kiết lỵ!

Chiều hôm đó cái võng lại quay về, vẫn có chiếc mền đỏ Trung Cộng phủ bên trên.

Tôi lại hỏi,

– Hết bệnh chưa?

Ông tù mang ba lô lại đáp lời,

– Chết rồi!

Tôi chỉ còn biết ngậm ngùi đứng nhìn theo bóng chiếc mền đỏ đi xa dần về hướng Trại 8 nơi Ðèo Lũng Ngàn.

Ngày xưa, trước tôi, Trung tá Nguyễn Ðỗ Tước đã là Tiểu đoàn trưởng Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân ở Pleime.

Tết Dương Lịch 1978 vừa đi qua thì tôi vượt ngục lần thứ hai. Sau hai tháng lặn lội trong rừng, chưa vượt khỏi biên giới Việt-Lào, tôi lại bị bắt.

Thất bại lần này, qua những trận khảo đả dã man của kẻ thù mà tôi không thành người tàn phế cũng là nhờ phúc đức ông bà đã che chở cho tôi.

Năm 1981 tôi bị chuyển trại về Nam, trại tù mới có tên Z30C Hàm-Tân, Thuận Hải.

Rồi một sớm tinh mơ cuối năm 1984 tôi vượt ngục lần thứ ba.

(còn tiếp)

Tuesday, July 13, 2021

Những Giọt Lệ Khô. 13.07.2021 Út Bạch Lan

Không biết có phải vì ảnh hưởng của bão Elsa đang đổ bộ Florida hay không mà Houston mưa tầm mưa tã liên tục suốt mười ngày qua. Mưa, mưa rơi từng đêm, mưa triền miên như thầm khóc cho một người vừa mới ra đi, một người mang nặng kiếp sống chinh nhân nhưng luôn dệt mơ ước ngày nao quê hương không còn màu cờ máu.

Người đã đi, người đã đi rồi.
Ngày 11 Tháng 7 Năm 2021


Tôi vừa rời nhà quàn Vĩnh Phước để chào lần cuối Niên Trưởng Cựu Chuẩn Tướng Mạch Văn Trường, nguyên Tư Lệnh Sư Đoàn 21 BB, trước khi đưa quan tài vào phòng hỏa táng. Chưa về đến nhà thì nhận được text của Chị Phúc, phu nhân của Niên Trưởng Trần Công Hạnh, nguyên là Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng TĐ2ND ” Khóa 20 VBQGVN ” Anh đã trút hơi thở cuối cùng vào lúc 3giờ30″.

Tôi bật khóc nhưng chẳng còn giọt lệ nào để khóc. Tiếng khóc thầm khô khốc như nắng gió Hạ Lào tức nghẹn ở cổ họng, không như tiếng khóc ràn rụa khi Anh ôm chầm lấy tôi ở căn cứ Khe Sanh Lao Bảo trong mặt trận Nam Lào Lam Sơn 719 năm 1971. Anh đã rời bỏ căn cứ 30 và dẫm chạy trên xác chết của quân thù lẫn quân bạn để vượt thoát về phía nam con đường số 9, rồi về căn cứ của Bộ Tư Lệnh Tiền Phương của SĐ Nhảy Dù ở Khe Sanh với bộ quân phục hoa rừng của quân nhu giờ đã trở thành bộ đồ huyết của nhảy dù Pháp còn bốc mùi máu tươi lẫn máu khô của đồng đội. Tôi móc bi đông mở nắp, đưa anh vài hớp black and white rồi hai anh em ngồi bẹp dưới bóng râm của cây sao rừng hơn trăm tuổi. Anh nhìn bâng quơ vào một khoảng trời mông mênh nào đó, thỉnh thoảng lắc đầu thở dài dấu đi nỗi chua xót lẫn kinh hoàng như người vừa về từ địa ngục hay nói đúng hơn từ cõi chết. Thật vậy, Anh không nghĩ rằng anh vẫn còn sống khi phải vượt qua một vòng vây trùng trùng điệp điệp quân thù khát máu, như Triệu Tử Long thoát khỏi bàn tay của quân Tào Tháo.

