Saturday, April 12, 2025

30 Tháng 4 - Các Lữ Đoàn Nhảy Dù VNCH chiến đấu trong những tháng cuối cùng! Trung Tá Lê Minh Ngọc – Thiếu Tá Nguyễn Đức Tâm

Lính Nhảy Dù ngày 29 tháng 41975 đang giữ thủ đô Sài Gòn!

Cuộc chiến đã chấm dứt ngày 30 tháng 4, 1975. Sau đó những người ra hải ngoại viết sách, viết báo theo lời kể hay suy diễn theo cảm hứng, thiếu nghiên cứu và không đúng với sự thực chiến trường, nhất là khi ghi lại những ngày cuối cùng cuộc chiến Việt Nam, ở đó khó tìm kiếm vì không ai ghi lại trong buổi giao thời. Trong đó có một cuốn sách mà nhiều người dùng làm tài liệu “Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên” của ký giả chiến trường Phạm Huấn viết về một dơn vị thiện chiến Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù (LĐ3ND). Rất may, được Trung Tá Lê Minh Ngọc, sĩ quan xuất thân khóa 16 trường Võ Bị Đà Lạt, Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 2 Nhảy Dù và Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 4 nhảy dù đánh chánh để làm sáng tỏ nhiều vấn đề.

Hàng năm, cứ mỗi độ tháng Tư về, là thiên hạ lại thấy xuất hiện trên báo chí và báo mạng, những tin tức hình ảnh liên quan đến biến cố tháng Tư năm 1975. Năm nay, cuốn “Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên” của tác giả Phạm Huấn bỗng được thấy đặc biệt được chiếu cố, khai thác đều trên các trang mạng. Và tên tuổi Phạm Huấn được đặc biệt nhắc nhở, đề cao. Một nét đặc biệt hơn nữa: đến những chữ nghĩa trong cuốn “Đại Thắng Mùa Xuân” của răng-đen-mã-tấu Văn Tiến Dũng, cũng được trang trọng trưng bày, xen kẻ với chữ nghĩa của ký giả Phạm Huấn! Lý do tại sao, xin dành quyền thẩm định phê phán khách quan lại cho quý độc giả, sau khi đọc xong bài viết nhỏ bé này.

Khoan thai mà nhận diện tin tức, chúng ta thấy có hai phần khác nhau:

Phần 1: Là những trích dẫn từ ngay trong chính cuốn “Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên” của tác giả Phạm Huấn. Và phần 2: Là những bài viết khác, nhưng cũng nhằm vào một hướng: mạt sát Miền Nam Việt Nam ngày trước!

Hãy bắt đầu bằng những trích dẫn từ ngay trong cuốn “Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên”.

Trong phần này, trên nhiều mạng Internet, thấy có trích ra nhiều đoạn, mô tả nhiều diễn tiến dồn dập, ào ạt, nóng bỏng. Trong dòng diễn tiến cuồn cuộn đó, có một đoạn trích dẫn “bắt mắt” tôi nhất. Bắt mắt tôi, vì cường độ chữ nghĩa của tác giả cũng có, và vì giá trị xác tín của nguồn tin cũng có.

Xin chép lại nguyên văn đoạn này:

“Lữ đoàn 3 Nhảy Dù tăng phái cho Mặt trận Khánh Dương, buông súng trưa ngày 1/4/1975, sau khi vỡ tuyến, bị tràn ngập, và không còn được tiếp tế, liên lạc được với quân đoàn II. Lữ Đoàn 3 Nhẩy Dù bị tổn thất 70% lực lượng. Đó là thực trạng và tinh thần chiến đấu của các đơn vị chủ lực Quân Đoàn II, và Lữ Đoàn 3 Nhẩy Dù trong những ngày sau cùng trên chiến trường Cao Nguyên, Pleiku, Kontum, Nha Trang: Chưa đánh đã bỏ chạy! Đúng!”…

Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù bổ sung quân số những ngày cuối cùng cuộc chiến (30/04/1975)

Nếu là “người dưng nước lã”, đọc thoáng qua, chắc tôi cũng chỉ dững dưng đọc tiếp. Nhưng riêng tôi, không là người dưng nước lã với Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù (LĐ3ND). Tôi đã có những tháng năm phục vụ trong đơn vị này. Sự thật không phải như vậy. Hoàn toàn không!

Nhân đây, tôi cố gắng trình bày lại, hầu quý độc giả, tất cả những diễn tiến, mà các đơn vị Nhảy Dù Việt Nam Cộng Hòa có tham dự trong những tháng ngày cuối cùng của cuộc chiến. Trước khi mổ xẻ đoạn văn của Phạm Huấn trên đây, tôi xin thưa trước một điều.

Vì nhu cầu trình bày mạch lạc tin tức dữ kiện, để Quý Vị dễ theo dõi, sẽ có đôi lúc tôi phải viết lên liên hệ của cá nhân tôi với các đơn vị này. Xin đừng hiểu lầm, là người viết muốn nói về “cái tôi” của mình.

Trong biển lửa minh mông và cường độ khốc liệt của cuộc chiến bất hạnh đó, tôi nghĩ, và tôi chắc rằng, mỗi chúng ta chưa đáng là con đom đóm. Từ các cấp lãnh đạo, chỉ huy của Việt Nam, cho đến cả Đại Sứ Mérillon của Pháp, ngay cả chánh Đại sứ Graham Martin của Mỹ, cũng chỉ là nạn nhân, phục vụ cho quyền lợi kinh tế và chiến lược tối thượng của Hoa Kỳ và Trung Cộng. Ra hải ngoại này, “cái tôi” là điều mà đại đa số quý vị độc giả, trong đó có chính tôi, đã quá kinh tởm, trong rừng lúc nhúc các “Bút ký chán chường!”

Trọn năm 1973, tôi là Lữ Đoàn Phó LĐ3ND này, hành quân vùng “Động Ông Đô” ở Quảng Trị. Đụng chạm suốt năm, nhiều kỷ niệm mồ hôi xương máu, ký ức còn nóng hổi như mới ngày hôm qua.

Tháng Giêng năm 1974, Bộ Tư Lệnh Nhảy Dù bổ nhậm tôi làm Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 2 Nhảy Dù, thay thế Đại Tá Nguyễn Thu Lương (K4TĐ).

Trung Tá Lê Minh Ngọc Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 2 ND.

LĐ2ND ở lại Bắc Quảng Trị, trách nhiệm vùng khoảng phía Tây quận Phong Điền/La Vang, dưới sự phối hợp và kiểm soát hành quân của Thiếu Tướng Bùi Thế Lân, Tư Lệnh Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiền (TQLC). Còn lại, SĐND(-) được Trung Tướng Ngô Quang Trưởng TL/QĐI điều động về phía Nam đèo Hải Vân để giúp trấn giữ Đà Nẵng.

Hòa Đàm Ba-Lê kết thúc ngày 27 tháng Giêng năm 1973: Henry Kissinger và Lê Đức Thọ được giải “Nobel Hòa Bình”. Sau đó, là bản án bức tử cho “đồng minh” Nam Việt Nam, vì quyền lợi chính trị và chiến lược của chính “đồng minh” Huê Kỳ! Cộng sản Hà Nội không còn có nhu cầu nhắm chiếm Huế để làm “Thủ đô” cho Nguyễn Hữu Thọ và Nguyễn Thị Bình nữa. Họ dồn áp lực tối đa vào Đà Nẵng, Ban Mê Thuột, và mục tiêu tối hậu là… thủ đô Sài Gòn.

Sau đúng 1 năm ở lại Quảng Trị, tháng 12 năm 1974, tôi bất thần lại được Chuẩn Tướng Lê Quang Lưỡng, Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù sau cùng, cho lịnh tôi bàn giao LĐ2ND ngược lại cho Đại Tá Nguyễn Thu Lương.

Tôi trở về BTL/Phòng 3 Hành Quân (ở Non Nước, Đà Nẵng) nhận lệnh mới. Tiễn tôi ra trực thăng Chỉ huy, là “Moshe Dayan” Tr/tá Lữ Đoàn Phó Trần văn Sơn K8TĐ. Anh em Dù gọi Sơn như vậy, vì Sơn đã bị thương mất một mắt, ngày còn là ĐĐT ở TĐ5ND, nhưng vẫn tình nguyện ở lại với đơn vị.

Tại căn cứ Non Nước, công việc của tôi hằng ngày, là bay đi kiểm soát phần Huấn luyện của các đơn vị Nhảy Dù “Đa Năng”. Đây là những Trung đội và Đại đội, được rút ra từ 6 Tiểu đoàn Nhảy Dù cũ đang tham chiến trong vùng Thượng Đức và Đại Lộc, phía tây Đà Nẵng, thuộc các LĐ1ND (Tr/Tá Nguyễn Văn Đỉnh K15/VBĐL) và LĐ3ND (Đại Tá Lê Văn Phát). Khi tôi còn trách nhiệm LĐ2ND tại bắc Hải Vân trong năm 1974, chính tôi cũng nhận được lệnh rút các Trung đội và Đại đội từ các Tiểu đoàn Cơ hữu của tôi (TĐ5, 7, và 11 ND), gởi đi huấn luyện “Đa Năng”.

Địa điểm Huấn luyện nằm ngay trong vùng trách nhiệm hành quân của LĐ3ND, phía Tây Đà Nẵng, nên tôi gặp “Bố Già” Phát rất thường xuyên.

Các đơn vị Huấn luyện, đi “bứng chốt” ban ngày, và chạm địch ban đêm như cơm bữa.

Hạ tuần tháng Giêng năm 1975, tôi được lịnh Chuẩn tướng Lê Quang Lưỡng, đưa “Lữ Đoàn 4 Nhảy Dù”, đơn vị có cái tên mới cáo cạnh, về Sài Gòn nhận lịnh Bộ Tổng Tham Mưu (vì Bộ Tư Lịnh/SĐND còn ở Đà Nẵng).

Khi kéo quân ra khỏi vùng hành quân của LĐ3ND, tôi hỏi “Bố Già” Phát:

“Đại Tá Lương đang ở đây, sao ông Tướng không để Đại Tá Lương đi, mà kéo tới kéo lui chi rắc rối vậy, Đại Tá có biết không?”