Tôi không còn nhớ đã bao nhiêu lần, vì đã quá nhiều lần làm sao nhớ hết, tôi cùng Anh, Sông Lô, Phạm Như Đà Lạt, Phan Nhật Nam, Tô Phạm Liệu ngất ngưỡng anh hùng lương sơn bạc bên cạnh vài ba chai martell medaillon cạn đáy tới giọt rượu cuối cùng. Có một lần gần tới bến, Tubip Liệu đổ rượu vào chiếc giày bốt đờ sô rồi thay vì nâng ly thì nâng giày nốc cạn như Kiều Phong nốc cạn bầu rượu cùng hai đệ kết nghĩa Đoàn Dự và Hư Trúc, trong khi Sông Lô lọ rượu thì nghêu ngao ngâm bài thơ Hồ Trường lộn đầu lộn đuôi nhớ tới đâu ngâm tới với giọng lè nhè.

Ta biết rót về đâu?
Rót về Đông phương, nước biển Đông chảy xiết sinh cuồng loạn
Rót về Tây phương, mưa phương Tây từng trận chứa chan
Rót về Bắc Phương, ngọn Bắc phong vi vút cát chạy đá giương
Rót về Nam phương, trời Nam mù mịt có người quá chén như điên như cuồng
Nào ai tỉnh, nào ai say
Lòng ta ta biết, chí ta ta hay
Nam nhi sự nghiệp ư hồ thỉ
Hà tất cùng sầu đối cỏ cây

Tới đây thì Sông Lô dừng lại vì quên mẹ nó đi rồi, Phan Nhật Nam đở tiếp:

Chí chưa thành, danh chưa đạt
Trai trẻ bao lăm mà đầu bạc
Trăm năm thân thế bóng tà dương
Vỗ gươm mà hát
Nghiêng bầu mà hỏi
Trời đất mang mang ai người tri kỷ
Lại đây cùng ta cạn một hồ trường
Hồ trường! Hồ trường!


Bên cạnh đó Trần Công Hạnh dùng đũa gõ tô gõ chén thay trống, Phạm Như Đà Lạt mắt liêm diêm “anh không chết đâu anh người anh hùng mũ đỏ…lưu linh”.

Và cũng mới đây thôi, chỉ có khoảng hơn 10 ngày, từ ngày 25/6/2021 đến 29/6/2021, Anh Chị Trần Công Hạnh về Houston để tìm mua một căn nhà mới ở Houston. Suốt năm (5) ngày liên tiếp Anh ngồi bên bàn rượu với hơn 10 anh chị em của Gia Đình Bến Cũ từ Virginia, Atlanta, Louisiana cùng về Houston để gặp mặt Anh cạn bầu tâm sự. Bầu tâm sự chưa cạn mà cạn sạch hết ba kết Cordon Bleu 36 chai!

Út Bạch Lan
Houston Ngày 12 Tháng 7 Năm 2021Tiếc Thương
https://www.youtube.com/watch?v=otzrR5h8_uw