Tôi hỏi vậy, vì các Tướng Bùi Thế Lân, Tướng Lê Quang Lưỡng, Tướng Ngô Quang Trưởng, và hai ông Đại Tá này là bạn cùng khóa 4 TĐ với nhau. Giọng Bố Già Phát bỗng nghiêm trọng hơn thường ngày:

“Ở đây nặng, nhưng đơn giản. Chỉ có thằng Việt cộng trước mặt thôi. Mấy năm nay, TQLC và Dù không được về Sài Gòn. Về đó, Ngọc nhớ phải thận trọng mọi mặt … ”

Sáng ngày 20 tháng Giêng năm 1975, tôi đang ngồi trên xe Jeep tại bến tàu Đà Nẵng để xem các Tiểu đoàn chuyển quân xuống Chiến hạm của Hải Quân VN để về Vũng Tầu, thì Chuẩn Tướng Lưỡng đến nơi bằng xe. Ông hỏi diễn tiến công việc ra sao. Tôi trình bày vắn tắt, là suôn sẻ như kế hoạch. Và nhơn đó, có hỏi “mi mí” ông Tướng, xem nhiệm vụ của tôi ở Sài Gòn trong vài ngày sắp tới, đại khái như thế nào.

Tướng Lê Quang Lưỡng đăm chiêu:

“Đánh rắn, phải đánh đập đầu. Đáng lẽ phải có Tổng Trừ Bị bảo vệ Biệt Khu Thủ Đô và Tổng Tham Mưu từ sớm hơn, như hồi Mậu Thân vậy. Anh về đó, tình hình sẽ không nhẹ nhàng gì hơn ngoài này đâu. Khác với các Lữ Đoàn còn lại đây, là tình hình có thể đột biến bất ngờ, mà anh chỉ có một mình. Ngoài việc điều binh ra, anh phải cảnh giác luôn luôn, báo cáo chặt chẻ với tôi. Trường hợp thật đặc biệt, phải có lệnh của tôi”.

Ông Tướng không nói rõ, nhưng tôi đã hiểu mi mí, qua câu nói của ông anh “Bố Già” Lê Văn Phát. Dĩ nhiên, chuyện loại này, chả ông nào nói rõ trước cả. May quá, thời cuộc không xoay chuyển về hướng đó. Sau này, đọc Hồi ký của Tướng Lê Quang Lưỡng ở hải ngoại, mới thấy ông nói rõ hơn.

Và ông tướng vội vã ra đi, trước khi bảo tôi giao cho các Tiểu Đoàn Trưởng đôn đốc việc hải hành. Còn tôi, thì ra ngay phi trường, đã có nhân viên BTL/Phòng Tư lo phương tiện C-130 bay về trước, trình diện Bộ Tổng Tham Mưu nhận lệnh.

Tôi ghi lại đoạn này, để quý độc giả theo dõi mạch lạc hơn, vì trong những biến cố sau cùng, các LĐ2ND và LĐ4ND vừa kể, lại sẽ còn dính líu đến hoạt động của LĐ3ND, đơn vị đã bị Phạm Huấn khai tử trước, trong cuốn “Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên”, trước khi lịch sử của cuộc chiến tranh lạnh thế kỷ thứ XX, bức tử Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa sau đó.

Tôi rời Bố Già Phát, nhưng không phải vì thế mà tôi “mất dấu” LĐ3ND.

Pháo Binh Nhảy Dù trong cuộc hành quân Hạ lào 1971.

Tình hình điều động và tham chiến của các Lữ Đoàn và Tiểu Đoàn bạn trong binh chủng, đều được ban tham mưu Lữ Đoàn thuyết trình hằng ngày. Sau nhiều trận chạm địch, các Tiểu đoàn được hoán chuyển, để Binh sĩ được về thăm gia đình, đơn vị được bổ sung và chỉnh bị. Cho nên tại vùng hành quân, ít khi các Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn có được đủ mặt các Tiểu đoàn Cơ hữu của mình.

Thường thì mỗi Lữ Đoàn Nhảy Dù tham dự hành quân với 3 Tiểu đoàn tác chiến, một Tiểu đoàn Pháo Binh ND, một Đại đội Công Binh ND, một Đại đội Truyền Tin ND, một Đại đội Quân Y ND, một Đại đội Trinh sát ND, và Đại đội Chỉ Huy Công Vụ (Gồm các ban Tham mưu Lữ Đoàn, Quân cảnh, An ninh, Súng cối).

Đúng 2 tháng sau khi tôi rời Vùng I Chiến Thuật, thì Sư Đoàn ND cũng được Bộ TTM điều động về Sài Gòn. LĐ3ND xuống tàu Hải Quân, rời Đà nẵng ngày 15 tháng 3. Đang linh đinh trên biển, thì được lệnh tấp vào Cầu Đá Nha Trang: LĐ3ND được tăng phái cho QĐ II, theo đơn xin của Thiếu Tướng Tư Lịnh Phạm Văn Phú. Bộ Tư Lịnh/SĐND cùng các Lữ Đoàn 1 và 2 tiếp tục hải hành về hướng Nam.

Đại Tá Lê Văn Phát được lịnh di quân gấp lên đèo Khánh Dương, lập phòng tuyến. Nhiệm vụ là: trì hoãn trục tiến của các đơn vị Cộng quân, bọc hậu cho các đơn vị bạn trong vùng giao phó.

Sau khi Ban Mê Thuột thất thủ, lực lượng Cộng quân ào ạt trên các trục đông tiến này, gồm có các các Sư đoàn F10, 316 và 320 của CSBV.

Trục địch quân đi ngay vào tuyến án ngữ của LĐ3ND trên đèo Khánh Dương, chính là Sư đoàn F10, cùng với một Trung-đoàn chủ lực miền, và Đặc công, Giao liên. Tổng cộng đông gấp 5 lần lực lượng của Nhảy Dù tại đây. Cộng quân có đầy đủ pháo yểm, trong khi LĐ3ND chỉ có hỏa lực của 1 Tiểu Đoàn Pháo binh 105 ly cơ hữu. Đó là tương quan lực lượng chính xác tại đèo Khánh Dương ngày 17/3/1975.

Lúc bấy giờ LĐ3ND của Bố Già Phát gồm có TĐ2ND (Th/tá Trần Công Hạnh K20/VBĐL), TĐ5ND (Tr/Tá Bùi Quyền K16/VBĐL), và TĐ6ND (Tr/tá Nguyễn Văn Thành, K9TĐ). Th/tá Nguyễn Ngọc Triệu là TĐT/TĐ2 Pháo Binh/ND. Lữ Đoàn Phó là Trung tá Trần Đăng Khôi K16/VBĐL.

Sĩ quan Nhảy Dù đang bay trực thăng quan sát trận địa – Đại tá Lê Quang Lưỡng (P) – Trung Tá Nguyễn Văn Đỉnh (giữa)

Quân Nhảy Dù giữ vững đèo Khánh Dương, chận đứng Sư Đoàn F10 tại đây cho đến ngày 22 tháng 3. Sáng hôm đó, địch giảm cường độ tấn công, chỉ bám sát tuyến đang chạm, nhưng lại tung 2 trung đoàn đánh bọc hông. ĐT Phát xin không yểm. Tướng Phú chấp thuận, nhưng lại không có phi tuần để thỏa mãn yêu cầu. Tướng Phú cho lệnh LĐ3ND tuần tự lui quân về Nam, xa nhất là dừng lại Cam Ranh chờ lịnh.

Khi về ngang Huấn Khu Dục Mỹ, ĐT Phát có gặp ĐT Nguyễn Hữu Toán, Chỉ Huy Trưởng Huấn Khu Dục Mỹ và Đại Tá – BĐQ Nguyễn Văn Đại, CHT/Trung Tâm Huấn Luyện Biệt Động Quân, K8/VBĐL.

ĐT Phát ND cho ĐT Nguyễn Văn Đại BĐQ biết về tình hình địch trước mặt, nói thẳng với ĐT Đại hai điều. Một là, địch đông hơn mình nhiều lần, có đủ tiếp liệu và hỏa yểm hùng hậu. Còn mình thì đến hôm nay, khó còn trông cậy gì vào “ở trên” và “sau lưng” nữa. ĐT Phát hỏi ĐT Đại có phụ giúp được gì trong việc giữ an ninh trục lộ phía sau, dẫn về Ninh Hòa hay không, vì địch thế nào cũng bọc hông đặt chốt để gây khó khăn cho điều động chung của các đơn vị thuộc huấn khu này.

Đại Tá Đại đồng ý, và gửi Viễn Thám BĐQ đi thi hành. Nhờ vậy, cuộc lui binh tại đây, thảm cảnh ở Quốc Lộ 7 đã không xảy ra.

LĐ3ND chưa về đến Cam Ranh. Ngày 30 tháng 3, mới về đến đèo Rù Rì, phía Bắc Nha trang, thì mất liên lạc với Bộ Tư Lệnh/QĐ II. ĐT Phát không còn cách nào khác hơn, là phải liên lạc thẳng về BTL/SĐND ở Sài Gòn bằng máy GRC-106 để xin lịnh.

Lịnh của Tướng Lê Quang Lưỡng cho LĐ3ND là trực chỉ Phi trường Bửu Sơn Phan Rang, để phối hợp với Chuẩn Tướng Phạm Ngọc Sang, Tư Lịnh SĐ6/KQ, tổ chức phòng thủ phi trường này, và tái lập an ninh trật tự tại hai Thị xã Phan Rang và Tháp Chàm.

Ổn định vừa được Nhảy Dù phục hồi tại đây, thì Trung Ương cử Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi ra đến, đặt Bộ Tư Lịnh nhẹ của Quân Đoàn III tại Bửu Sơn đúng ngày 1 tháng 4 năm 1975.

Trước mặt Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, LĐ3ND vẫn còn cầm súng trên tay, và đang hiển hiện là niềm tin tưởng, là nỗi vững tâm của Quân dân Tháp Chàm Phan Rang, của Tiểu Khu Ninh Thuận. Vậy mà LĐ3ND nào chưa đánh, đã buông súng bỏ chạy, đầu hàng?

Ngày 4 tháng 4, LĐ3ND được tướng Lê Quang Lưỡng cho thay thế bằng LĐ2ND, do ĐT Nguyễn Thu Lương đưa ra Bửu Sơn bằng vận tải cơ C-130. Không Quân VN chuyển các Tiểu đoàn 3, 7 và 11 Nhảy Dù đến Bửu Sơn, và bốc các Tiểu đoàn 2, 5 và 6 Nhảy Dù về Tân Sơn Nhứt.

Lập tức LĐ3ND được bổ sung và chỉnh bị nhanh chóng. Tr/tá Trần Đăng Khôi được bổ nhậm làm Lữ Đoàn Trưởng/LĐ3ND, thay thế Bố Già Phát (lên Tham Mưu Phó Hành Quân BTL/SĐND).

Trở lại với Lữ Đoàn 4 Nhảy Dù tại Vùng III Chiến Thuật. Tôi từ Đà Nẵng bay C-130 về Sài Gòn ngày 20 tháng giêng/1975, trình diện Bộ TTM. Gặp Chuẩn Tướng Trần Đình Thọ, Trưởng Phòng 3. Ông ta hỏi tôi ngay về khả năng tham chiến của LĐ4ND.

Tôi thưa, có 2 Tiểu đoàn sẵn sàng ngay, ba Tiểu đoàn nữa (15, 16 và 18) sẽ về đến và sẵn sàng khoảng 2 tuần sau. Và tôi cũng không quên khai thật, là tôi chưa có hậu cứ, chưa có Lữ Đoàn Phó, nhất chưa có Pháo binh Nhảy Dù cơ hữu như các Lữ Đoàn cũ.

Tướng Thọ vào đề: “Tôi ghi nhận những điều đó. TTM sẽ phối hợp với hậu cứ Sư Đoàn Nhảy Dù lo tiếp cho anh. Bây giờ tình hình phía tây bắc Biệt Khu Thủ Đô nghiêm trọng. Địch đã vượt sông Vàm Cỏ, chiếm xã Lương Hòa. Vùng Đức Hòa, Đức Huệ bị uy hiếp nặng nề. Phải nhờ anh lên đó giúp họ ngay. Anh sang Phòng 2 nghe tình hình chi tiết vùng này. Tôi nhờ Phòng Tư lo phương tiện cho anh lên đó.”

Hai ngày sau, tàu HQ cập bến Sài Gòn. Tôi hướng dẫn hai Tiểu Đoàn 12 và 14 ND về tạm trú tại sân cờ của TĐ8ND trong Hoàng Hoa Thám. Các Phòng sở của BTL/Hậu cứ đến, nhanh chóng giúp đỡ các trang bị cần thiết. Tôi gọi các Tiểu Đoàn Trưởng đến, trải bản đồ ra, chỉ tình hình và mục tiêu.

Và tôi nhấn mạnh trang bị: Bản đồ, Điện trì, Lựu đạn M-26 tối đa, phóng lựu M-79, và ống phóng chống tăng M-72 (Vì không có pháo binh, khi hữu sự, sẽ phải đánh như đơn vị khinh chiến).

Đoàn xe đến, LĐ4ND “xuất hành” trận đầu tay, trực chỉ lên hướng Tây Ninh. Đến “Thành Ông Năm” (Một trại Công Binh trên Quốc lộ 13), xuống xe, lấy đội hình hướng về mục tiêu Vàm Cỏ Đông.

Quần thảo 2 ngày ven bờ con sông nổi tiếng, đẩy lui được đầu cầu vẹm về bên kia, tái chiếm được Lương Hòa, an ninh lại trục lộ. Trận đầu tay này, cũng như những lần chạm địch mấy tháng sau đó, LĐ4ND đã “đánh khô”, vì không có pháo cối yểm trợ.

Hai Tiểu Đoàn 12 và 14 ND bắt được rất nhiều vũ khí đạn dược, dọc theo dãy lùm bụi, ngay vùng đầu cầu mà địch vượt sông hai đêm trước, còn nguyên trong nhiều thùng gỗ bọc giấy dầu, bôi đầy mỡ bò màu vàng của Trung cộng: AK47, B-41, và “Thượng liên nồi” mới toanh (Hộp băng đạn bự và tròn).

Tôi cho Ban 2 và Ban 5 đi tìm, liên lạc với giới chức địa phương, để phối hợp việc an ninh, cứu trợ và bình định. Tưởng là ai, hóa ra người trai khói lửa, lại là Thiếu tá Tô Công Thất, cùng khóa 16 với tôi ở Trường Võ Bị Đà Lạt!

Bắt tay bắt chưn qua loa, hỏi cần gì không? M-79, M-26, Claymore! Tôi kêu đệ tử để hết các loại này lại, rồi bái biệt người trai khói lửa, lội ngược ra Quốc lộ, vì truyền tin báo có Ch/tướng Trần Đình Thọ sắp lên Thành Ông Năm.

Tướng Thọ bắt tay tôi: “Đơn vị anh không cần huấn luyện nữa. Vả lại, tình hình không cho phép”.

Và ông xỉa cho tôi một phóng đồ hành quân, cho đất đai làm ăn, án ngữ về hướng Bắc và Tây Bắc Thủ đô.

LĐ1ND vừa đặt chân đến hậu cứ khoảng giữa tháng 3/1975, là liền được bổ sung, tái tiếp tế nhanh chóng. Và Tr/Tá Nguyễn Văn Đỉnh được lịnh trực chỉ lên Xuân Lộc ngay, để tăng cường cho SĐ18BB. Theo dõi phần thuyết trình hằng ngày, tôi được biết TĐ8ND của Thanh Râu, tức Thiếu tá Nguyễn Viết Thanh K19/VBĐL, đã làm ăn một trận để đời tại “Vườn cây Ông Tỵ”.

Trong tháng này, có Tr/tá Nguyễn Đình Ngọc cầm công điện mang tay, về trình diện tại Thành Ông Năm. Nội dung công điện: “Chỉ định Tr/Tá Nguyễn Đình Ngọc giữ chức vụ Phụ tá Hành Quân LĐ4ND. Quyết định hợp thức hóa Lữ Đoàn Phó sẽ theo sau”. Có ông này về, thật đỡ cho tôi quá, K19/VBĐL, nguyên TĐT/TĐ2ND ngày còn ở Động Ông Đô với LĐ3ND hai năm trước.

Giữa tháng 3, Biệt Khu Thủ Đô cũng có yêu cầu đến giúp Tiểu Khu Gia Định, giải tỏa xóm Cư Xá Thanh Đa (Bị một đại đội đặc công xâm nhập), đến đầu cầu Thương cảng Xa lộ. Th/Tá Nguyễn trọng Nhi K20/VBĐL được gởi đi với 2 đại đội của TĐ12 ND, và đã thanh toán xong trong cùng ngày 22 tháng 3.

Ngày 10 tháng 4, tôi được gọi về họp ở BTL/BKTĐ. Tại đây, tôi gặp Trung tá Trần Đăng Khôi, LĐT/LĐ3 ND, cũng đến họp nhận lịnh.

Lữ Đoàn 3 được tăng cường hoạt động cho BKTĐ, thay thế LĐ4ND. Còn tôi được lệnh di quân LĐ4ND xuống tăng phái cho BTL/Quân Đoàn III, trách nhiệm khu vực từ Tam Hiệp, Biên Hòa, vắt qua sông Đồng Nai, hướng về Long Thành. Đấy là lần sau cùng tôi gặp, lần cuối tôi thấy LĐ3ND điều động đi thi hành một nhiệm vụ chiến thuật khác: bảo vệ khu kho xăng Nhà Bè, và an ninh trục thủy lộ Rừng Sát.

Tối 13 tháng 4, tôi được tin LĐ2ND chạm địch nặng nề tại Bửu Sơn Phan Rang. Lực lượng tấn công, vẫn là Sư Đoàn F10 của Việt Cộng, bị chận khựng lại.

Ngày 15 tháng 4, Sư Đoàn 325 Cộng Sản Bắc Việt từ quốc lộ 11 tăng cường đến, cùng với đông đảo chiến xa và pháo nặng. Tối 16 rạng ngày 17, ĐT Nguyễn Thu Lương và Tr/tá Trần văn Sơn bị báo cáo mất tích, cùng với Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi và Chuẩn Tướng Phạm Ngọc Sang KQ.

Bửu Sơn thất thủ, tiếp theo là Tháp Chàm và Phan Rang!

Sau cùng, LĐ3ND cũng đã buông súng, cùng với tất cả các đơn vị khác, khi hai ông Vũ Văn Mẫu và Dương văn Minh tuần tự cho lệnh buông súng chiều 29 và sáng 30 tháng 4 năm 1975.

Tôi không phải là người xa lạ đối với LĐ3ND. Mặc dù vậy, để đảm bảo sự chính xác của dữ kiện, tôi vẫn điện thoại kiểm chứng chi tiết kỹ lưỡng với những nhân vật trong cuộc, trước khi viết lại những diễn tiến cuối cùng của cuộc chiến, mà các đơn vị Nhảy Dù VN có can dự.

Tất cả vẫn còn đấy, chỉ trừ có Chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang SĐ6KQ đã qua đời cách đây 3 năm, và “Moshe Dayan” Trung tá Trần Văn Sơn đã nằm xuống trong những năm tháng tù đày ngoài Bắc.

Bây giờ, mời Quý Vị hãy nhìn lại câu chuyện, kể về cùng một đơn vị đó, trong cùng thời gian đó, bởi ký giả chiến trường Phạm Huấn trong cuốn “Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên”, đã phổ biến khắp thế giới, để mà ngán ngẩm cho điều mà chánh các ngài viết lách này, gọi là .. Lương Tâm Ngòi Bút:.. “ Buông súng trưa ngày 1.4.1975, sau khi vỡ tuyến, bị tràn ngập… Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù trong những ngày sau cùng trên chiến trường Cao Nguyên, Pleiku, Kontum, Nha Trang: Chưa đánh đã bỏ chạy… Đúng!”