CHÀO TAY MŨ ĐỎ
Nghe hung tin lòng rung lên cảm xúc
Một cánh dù vừa lạc hướng bay
Đất lương sơn một ghế ngồi trống chỗ
Đệ huynh còn sao người nỡ đi xa
Những cuộc rượu bên trời một lứa
Những bi ai dốc cạn hồ trường
Những ngựa hồ còn mơ gió bắc
Từ nay chiếu rượu vắng hương nồng
Người hào sảng như Lương Sơn thủy bạc
Muốn chống gươm hành đạo thế thiên
Chỉ tiếc là bàn cờ chiến quốc
Lại trong tay những kẻ vô lương
Thân chốt thí sang sông tức tưởi
Chưa đánh phải hàng hận man man
Đất tạm dung tha hương gặp lại
Là đệ huynh chan chứa tình đầy
Vẫn cứ ngỡ
Tương lai còn rạng rỡ
Sẽ có ngày quang phục quê hương
Mộng chưa thành vẫn mơ về bến cũ
Tắm lại sông xưa một thuở thanh bình
Hỡi ơi!
Sao đi không biệt
Từ nay vắng bóng huynh rồi
Con ngựa chiến thành Troy bất tử
Tiểu đoàn hai mũ đỏ lừng danh
Người đã sống một đời lính trận
Đã tự nguyền da ngựa bọc thây
Đã đi qua những đoạn đường chinh chiến
Khói lửa tràn lan đất nước mù
Trong chiến trận bao lần chia lửa
Là bao lần chiến thắng đối phương
Gót giày saut lấm lem bùn đất
Nhưng không lấm cánh dù
Giữa trời đất mênh mông.
Anh em xa hay gần vẫn biết
Trần gian này biến ảo khôn lường
Công không tính bạc vàng không chuộng
Hạnh đức mới là mối nghiệp duyên
Anh đã sống trọn đời tâm huyết
Với anh em chiến hữu trước sau
Vẫn như một “không hai đâu nhé”
Anh đã cười cười nói thế nhớ không.
Trời chưa Thu mà lá vàng đã rụng
Cho hoa dù nương gió rơi theo
Chiếc ghế trống đồi Lương Sơn còn đó
Chỉ thiếu anh TRẦN CÔNG HẠNH vẹn toàn.
Ở rất xa, xa nơi anh nằm xuống
Chào tay này kính tiễn một quân nhân
Về với cõi vô cùng không ai biết
Sẽ vô ưu thanh thản với vĩnh hằng.
Bến cũ Túy Lúy
 

FB Đặng M Tâm

HẬU DUỆ VNCH RẠNG DANH ĐẤT TEXAS

 