Trong khi đó, chính Đại Tá Nguyễn văn Đại BĐQ, người cùng có mặt tại trận với LĐ3ND lúc bấy giờ, hiện đang cư ngụ tại Oregon, vừa nói điện thoại với tôi đêm qua:

“Tình hình đó, địa thế đó, nhiệm vụ đó, LĐ3ND đã làm quá sức mình. Và ĐT Phát còn về ổn định lại Phan Rang Tháp Chàm, giúp Tướng Phạm Ngọc Sang, Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi nữa, trước khi được thay thế!”

Tới tháng cuối cùng của chiến cuộc, tác giả Phạm Huấn vẫn còn lĩnh lương Thiếu Tá của QLVNCH, sao lại có thể ăn nói khinh bạc đến vậy? Đành rằng, chung cuộc vẫn là sự sụp đổ của Miền Nam Việt Nam, nhưng vẫn phải xin để cho, sự thực còn được là sự thực.

Chỉ trong một đoạn viết ngắn khoảng nửa trang giấy, tác giả đã đề cập đến diễn tiến và số phận của mấy chục đơn vị, một cách ngắn gọn, dễ dàng và tàn nhẫn: Thảm sát hết: “Từ các trung đoàn 41, 42, 47 Bộ Binh, mấy Liên đoàn BĐQ, Lữ đoàn 2 Thiết kỵ, Liên đoàn 6 Công Binh Chiến Đấu, các đơn vị Pháo Binh, đến các đơn vị Lôi Hổ, Thám kích và LĐ3ND.”

Đơn vị Nhảy Dù này, sự thực ra sao, tôi là người trong cuộc, đã vừa thưa cùng Quý Vị.

Từ sau ngày rời Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam, tôi về trình diện Liên Đoàn Nhảy Dù Việt Nam. Và tuần tự phục vụ qua các TĐ3ND, TĐ7ND, LĐ3ND, LĐ2ND, LĐ4ND. Tôi chưa hề được gặp gở ký giả chiến trường Phạm Huấn lần nào. Chỉ thỉnh thoảng đọc sách, thấy hình ông ta mặc quân phục Nhảy Dù!

Còn mấy chục đơn vị khác, mà Phạm Huấn nêu tên ra trên đây, thì sao? Tôi không rõ là Phạm Huấn hiểu biết thế nào về các đơn vị đó. Và càng không biết, các đơn vị đó, có được Phạm Huấn đến thăm viếng lần nào chưa. Nhưng khi trên giấy trắng mực đen, Phạm Huấn đã viết truyện chiến trường như đoạn viết về LĐ3ND trên đây, thì nếu người đời họ có chọn “Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên”, để sắp chung với “Đại Thắng Mùa Xuân” của Văn Tiến Dũng, cũng là điều hiểu được mà thôi!

Thiếu tá Phạm Huấn suốt đời ở thiên cung, mới trở thành tiên đọa xuống trần-gian Quân Khu II, chỉ vài tháng trước cuộc dầu sôi lửa bỏng, làm sao nắm vững được từng ấy tin tức dữ kiện? Từng dữ kiện này, nếu được trình bày bởi các Vị Đại Tá, chức vụ tối thiểu từ Trưởng Phòng Nhì, Trưởng Phòng 3 Quân Đoàn trở lên, thì họa may mới khả tín!

Chua chát chưa chịu dừng lại tại đó

Mãi tới nay, vài chục năm sau, tại hải ngoại, vẫn có những nhà văn, nhà báo, viết theo, lên án gắt gao tất cả, từ lãnh đạo đến thứ dân, từ Tướng xuống Quân! Và khôi hài ở chỗ là, hầu hết đều nhập đề bằng câu “Có đọc Phạm Huấn, chúng ta mới thấy …”, hoặc là: “Cuốn Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên” của tác giả Phạm Huấn đã phơi bày ra tất cả “Sự thực.”

Với các ông gọi là Ký giả, hay học giả này, chữ nghĩa cẩu thả trên đây của Phạm Huấn, đã trở thành chữ nghĩa của Thánh kinh! Rồi tất cả những văn chương, tư tưởng siêu việt này, rốt cuộc hội tụ về một đoạn tiểu sử, được phổ biến rộng rãi trên khắp các mạng lưới toàn cầu.

Xin chép lại nguyên văn, để Quý Vị thưởng lãm:

“Phạm Huấn là một ký giả quân đội và trong “Bộ Biên Tập Diều Hâu”, Thành viên Ban Liên Hợp Quân Sự 4 Bên và 2 Bên, đặc trách về Báo Chí, khi Hiệp Định Paris 1973 được ký kết, Chủ tịch Hội Phóng Viên Chiến Tranh Việt Nam, 1972-1975.

Tác giả đã theo học … Trường Đại Học Quân Sự năm 1963. Và cả Trường Quân sự tại Hoa Kỳ: Infantry School (Fort Benning, GA, 1958), Civil Affairs School (Fort Gordon, GA) và Special Warfare School (Fort Braggs, NC, 1965).

Trong nghề Phóng viên Chiến tranh, Phạm Huấn có một chỗ đứng riêng biệt, dù đi chung với những Phóng viên nổi tiếng hàng đầu của thế giới như Moshe Dayan, Dickey Chapel, hay chỉ đi có một mình, bao giờ anh cũng được đón nhận nồng nhiệt của mọi chiến hữu ở ngoài mặt trận.”

Đọc qua đoạn trên, quý vị có thấy độc giả bị coi thường quá hay không?

Cùng một “Văn phong” này, tôi nhớ đã được đọc đâu đó vài lần.

Lần đầu, năm 2005 thì phải. Anh Bùi Đăng, bạn cùng khóa 16 Võ Bị Đà Lạt với tôi, ở San Jose bắc Cali, gởi cho tôi nguyên một trang Nhựt báo Việt Ngữ khổ lớn. Nguyên trang báo, là bài Phân Ưu Trung Tá Phạm Huấn. Với nửa trang trên, đầy đủ sự nghiệp vĩ đại của người nằm xuống. Toàn là các khóa du học Ngoại quốc, và các việc Văn phòng. Anh Huấn quả đã được Quân đội đãi ngộ, ưu ái, và đầu tư vào kỹ hơn ai hết.

Và nửa trang dưới, đầy đủ tên tuổi Quân nhân Nhảy Dù, từ Đại Tướng Cao văn Viên, Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi … cho đến em út cấp Úy, trong đó có tên tôi. Cầm tờ báo, tôi mới hay tin ông anh qua đời vì bạo bịnh.

Anh bạn Bùi Đăng gởi báo cho tôi, không họ Bùi, mà cũng chẳng phải tên Đăng tên thiệt là Phâm Kim Bằng. Mùa hè 1972, anh dẫn TĐ6ND nhảy xuống Đồi Gió Bình Long, mở đường máu vào cứu An Lộc. Bị trận địa pháo, Phạm Kim Bằng bỏ lại Đồi Gió một con mắt, đi vào An Lộc với một con. Trở thành Bằng Đui (tiếng lái của Bùi Đang), nhưng Bùi Đăng không chịu rời tiểu đoàn tác chiến Nhảy Dù.

Đầu năm 2007, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng lại ra đi

Trên Internet và báo chí, liền ngay dưới sự nghiệp của Trung Tướng Trưởng, lại có hàng chữ: “tài liệu của Đại Tá Phạm Huấn, Chủ Tịch Hiệp Hội Ký Giả Chiến Trường.” (!)

Ông lỏi tì nào đó ơi, “Văn phong” này nặng mùi lắm, xin ông dừng tay lại, đừng đem tên tuổi của ông anh mình ra mà diễu dở. Cấp bậc, thì ai cho bằng Thiếu Tướng Nguyễn cao Kỳ và Đại Tướng Nguyễn Khánh. Chức vụ, thì ai sánh nổi với Quốc Trưởng Nguyễn Khánh và Thủ Tướng Nguyễn cao Kỳ! Có thơm tho chi đâu. Phải nói ngay từ bây giờ, kẻo nay mai, có một vì sao sáng nào khác rơi rụng, ông lỏi tì lại lôi ông anh Phạm Huấn dậy mà truy thăng lên Chuẩn Tướng! Tội nghiệp cho ông anh.

Ông anh đã và đang sám hối về cuốn “Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên” dưới kia. Khó ăn, khó ở khi “hội ngộ” với anh em lính tráng người phàm, đã tham dự Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên ngày xưa lắm.

Hởi ông lỏi tì ơi, hãy để cho ông anh được yên nghỉ.

Dậu đổ, bìm leo. Viết lách chửi bới, mạt sát, mọi thứ thuộc Miền Nam Việt Nam ngày trước, đã và vẫn đang là kiểu thời trang thịnh hành.

Có nhiều người viết, để vẽ lên hình ảnh mình là … người hùng! Một số khác viết lên, để tỏ ra mình là người trí giả, là nhà tư tưởng, dựa vào cuốn Kinh Tân Ước Phạm Huấn! Riêng nhà báo vĩ đại Phạm Huấn, thì hùng dũng tỏ ra mình là nhà siêu Quân sự, siêu lãnh đạo, chê bai xoa đầu từ trên xuống dưới, chả chừa một ai.

Chỉ nửa trang giấy, dẹp hết cả lực lượng một Quân đoàn. Phạm Huấn luận về các ông anh, ông thầy, các ân nhân của chính anh ta, như Gia Cát Khổng Minh nói về các mạt Tướng Trương Phi, Ngụy Diên!

Anh Phạm Huấn chỉ quên có một đôi điều nho nhỏ. Thật nhỏ. Nhỏ xíu. Vì tầm mắt anh không thấy. Mặc dù anh vẫn mặc Quân phục tác chiến Nhảy Dù, mang lon Thiếu tá của QLVNCH làm việc tại Ủy Ban Quân Sự 2 bên, 4 bên. Đó là việc Lập Pháp Mỹ, qua Quốc Hội Dân Chủ ngày đó, đã cúp hết Viện trợ Quân sự cho QLVNCH từ mùa Hè 1973!