Giới thiệu gương thành công của Nguyễn Thị Bích Yến, một Quốc Gia Nghĩa Tử VNCH.
Đại Úy Nguyễn Khắc Thi, sinh trưởng tại huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị, nơi có bà mẹ có con trai bị giặc cắt đầu đêm trước, để tở mờ sáng hôm sau đã “nghẹn ngào không nói một câu, đem khăn gói đi lấy đầu”. Trước ngày nhập ngũ, Nguyễn Khắc Thi phục vụ trong ngành công an của chính phủ Quốc Gia Việt Nam. Anh bị Việt Minh phục kích giết hụt nhiều lần. Lần nghiêm trọng nhất là anh bị chúng dùng mã tấu chặt phía sau ót tưởng đã mất mạng, để lại một vết sẹo sâu và dài. Sau khi hồi phục, anh liền tình nguyện vào khóa 10 trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt (tiền thân của trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam). Ra trường vào ngày 1 tháng 6 năm 1954, với một vạch kim tuyến vàng trên vai áo, Thiếu Úy Thi được thuyên chuyển phục vụ nhiều đơn vị trước khi về làm Đại đội trưởng Đại đội Trọng pháo 44 đóng tại Dục Mỹ khoảng năm 1960 (có lẽ là tiền thân của Tiểu đoàn Pháo Binh thuộc Sư Đoàn 23 Bộ Binh, vì lúc đó, Đại Tá Hoàng Xuân Lãm đang là Tư Lịnh Sư Đoàn 23 BB tại Ban Mê Thuột).
Đường binh nghiệp của anh Thi không được suông sẻ lắm, nên cho đến gần cuối năm 1964, anh vẫn còn mang cấp Trung Úy, dù đã chuyển qua binh chủng Lực Lượng Đặc Biệt ưu tú, đầy hào hùng. Anh làm Trưởng một trại LLĐB cấp A tại vùng biên giới thuộc Quân Khu 4.
Trong một trận đánh và bị địch phục kích, Trung Úy Thi bị đạn vào đùi trên, nơi có các động mạch lớn và khó thể cầm máu. Trong khi chờ đợi tải thương, do máu ra nhiều, Trung Úy Nguyễn Khắc Thi đã trút hơi thở cuối cùng, hy sinh đền nợ nước. Anh để lại một vợ trẻ, và một bầy con bảy cháu mà cháu lớn tuổi chỉ mười ba; cháu út vừa sinh chưa thấy mặt cha.
Người góa phụ, Đỗ Thị Bích Nhạn, tuổi chưa đến 30, bao năm vò võ thay chồng chăm sóc đàn con. Vì anh đi chiến trận nay đây mai đó, chị phải thuê căn nhà xập xệ trong một hẻm nhỏ lầy lội trên đường Trương Minh Giảng, Sài Gòn để ở. Lương nhà binh không đủ cho bản thân, nói chi đến gia đình đông đúc. Vì thế, chị phải xuôi ngược, mở quán, làm thêm thức ăn bỏ mối để lo cho các con.
Sau khi anh hy sinh, gia đình hoàn toàn lâm vào cảnh cùng khốn. Nhưng chị quyết không để sự hy sinh của anh thành uổng phí. Chị đã tiếp tục làm ăn khổ cực, quyết cho các con tiếp tục ăn học. Được Quân Đội cung cấp một chiếc C-47 đưa thi hài anh về quê quán tại làng Lễ Môn, quận Gio Linh chôn cất chu đáo xong, chị lăn xả ngay vào cuộc sống mới. Vừa lo sinh kế, vừa để khuây khỏa nỗi mất mát lớn lao.
Năm 1965, chị được Bộ Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt giúp đỡ cho thầu Câu Lạc Bộ tại Trung Tâm Huấn Luyện Động Ba Thìn (dưới quyền Thiếu Tá Phạm Duy Tất, sau này là Đại tá Chỉ Huy Trưởng C2, rồi BĐQ vùng 2). Gia đình được cấp một căn trong Cư Xá Lê Văn Duyệt gần Bộ Tư Lệnh LLĐB tại Nha Trang. Căn bên cạnh dành cho các chị Nữ Trợ Tá Xã Hội LLĐB. Vì thế, các cháu phần nào cũng được sự săn sóc của các chị Trung Uý Nguyễn Hồng Đào, các Trung Sĩ Phan Thị Liên, Nguyễn Thị Nương, chị Thạch… Chị làm đủ nghề, ngay cả việc nhận giặt áo quần cho binh sĩ Hoa Kỳ thuộc Liên Đoàn 5 LLĐB.
Cháu đầu lòng, Nguyễn Thị Bích Yến, từ đây thay mẹ chăm sóc đàn em nheo nhóc. Có nhiều ngày, bảy chị em chỉ lót lòng chén cơm nguội chan nước mắm để đi học. Nhưng sớm ý thức hoàn cảnh của mình, nên các cháu đều chăm lo học hành.
Ba chị em đầu được nhận vào trường Trung Học Quốc Gia Nghĩa Tử tại Sài Gòn. Dù trong thời kỳ chiến tranh tàn khốc, khó khăn về kinh viện, sự săn sóc của chính phủ và Quân đội VNCH có thể nói là rất chu đáo để đến đáp lại sự hy sinh cao quý của người quân nhân.
Năm 1972, người góa phụ đảm đang đã cố gắng làm thêm việc kiếm thêm tiền, hy sinh hạnh phúc của mình để lo cho Bích Yến đi du học tại Hoa Kỳ.
Bích Yến tốt nghiệp trường Đại Học Texas tại Austin, là một trong 10 trường đại học công lập nổi tiếng nhất tại Mỹ. Cô nhận văn bằng Kỹ sư Hóa Học năm 1977 và khởi nghiệp là công chức của City of Austin. Sau đó, cô được hãng Motorola thu dụng và làm việc tại đây cho đến ngày nay.
Ngay từ năm 1980, Bích Yến đã được công nhận về những phát minh trong kỹ thuật bán dẫn CMOS (complementary metal oxide semiconductor) cho các sản phẩm IC (integrated circuit) tiên tiến. Cô có nhiều công lớn trong việc chuyển các phát minh ra ứng dụng trong sản xuất, mà đã tạo cho Motorola một thế đứng rất cao trong việc cạnh tranh về kỹ thuật với các hãng lớn khác. Từ những năm cuối thế kỷ 20, Bích Yến đã là một trong những chuyên viên thượng thặng của hãng. Cô lãnh đạo một nhóm chuyên viên của bốn phòng nghiên cứu thí nghiệm để phát triển các thành phẩm mới trong lãnh vực áp dụng kỹ thuật cấp nano (tức 1 phần ngàn của micro). Tổng cộng, Bích yến có trên 100 bằng sáng chế, va nhiều bằng sáng chế đang được cứu xét. Bích yến cũng được mời di thuyết trình về kỹ thuật bán dẫn CMOS hiện tại và trong tương lai tại các trường đại học và các hội nghị tại nhiều quốc gia.
Với những thành tựu đó, Bích Yến đã được các vinh danh và phần thưởng như sau:
 • Được đề nghị là Nữ Kỹ sư xuất sắc trong hai năm 1987 và 1989 (Nominations for the Woman Engineer of the Year)
• Là nữ chuyên gia đầu tiên của Motorola/Freescale nhận giải Sáng Chế Xuất Sắc (Distinguished Innovation award in 1991 and Master of Innovation in 1993).
• Được bầu vào Hội Đồng Cố Vấn Khoa Học từ năm 1992. (Motorola Science Advisory Board Associate (SABA).
• Recipient of the High Impact Technology Award in 1997.
Năm 2001, cô được trao giải cao nhất của hãng. Đó là giải Dan Noble Fellow.
Qua năm 2004, cô được chọn để trao giải Woman of Color Technology Award.
Nhưng trên tất cả những thành tựu trong nghề nghiệp, Nguyễn Bích Yến đã thành công trong việc lo cho me, các em gái và em trai vừa vượt biển, vừa theo chương trình đoàn tụ để cùng nhau đến bến bờ tự do cũng như tạo mọi điều kiện vật chất, khích lệ tinh thần cho các em tiếp tục học hành thành đạt.
Đối với Cộng Đồng, Bích Yến cùng chồng là Kỹ sư Trần Ziệp có nhiều đóng góp cho các chương trình trợ giúp những người Việt mới định cư. Cô rất sốt sằng tham gia vào nhiều công tác của các hội đoàn, nhất là các hội đoàn thiện nguyện của Phụ Nữ. Năm 1999, Ban Chấp Hành Cộng Đồng Austin đã ghi công của cô qua việc trao tặng bằng tuyên dương cá nhân xuất sắc. Vừa qua, Bích yến đã được Tạp Chí Phụ Nữ Cali phỏng vấn, giới thiệu.
Bích Yến là một tấm gương rất tốt cho các em thế hệ 1.5 và thế hệ 2; nhất là đối với các con em của các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh. Vì chắc chắn, nơi suối vàng, vong linh các anh hùng tử sĩ cũng hãnh diện và an lòng rằng sự hy sinh của họ cũng có nhiều ý nghĩa.
Nhân ngày Father Day năm nay, chúng tôi xin giới thiệu gương thành công của Nguyễn Thị Bích Yến làm quà kính tặng các bậc làm cha, nói chung; và các chiến sĩ VNCH nói riêng và ước mong các em, các cháu thế hệ 1.5, thế hệ 2 sẽ nghĩ đến cha anh mình mà luôn thăng tiến, thành đạt để góp sức trong cuộc đấu tranh cho tự do dân chủ sớm vãn hồi trên quê hương.
Và cũng xin dành kính tặng các cựu SVSQ Khóa 10 Trần Bình Trọng, nhân kỷ niệm 55 năm ngày quý anh mãn khóa (1/6/1954 – 1/6/2009) để tưởng nhớ đến một đồng môn của quý anh: cố Đại Úy Nguyễn Khắc Thi.
Đỗ Văn Phúc.