Đó là việc Hành Pháp Mỹ, qua tên Do Thái nói ngọng Henry Kissinger, đã công khai đứng về phía Lê Đức Thọ và Nguyễn Thị Bình, để bức thúc Hòa Đàm Ba Lê, bức tử VNCH. Cho nên, chuyện gì phải đến, đã đến. Theo Mỹ và Trung Cộng, chuyện đó, đáng lẽ phải xảy ra sớm hơn …

Trong hoàn cảnh đó, nếu rước đại Ký giả Phạm Huấn vào Dinh Độc Lập, liệu đương sự gồng được mấy phút? Trong hoàn cảnh đó, nếu mời nhà báo Phạm Huấn sang Bộ Ngoại Giao, liệu ông anh gồng được mấy giờ? Trong hoàn cảnh đó, nếu phong cho Thiếu tá Phạm Huấn thay thế Đại Tướng Cao Văn Viên, Thiếu Tá Huấn có lãnh đạo một Tiểu đội ngày giờ nào chưa?

Các ông lính thợ vịn, ăn lương Quân đội Miền Nam, mạt sát các đơn vị Quân đội thiện chiến Miền Nam, nhưng chả bao giờ biết chút gì về các Đơn vị này. Mạt sát, vì ganh tị, vì mất mát.

Bất cứ ai thật sự có trải qua những tháng ngày gạo sấy nước ruộng, đều biết rằng, cùng một cỡ Đơn vị, cùng hỏa lực xấp xỉ nhau, Bộ đội Cộng sản chưa hề là đối thủ của Quân Đội Quốc Gia, dù là Chính quy, hay Địa phương, dù là TQLC, BĐQ, hay Bộ Binh, Không Quân, Hải Quân. Chiến thuật của Cộng sản, có hai chữ “biển người”, là vì vậy.

Một phần ba thế kỷ đã trôi qua, bao nhiêu tài liệu đã được giải mật. Henry Kissinger trước sau ba lần thú nhận, đã bán đứng Nam Việt Nam. Lính tráng chúng tôi, là người phàm mắt thịt, chả nói làm chi. Còn các ông nhà văn, nhà báo, nhà bình luận: chất xám các ông để đâu, nấu bún ốc hết rồi sao? Bây giờ không có bom rơi đạn réo, mà còn phù thịnh, còn nói vuốt theo Văn Tiến Dũng, thì làm sao ngày xưa các ông dám phù suy, mà đỡ đần phần tí ti nào cho Quân Dân Miền Nam? Bây giờ mà còn nói vuốt theo Văn Tiến Dũng, là vô liêm, là bất trí …

Thảm cảnh tháng Tư, người khách quan, không ganh tị, không càm ràm bịnh hoạn, ai cũng thấy là vì hai lý do: Thứ nhất: Dân chúng nghe quân Cộng sản tiến đến gần, đã kinh hoảng, đưa tới náo loạn. Có đúng vậy không, thưa Quý Vị? Và thứ hai: các đơn vị Quân đội lại không có được những tiếp liệu, yểm trợ và hỏa lực tối thiểu nữa, để chu toàn nhiệm vụ chiến thuật được giao phó, vì QLVNCH đã bị cúp Quân viện từ năm 1973, chỉ còn cầm hơi, “Liệu cơm gắp mắm”.

Mùa Hè năm sau, Trung Tướng Tùy Viên Quân Sự tòa Đại Sứ Anh Quốc ra thăm hỏa tuyến, có ghé qua Bộ Chỉ Huy/LĐ2ND ở phía Nam sông Thạch Hãn. Nghe thuyết trình xong, ông đứng lên trước bản đồ, quay lại nói trước mặt tôi và đông đủ Sĩ quan Tham mưu hiện diện:

“Giới quan sát Quốc tế cho rằng, các ông không tồn tại nổi quá 6 tháng, sau Hiệp Định Ba Lê. Bây giờ, hơn một năm đã trôi qua ..”. Bấy giờ, là tháng 7 năm 1974.

Suốt chiều dài cuộc chiến, người lính mồ hôi, xương máu. Người dân quằn quại, thống khổ điêu linh.

Còn các ông thợ vịn, lính kiễng, sống phè phỡn ngay trong lòng Hòn Ngọc Viễn Đông, ăn tục nói phét, làm chơi ăn thiệt. Bây giờ, mồ ma Miền Nam Việt Nam không còn nữa, các ông muốn ăn thiệt, thì phải bò ra làm thiệt, dù là ăn welfare! Nên các ông tiếc nuối cái thời vàng son, sáng Thanh Thế, trưa Givral, chiều Đồng Khánh. Và các ông cay cú, các ông hằn học…

Có nhiều lý do làm sụp đổ Miền Nam

Trước hết, là bàn tay lông lá của Mỹ-Nga-Tàu, và xuẩn vọng của tên đồ tể họ Hồ.

Kế đến, là những tham nhũng thối nát, mà các ông đã ngoắc mồm ra chửi bới hơn ba chục năm qua.

Mỹ, Pháp, Nga, Tàu, và nhất là Cộng sản Việt Nam bây giờ, có thối nát tham nhũng hay không?

Lý do thứ ba là ai? Là đám làm chơi ăn thiệt, là lũ kiêu binh hàm thụ. Là đám sâu bọ, dòi mọt, cặn bã của một Quân Đội hào hùng. Quân Đội “cao số” đã bị lịch sử cận đại trao cho một sứ mạng oan khiên, một “Mission impossible” .. Những tên né tránh, đánh bóng chữ thọ, những bụi chùm gởi nặng trĩu trên thân cây gầy yếu Nam Việt Nam trước cơn giông bão, không có tư cách mở mồm về đoàn quân này…

Các cụ thường nói “Tiên trách kỷ, hậu trách nhân”. Các ông suốt đời chỉ trích ta bà thế giới. Sao các ông không dám nói, chính các ông mới là thủ phạm, mới là tội đồ thiên thu, làm Miền Nam nước Việt sụp đổ vào tay Cộng sản.

Nhân vô thập toàn, ai cũng có lúc lầm lỗi. Vả lại, cái “lỗi lầm” của Miền Nam Việt Nam, nếu có, là phần chính do cái thân phận nhược tiểu mà ra. Hàng trăm nước nhỏ trên thế giới, đã và còn đang đau khổ về cái “lỗi lầm” này. Miền Nam Việt Nam không còn nữa. Bây giờ đây, trách nhiệm đối với Lịch sử và Dân tộc, đang treo trên đầu bọn cầm quyền ở Hà Nội.

Năm 1965, tôi đi học khóa “Tác Chiến Trong Rừng” ở Mã Lai, Singapore. Việt Nam lúc bấy giờ đang khói lửa mịt mùng, nhưng tôi thấy vẫn còn “văn minh” hơn năm nước Đông Nam Á. Bây giờ, các nước đó đã là “Ngũ Long Thái Bình Dương”. Cộng sản chiếm trọn lãnh thổ hình chữ “S” đã một phần ba thế kỷ qua, không còn chiến tranh, lại được “Việt Kiều Phản Động” hằng năm giúp nhiều tỉ đô-la. Vậy mà bọn cầm quyền Cộng sản đã đưa Việt Nam, cũng vào thứ hạng số 5 trên thế giới: nhưng là thứ năm, đếm từ dưới lên trên!

Tiếng nói của Hải ngoại rất cần thiết. Quý Vị nào có sức, có trí, có “gu”, muốn phân tách, muốn sửa sai, muốn dạy dỗ, thì Hà Nội mới là hướng để quý vị trổ tài. Xin hãy thôi đè Miền Nam Việt Nam ra mà xỉa xói, mà kiêu binh cái mồm! Thê thảm thay, chỉ vì một lý do: dối gạt luôn chính lòng mình. Tôi không dám nói là, dối gạt chính lương tâm mình! Vì chỉ có trời, họa chăng mới biết, các ông có lương tâm hay không!

Tội nghiệp cho Miền Nam Việt Nam, đã bao năm tháng cưu mang, nâng niu, đãi ngộ các ông, kaki cũng như dân chính! Hít thở không khí tự do của Miền Nam, Trịnh Công Sơn đã dệt lên được những tình khúc bất hủ. Ngày Miền Nam sụp đổ, Trịnh Công Sơn lên đài phát thanh, phừng phừng Guitar hát bài “Nối Vòng Tay Lớn”. Rồi lặn ngụp trong vòng tay lớn của Xã hội Chủ nghĩa một thời gian, Trịnh Công Sơn đã rặn ra một ca khúc, chưa bao giờ nghe thấy trong Âm nhạc nhân gian: “Tiến Thoái Lưỡng Nan!”

Sau cùng, trên đỉnh cao trí tuệ của thời trang mạt sát Miền Nam Việt Nam, là các… Chiến lược gia

Thôi thì, Xuân Thu nhị kỳ, luận đủ thứ chuyện chiến lược Thiên trời địa đất. Cũng chỉ cùng một kiểu: mạt sát hết mọi sự của Miền Nam Việt Nam. Để mình cố nhón cao lên. Vì biết chắc rằng mình không đủ cao. Để tỏ ra mình là người thức giả. Vì biết mình đang tơ lơ mơ, không thức thật. Càng phải trực diện với việc áo cơm thân phận hằng ngày, nổi nuối tiếc mất mác thời vàng son, càng điên cuồng gào thét, dằn vặt, gậm nhắm.

Khổ một điều, không biết đọc địa bàn, nên không phân biệt nổi hướng Đông với hướng Tây, để mà bắn cái hỉ-nộ ái-ố vô duyên đó đi. Và cứ nhằm mọi thứ của Miền Nam Việt Nam mà phang.

Đại Sứ Graham Martin, không như vậy. Ông đâu có muốn sự nghiệp Ngoại giao trọn đời của ông, kết thúc cái kiểu này. Giờ phút cuối của Miền Nam Việt Nam, ông cũng chỉ kịp cuốn lấy lá cờ hoa. Bộ Tư Lịnh Quân Sự Mỹ (MACV) tại Sài Gòn, thì đã nhanh chân “Rút lui trong danh dự” ra soái hạm của Đệ Thất Hạm Đội từ năm trước!

Cho nên, xin lỗi Quý Vị, ông Đại Sứ cũng chạy sút quần, ra tàu USS Blue Ridge ngoài biển Đông, bước đến boong tàu ngồi thở. Được cái là, ông Đại Sứ biết đọc địa bàn. Ông biết rõ phương, để mà ngậm ngùi. Ông biết rõ hướng, để mà trách móc. Thở xong, ông chỉ vào lá cờ hoa, mà mắng cho mấy mắng:

“That’ s not the way I saw American Honor”!

Trung Tá Lê Minh Ngọc – Thiếu Tá Nguyễn Đức Tâm. 

Monday, March 31, 2025

PLEIKU CUỐI THÁNG BA

Chắc là hè đã về rồi đấy
Bởi không gian đầy dẫy tiếng ve
Em có nghe trong vòm lá mới
Những hạt mưa rót nhẹ quanh hè ?
Nhớ những chuyển xe mù tung bụi
Xưa Pleiku sót lại con phố buồn
Biển Hồ câm, Hàm Rồng không khóc
Chắc tủi lòng, bỗng chốc mưa tuôn.
Chưa vào hè, tháng Ba năm đó
Phượng chưa nở, im bặt tiếng ve
Nhiều chuyến xe chở Pleiku đi mất
Đất bazan hoa cúc vàng khè.
Về lại phố xưa khi hè muộn
Phố tan hoang, vườn tược xác xơ
Có bóng người lượn lờ khu chợ
Ngỡ như mình đang giữa giấc mơ.
Những ngày cuối tháng Ba không quên được
Nửa thế kỷ rồi cứ ngỡ ngủ yên
Pleiku trong tôi vẫn hiền như đất
Đêm vẫn hoài thao thức chút tình riêng.
LMT


 

Friday, March 14, 2025

Trung Tá Vũ Xuân Thông - VĨNH BIỆT TRUNG TÁ! Vĩnh biệt Trung tá - Tài Tử Vũ xuân Thông -

 
Mời xem phim 'Người Tình Không Chân Dung' trên YouTube!:
NGƯỜI TÌNH KHÔNG CHÂN DUNG (1971) | Phim Chiến tranh Việt Nam hiện thực nhứt
 xưa nay
Tôi bắt đầu biết yêu năm 14 tuổi.
Nhưng vấn đề là tôi yêu mà hoàn toàn không biết mặt người đó!
Cũng đâu có gì lạ.
Trước tôi cả hơn chục năm, bà Kiều Chinh cũng từng có “Người tình không chân dung” rồi mà? Chuyện của tôi thì không đủ để thành phim, nhưng cũng có nhiều chi tiết … vui lắm.
Hồi đó trường tôi có thông lệ mỗi năm gần tết đều tổ chức văn nghệ Tất Niên ngoài trời và có rất nhiều tiết mục từ đơn ca, hợp ca, nhạc kịch, hoạt cảnh, vân vân… nghĩa là rất xôm trò. Đó là buổi học cuối năm. Học sinh chúng tôi dự buổi văn nghệ toàn trường trước khi được ở nhà gần hai tuần ăn tết.

Chúng tôi vừa mới nhận được tin 
Trung tá Vũ xuân Thông Khoá 17 Võ bị Quốc gia Đà lạt -------Liên đoàn 81 Biệt Cách Dù -- 
vừa mới qua đời sáng sớm hôm nay thứ Tư 12 tháng 3 năm 2025 tại Hoa Kỳ -sau thời gian Bạo bệnh
Khi hãng phim Giao Chỉ của nữ tài tử Kiều Chinh thực hiện bộ phim Mầu "Người Tình Không Chân Dung " do cố đạo diễn
Hoàng Vĩnh Lộc thực hiện - Trung tá Vũ xuân Thông đã được tham gia một vai trong phim - Được biết thành phần nam nữ tài tử góp mặt trong cuốn phim "Người Tình Không Chân Dung " gồm có nữ tài tử Kiều Chinh - nam tài tử Tâm Phan - Minh Trường Sơn - Bảo Ân - Dương Hùng Cường - vũ xuân Thông v.v..
Bản nhạc chính trong phim là : ANH LÀ AI " sáng tác cố nhạc sĩ Hoàng Trọng - Dạ Chung - Bộ phim cũng đoạt giải thuởng Văn học Nghệ thuật năm 1973 của cố Tổng thống Nguyễn văn Thiệu
Vĩnh biệt Trung tá - tài tử Vũ xuân Thông - Nguyện cầu anh sớm về Cõi Vĩnh Hằng .
Nguyễn Toàn ký gỉa Tân nhạc & Điện Ảnh


Mời đọc một bài viết của ông Nguyễn Cao Thái cũng lấy tựa đề 'Người Tình Không Chân Dung' đăng trên báo Việt Báo ngày 25/02/2013

Người Tình Không Chân Dung 

25/02/2013 TháiNC
Tác giả đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ năm thứ XII, 2012. Ông tên thật là Nguyễn Cao Thái, sinh năm 1959 tại Huế, vào Saigon 1968, vượt biển đến Mỹ 1979, hiện định cư tại San Jose, CA.

Buổi văn nghệ kéo dài đến gần cuối thì một màn múa được giới thiệu rất đặc biệt, màn múa nón “Hình Ảnh Người Em Không Đợi”, sáng tác của nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ được các nữ sinh lớp mười trình diễn.
Tiếng nhạc đệm ghi-ta vang lên và tám tà áo dài trắng với chiếc nón lá trên tay thướt tha bước ra sân khấu. Cả toàn trường đang ồn ào trong không khí văn nghệ của ngày lễ tết bỗng chìm xuống. Tất cả mọi người đều tạm ngưng câu chuyện, hướng về sân khấu thưởng thức những tà áo thướt tha di chuyển nhịp nhàng trên sân khấu. Tiếng hát thánh thót từ phía sau sân khấu bắt đầu vang lên

Ngày nào em đến
áo em màu trinh
Áo xinh là xinh
Áo em trong trời buồn
Là gió…
Là bướm…
là hoa…
Là mây chiều tà
...
Trong khi tất cả các bạn tôi, những cậu bé đang độ bắt đầu lớn và biết chú ý đến con gái, đều như bị những tà áo trắng lượn bay trên sân khấu thu hút, thì tôi cũng sững sờ nhìn lên không phải bằng đôi mắt mà bằng …đôi tai.

Đúng vậy. Tôi bị giọng ca sau hậu trường sân khấu đó hớp hồn ngay từ lời ca đầu tiên. Những tà áo trắng và từng chiếc nón lá trên sân khấu với tôi như là những vũ công phụ. Chính những nốt nhạc trầm bổng, từng chữ thánh thót từ giọng ca phía sau hậu trường mới chính là vũ công duy nhứt thực sự nhảy múa trên sân khấu.

Rồi từ hôm ấy
nón em làm thơ
Nón em dệt mơ
đã ghi trong cuộc đời
Hình bóng người em
mà anh ngàn năm đợi chờ.
Hình bóng người em
mà anh ngàn năm đợi chờ.
Hình bóng người em
mà anh ngàn năm đợi chờ.

Hai câu cuối của bài hát được lặp lại ba lần vừa đủ cho tám vũ công, mỗi bên bốn người rút vào sân khấu.
Màn múa chấm dứt. Bài hát đã ngưng. Nhưng giọng ca mê hồn của người phía sau sân khấu đó vẫn ngân nga vang đi vang lại in sâu trong đầu.
Tôi không biết mặt cô ấy. Cao hay thấp, ốm hay mập … Hoàn toàn không. Chỉ biết một điều duy nhứt, do thằng bạn nói cho biết rằng, hát hay khủng khiếp như vậy trong trường mình chỉ có một người, tên là Lệ Trâm.
Sau hôm đó, tôi cứ bị bài hát ám ảnh. Và nếu định nghĩa “yêu” là ngồi đâu cũng nhớ đến…cái giọng của người đó thì đích thị tôi đã yêu rồi. Yêu say đắm lận chứ không phải chơi. Người đó là ai, mặt mũi thế nào, không cần thiết. Chắc chắn là phải đẹp thôi. Giọng ca như vậy thì người cũng phải tương xứng chứ. Còn người ấy đẹp làm sao thì tôi mặc tình mà tự vẽ lấy trong đầu.
Tôi đang học lớp chín, đệ tứ. Còn Lệ Trâm thì trên tôi một lớp, đệ tam.
Bây giờ tôi đang ở Mỹ. Con gái út của tôi học lớp năm. Trường con tôi học hằng năm có một ngày gọi là International Day. Ở những tiểu bang khác, hoặc học khu khác thì tôi không rõ, chứ miền Bắc Cali này quy tụ rất nhiều sắc dân trên thế giới về định cư. Có một số trường mà học sinh bản xứ Mỹ chỉ là thiểu số, còn lại tuyệt đại đa số là gốc Việt, Tầu, Phi, Mễ, Ấn vv. Ở những trường như vậy, họ có một ngày như đã nói là ngày Quốc Tế để tất cả học sinh thuộc mọi sắc dân trong trường trao đổi văn hoá với nhau bằng hình thức đóng góp văn nghệ giúp vui, nấu đồ ăn, hay là biểu diễn một cái gì đó đặc thù của dân tộc mình. Một ngày rất vui và có ý nghĩa, nhất là các tiết mục do chính các em học sinh tiểu học biểu diễn.
Lúc nhìn tờ chương trình văn nghệ của các em hôm nay tôi chú ý ngay đến tiết mục

MUA NON
- Vietnamese dance
Preformed by: Le Trinh & Le Trang (4th grade)
Hai chữ MUA NON hay là Múa Nón gợi lại trong tôi màn vũ và bài hát đầy kỷ niệm của thời học sinh năm nào. Nhất là tên hai cô bé Le Trinh và Le Trang. Có liên hệ gì đến hai chữ Lệ Trâm không nhỉ ?

Tôi nao nức kiếm được một chỗ ngồi rất tốt ngay hàng đầu của hội trường. Đợi khoảng nửa tiếng thì đến đến màn mong đợi. Hai cô bé Việt Nam giống nhau y hệt, rõ ràng là một cặp sinh đôi, trong chiếc áo dài truyền thống của Việt Nam bước ra sân khấu. Áo dài màu tím nhạt hoa cà. Trong tay mỗi em cầm một chiếc nón lá. Sau khi để hai bé cúi chào khán giả đang vỗ tay nồng nhiệt cổ vũ, người giới thiệu chương trình quay sang một phụ nữ đứng bên cánh sân khấu và giới thiệu tiếp “… Và đặc biệt, chính mẹ của hai em sẽ ca cho hai em múa”.

Tôi cố mở lớn mắt nhìn người phụ nữ cũng trạc tuổi của tôi, tươi tắn trong một tà áo dài xanh cất tiếng thánh thót:

Ngày nào em đến
áo em màu trinh
Áo xinh là xinh
Áo em trong trời buồn
Là gió…
Là bướm…
là hoa…
Là mây chiều tà

Trời ơi, đúng là bản “Hình ảnh người em mong đợi”

Ôi, tôi như đang sống trong mộng. Có lý nào đây là Lệ Trâm, người tình không chân dung và…chưa bao giờ quen biết của tôi? Người mà năm xưa tôi đã trăm nhớ ngàn thương dù chỉ qua giọng ca sau lưng sân khấu của một thời? Cũng bài hát này, điệu múa này, giọng ca này, từng nốt nhạc trầm bổng đã in sâu trong đầu tôi hằng bao nhiêu năm qua …

Tôi cố nhìn và lắng nghe tiếng hát, mong tìm lại được một nốt nhạc nào đó quen thuộc để chứng tỏ đó là Lệ Trâm !

Có bao giờ xóa nhòa tà áo trắng
Hình dáng người em không ngóng chờ
Một bài thơ đẹp thêm tình duyên trên nón em

Hai bé đang múa hình như bị khớp vì khán giả vỗ tay ủng hộ nhiều quá bắt đầu loạc choạc. Người mẹ đang hát thấy vậy bèn tiến ra cùng múa chung. Cô vừa hát vừa múa hướng dẫn cho hai con. Tiếng hoan hô lại càng vang dội cả hội trường hơn lúc nào hết.

Rồi bài hát sắp chấm dứt. Mẹ hai cô bé đi trở lại bên cạnh sân khấu hát ba lần câu “hình bóng người em mà anh đợi chờ.” Trong khi hai cô bé chia làm hai cánh đi trở lùi vào sân khấu.

Kết thúc của bài múa giống y như năm nào của trường tôi trình diễn, như là cùng một đạo diễn vậy.

Màn vũ chấm dứt. Ba mẹ con trở lại sân khấu chào khán giả trong tiếng vỗ tay vang dội. Không hiểu vô tình hay vì đã để ý tôi là khán giả nồng nhiệt vỗ tay hăng say nhứt trong đám đông phía dưới, người mẹ quay về phía tôi cười duyên dáng gật đầu chào như để cám ơn làm tim tôi muốn nhảy ra ngoài. Suýt nữa tôi đã cầm lòng không đậu tiến lên hỏi “Có phải cô là Lệ Trâm?”

Trên đường về nhà, ngồi trên xe vợ hỏi
- Màn trình diễn múa nón dễ thương quá hả anh?
Ây dza, không biết hồi nãy tôi có quan sát “ca sĩ” kỹ quá, quên mất vợ lúc đó cũng đang ở bên cạnh.
- Hay thiệt. Hai con bé dễ thương ghê.
Tôi ậm ừ cho qua, và cố ý đánh lạc hướng.
Nhưng vợ đâu có buông dễ dàng
- Nhất là mẹ nó đẹp và hát hay quá hả anh?
Tôi đã bắt đầu cảnh giác, nên đỡ chưởng này liền tức thì
- Hát hay thì đúng rồi chứ đẹp thì… OK thôi, gì mà “quá” lận.
Nàng tỉnh bơ bồi tiếp
- Hồi nãy anh ra ngoài, em có hỏi được số phone của cổ nè.
Tôi rúng động, buột miệng
- Chi dzậy? Anh đâu có quen với cổ đâu?
Nàng trừng mắt
- Mắc mớ gì anh?
Tôi cố cười hì hì dã lã
- Nói vậy mà, nhưng em hỏi số phone của cổ làm gì?
- Tính làm quen. Lễ Phật Đản sắp tới trường em có văn nghệ. Nhờ ba mẹ con tới dạy mấy đứa học trò em múa nón giống hồi nãy, và nhờ cô ấy hát luôn.
À té ra vợ tôi méo mó nghề nghiệp.
Chuyện là từ ba năm nay mỗi tuần ngày Chủ Nhật nàng tới chùa dạy việt ngữ. Năm nào cũng vậy, mỗi dịp lễ Phật Đản chùa làm lễ lớn, và đều có phần văn nghệ do các cô giáo cùng học trò Việt ngữ phụ trách. Vợ tôi gặp nhân tài như vậy làm sao bỏ qua cho được.
Tôi vừa nhẹ thở chút, mới quay đi thì nàng xoè bàn tay có mảnh giấy nhỏ nói

-Tên và số phone của cổ nè.

Tôi lại nghe tim đập thình thịch trở lại, đang lái xe mà cũng run run ráng liếc sang miếng giấy.
Ô la la Ô la la !
...

Đố bạn biết người đó có phải là Lệ Trâm không nè?./.

ThaiNC
Subject: Vĩnh biệt tài tử Vũ Xuân Thông của ‘Người tình không chân dung’
To: thuy <k768kq@googlegroups.com>

Vĩnh biệt tài tử Vũ Xuân Thông của ‘Người tình không chân dung’


Tài tử Vũ Xuân Thông trong phim “Người tình không chân dung” từ trần sáng 12 Tháng Ba, 2025 tại Hoa Kỳ.

Vũ Xuân Thông là bà con bên vợ của nhạc sĩ Hoàng Nhạc Đô. Ông là trung tá Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù, một trong những nhân vật kiên cường và tài ba của quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Ông được biết đến không chỉ với tư cách là một chiến sĩ của Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù dũng cảm, mà còn là một tài tử nổi danh được nhiều người mến mộ.

Vũ Xuân Thông tốt nghiệp Khóa 17 Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam, nơi đào tạo những sĩ quan tài giỏi, có kiến thức chuyên môn vững vàng và phẩm chất đạo đức cao. Sau khi ra trường, ông gia nhập quân đội và nhanh chóng khẳng định được tài năng và bản lĩnh trên chiến trường. Đặc biệt, với sự tham gia vào Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù, ông đã góp phần làm nên những chiến công vang dội trong nhiều trận chiến cam go như An Lộc, Cổ Thành, Ashau, A Lưới, Phước Long, Tam Biên …

Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù, đơn vị tổng trừ bị thiện chiến của Quân Lực VNCH (tiền thân là Lực Lượng Đặc Biệt), luôn là lực lượng đặc biệt được tin cậy trong những nhiệm vụ quan trọng của tổng thống và Bộ Tổng Tham Mưu. Trung Tá Vũ Xuân Thông đã dẫn dắt các chiến sĩ, luôn thể hiện sự quả cảm và kiên trì không khuất phục trước kẻ thù. Sự dũng cảm và tinh thần hy sinh vì Tổ Quốc của ông đã truyền cảm hứng cho nhiều thế hệ lính trong quân đội.

Ngoài tài năng quân sự, Vũ Xuân Thông cũng là một người thầy, người lãnh đạo có trách nhiệm trong việc truyền đạt kiến thức và kinh nghiệm cho các thế hệ kế cận. Sự nghiệp của ông góp phần vào sự nghiệp phát triển và chiến đấu của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa trong suốt những năm tháng đầy gian khó.

Vũ Xuân Thông từng chia sẻ: “Tôi là một người lính sống sót sau 15 năm khói lửa, 13 năm tù đày trong các trại tù khổ sai của CSVN từ Bắc chí Nam.”

Sáng ngày 12 tháng 3 năm 2025, Trung Tá Vũ Xuân Thông từ trần tại Hoa Kỳ, để lại niềm tiếc thương vô hạn cho gia đình, đồng đội và tất cả những người đã từng biết đến ông. Sự ra đi của ông là một mất mát lớn đối với cộng đồng người Việt, đặc biệt là với những ai đã chứng kiến sự nghiệp oanh liệt của ông trong quân ngũ.

Trung Tá Vũ Xuân Thông, lúc đó ông mang cấp bậc đại úy, là người đã bàn giao chức vụ toán trưởng toán 3 Thám sát/DELTA, về làm trưởng ban 3 của Trung tâm/huấn luyện hành quân/DELTA. (Hình: Facebook “Dâu Nguyễn” – chiến hữu của Trung Tá Vũ Xuân Thông ở Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù.)

Nói tới Vũ Xuân Thông không thể không nói tới “Người Tình Không Chân Dung.” Đây là bộ phim điện ảnh miền Nam năm 1971 của đạo diễn Hoàng Vĩnh Lộc, với sự tham gia diễn xuất của diễn viên Kiều Chinh. Bộ phim ca ngợi hình ảnh người lính của Quân Lực VNCH.

Nội dung phim nói về Mỹ Lan, một phát thanh viên của chương trình “Tâm tình chiến sĩ” trên đài phát thanh, đến gặp một đại tá quân đội VNCH xin được vào chiến trường để tìm người yêu. Sau sự từ chối ban đầu, cuối cùng vị đại tá cũng đồng ý cho Mỹ Lan vào chiến trường. Một đại úy tên Thịnh đưa cô đi…

Vào chiến trường, Mỹ Lan đã được chứng kiến đời sống của những người lính khi ấy. Dù đã đi nhiều nơi, nhưng vì không có nhiều thông tin về người yêu, nên cô vẫn không tìm thấy. Sau một thời gian, cô nhận được tin người lính cô tìm đang bị thương… Người Tình Không Chân Dung là một cuốn phim rất thật, rất người, rất đời khi nói về thân phận, về suy nghĩ, về cuộc sống trong ranh giới mỏng manh giữa sự sống và cái chết của những người lính trẻ.

Khi thực hiện bộ phim này, chi tiết, diễn viên, bối cảnh, đối thoại… thay đổi, và được viết thêm từng ngày. Kinh phí cũng rất thấp, nhưng phim được sự bảo trợ của Quân Lực VNCH nên đã có sự góp mặt của các tài tử nổi danh cùng thiết bị quân sự tối cao và đặc biệt là sự xuất hiện của đại biểu toàn thể các binh chủng VNCH như Hải Quân, Lục Quân, Không Quân trong phim… “Người tình không chân dung” đạt giải chủ đề phim xuất sắc nhất và Kiều Chinh là nữ tài tử chính khả ái nhất tại đại hội điện ảnh Á Châu lần thứ 17 tại Đài Bắc ngày 9 Tháng Sáu, 1971.

“Người tình không chân dung” không chỉ vì nội dung sâu sắc mà còn vì diễn xuất ấn tượng của các diễn viên, trong đó có Trung Tá Vũ Xuân Thông. Bộ phim này thành công rực rỡ và trở thành một tác phẩm kinh điển của điện ảnh Việt Nam, mang đến nhiều cảm xúc sâu lắng và những thông điệp nhân văn, đáng ghi nhận trong lịch sử phim ảnh Việt Nam.

Với vai diễn trong “Người tình không chân dung,” Trung Tá Vũ Xuân Thông khẳng định tài năng của mình và đưa tên tuổi lên đỉnh cao mới. Diễn xuất của anh mang đến sự chân thực, sâu sắc, và nhiều cảm xúc, giúp người xem không chỉ cảm nhận được sự phức tạp trong nhân vật mà còn hiểu hơn về những điều thầm kín trong mỗi con người.

Tưởng nhớ Trung Tá Vũ Xuân Thông, người đã dành cả đời mình để phục vụ Tổ Quốc, chúng ta sẽ mãi khắc ghi những đóng góp to lớn của ông cho đất nước, cho quân đội VNCH, và cho thế hệ mai sau.

Favorites 17h 
Farewell former Col (Special Force), and actor Vu Xuan Thong. RIP 🙏🙏🙏😪😪
Rat dau buon duoc tin cuu Dai Ta (luc Luong dac biet), dien vien dien anh Vu Xuan Thong - "Thinh Su Tu" cua Người Tinh Không Chan Dung, da qua doi. Xin chia buon voi chi Thong va toan the trong gia dinh.
Thong oi! Cau nguyen huong linh Thong len duong thanh than, binh an, một ngay nao do minh se lai gặp nhau. Thương Yeu🙏🙏🙏😪😪😪
Photo hang trên L-R, Vu Xuân Thong va Kieu Chinh trong phim Nguoi Tinh Khong Chan Dung, dao dien Hòang Vinh Lộc (đeo kinh đen, dung ke bên Kiểu Chinh) va doan tai tu cua phim Người Tinh Không Chan Dung trên san khau rạp REX Saigon, ngay ra mat phim.
Hang dưới , hinh anh Thong & Chinh qua nhung nam thang, gặp nhau tai Hoa Kỳ.



Vũ Xuân Thông
Tốt nghiệp Khóa 17 VBQGVN –
Trung Tá, LĐ 81 Biệt Cách Nhảy Dù

Love me or hate me, both are in my favor
If you love me, I am in your heart
If you hate me, I am in your mind

Như một lời tri ân chân thành đến tất cả các chiến sĩ Không Quân của KLVNCH đã ngày đêm tích cực yểm trợ Liên Đoàn 81 BCND chiến đấu để bảo vệ quê hương gấm vóc và hai chữ “Tự Do” …


Cho tôi xin dù chỉ một lần
Mơ làm cánh én giữa trời Xuân
Tang bồng hồ thỉ mang chí lớn
Rạng giống Tiên Rồng lính Không Quân.

*****

Công ty tôi đang làm nằm trên con đường Mirama Road, sát nách một phi trường lớn của Thuỷ Quân Lục Chiến Mỹ, nên bắt buộc mỗi ngày tôi phải đi và về trên con đường này. Và ngày nào cũng vậy, lộ trình của tôi đều đi qua khu bảo tàng Không Quân chứa đầy các loại phi cơ, từ thời có lỗ sĩ, từ thời tôi chưa được sinh ra trên cõi đời, cho đến những chiếc phi cơ của thời Đệ Nhị Thế Chiến và thời chiến tranh Việt Nam.

Cái khu bảo tàng này lại nằm sát đường chỉ cách một cái hàng rào bằng lưới chống B-40 (chain link fence). Mỗi lần đi qua khu vực này, tôi đều lái xe chậm lại và không khỏi liếc nhìn vào đó dù tôi đã quá quen thuộc với những loại phi cơ đang nằm phơi trên bãi đậu.

Từ những chiếc Avia B 534, Bell P-39 Airacobra từ những năm 1934…đến những chiếc Gruman Hellcat hay Bearcat, những chiếc F-5, Skyraider cho đến những chiếc trực thăng trái chuối CH-46 đầu tiên, H-34 nặng nề, chiếc UH1, Cobra …và cả chiếc L-19 Bird Dog mong manh rất quen thuộc với tôi. Ngoài ra mỗi ngày tôi còn phải nghe tiếng gầm rú của các loại phi cơ chiến đấu cất cánh và hạ cánh mỗi giờ, những ngày không khí ẩm thấp, tiếng cánh quạt của nhiều loại trực thăng nặng nề vang dội trên đầu đã thực sự gây cho tôi nhiều ấn tượng nhất.

Vì đó là những tiếng động đã quá quen thuộc với tôi hầu như đã tiềm ẩn trong trí nhớ tôi và không thể xóa nó đi được dù 37 năm đã trôi qua kể từ khi tôi giã từ cái nghiệp lính.

Năm nay tôi đã bước vào tuổi 75, vẫn phải đi làm, ngoài việc tiếp tục kiếm sống qua ngày trên mảnh đất tạm dung nầy, còn để ngăn ngừa sự thoái hóa của bộ óc càng ngày càng già nua …để rồi hủy hoại hết những điều cần phải nhớ. Tuổi già thì thường hay nói nhiều, nhớ nhiều về dĩ vãng. Thật ra con cháu tôi, chúng cũng thông cảm vì giờ đây tương lai của tôi, chỉ là đang bước dần tôi trạm cuối cùng, là cái nghĩa trang lạnh lùng nào đó.

Tôi là một người lính sống sót sau 15 năm khói lửa, 13 năm tù đày trong các trại tù khổ sai của cộng sản việt nam từ Bắc chí Nam, từ trại kỷ luật đến xà lim Chí Hòa. Thử hỏi cuộc đời của tôi còn lại gì ?
Cái gia tài của người lính như tôi còn lại há không phải là quá khứ của 15 năm trong quân đội hay sao? 15 năm trong một đời người như chúng ta, những người lính đã sống qua cuộc chiến ác liệt, đầy máu và nước mắt, vinh có nhục có và đôi khi buồn nhiều hơn vui, dù muốn quên cũng khó quên.

Ngay từ những năm đầu ở Trung Học, tôi đã rất ngưỡng mộ Không Quân dù chỉ qua hình ảnh của các anh phi công Mỹ, Pháp và Anh trong thời kỳ Thế Chiến thứ hai và trong thời gian chiến tranh Việt Nam vào những năm 50. Sau này khi bước chân vào bậc Trung Học Đệ Nhất Cấp tôi đã có ý định sau khi tốt nghiệp Trung Học tôi sẽ xin gia nhập vào Không Quân Việt Nam. Những mộng không thành vì khi khám sức khỏe ở Bệnh Viện Cộng Hòa tôi mới phát giác ra là thị lực của con mắt phải của tôi chỉ có 7/10. Thế là vỡ mộng, nhìn bạn bè rộn ràng lên đường gia nhập Quân Chủng Không Quân mà thấy tủi thân. Cuối cùng đành phải chấp nhận cái thân phận chui bờ chui bụi của cái lính đánh trộm là Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù. May cũng nhờ quen thuộc lối đánh trộm (đôi khi chúng tôi cũng ăn trộm được nhiều kho vũ khí và lương thực của địch) nên cũng có chút tiếng tăm và chiến công góp phần với các quân binh chủng bạn, đã làm cho kẻ địch suy yếu. Nhưng nếu nói đến cái đơn vị bé tí teo và những chiến tích mà chúng tôi đã lập được cũng nhờ những đôi cánh thép, như một thứ bùa hộ mạng, như cái ô dù che chở trên đầu chúng tôi. Những đôi cánh thép đã mang chúng tôi đi hầu hết các chiến trường (ngoại trừ vùng IV chiến thuật vì lính BCD 81 không biết bơi).

(BCND được trực thăng vận vào An Lộc)

Đã bao lần không quản ngại trước lưới lửa phòng không của địch tua tủa như pháo bông để mang chúng tôi và xác đồng đội ra khỏi vùng vây địch. Qua hàng trăm cuộc hành quân, những đôi cánh thép đã mặc nhiên như gắn ngay sau lưng chúng tôi, đã chắp cho chúng tôi đôi cánh thép. Đơn vị của chúng tôi đã gắn liền với Quân Chủng Không Quân của các bạn.

Xin cho chúng tôi được hân hạnh nhận các chiến hữu Không Quân là bạn để dễ bể tâm sự và để nói hết những điều cần nói sau 37 năm dài. Vì không nói ra lúc này sẽ không có dịp nào để nói, giữa chúng ta từ lâu đã cư xử với nhau rất mực huynh đệ chi binh, nhưng cũng đầy hào khí giang hồ. Tôi sẽ không nhắc lại những chiến công oanh liệt của các bạn hay của chúng tôi. Tôi chỉ muốn nhắc lại những người đi vào chiến tranh với dáng vẻ hào hoa phong nhã, lúc nào quân phục cũng sạch bóng, trang bị nhẹ nhàng không giống như đám chúng tôi bao giờ cũng vậy hễ xuất quân là quần áo rằn ri, lôi thôi lếch thếch…nào là ba lô, súng ngắn, súng dài, giây nhợ quanh người, lựu đạn lủng lẳng đằng truớc, đằng sau. Mỗi lần được bốc ra khỏi vùng hành quân thì ôi thôi khỏi nói, dù có yêu tôi cách mấy cũng chỉ đúng xa mà chào mừng chứ chưa ai dám ôm hôn tôi thắm thiết. Mười lăm ngày hay một tháng luồn lách qua bờ bụi, lên xuống đồi núi dưới cái nắng nóng ẩm, mồ hôi rơi xuống mờ cả mắt lau không kịp. Bộ đồ trận lúc nào cũng đẫm ướt mồ hôi nhiều khi chẩy theo hai bắp chân xuống đôi giày đi rừng.

Đêm nằm trên chiếc poncho gấp đôi, mồ hôi vẫn còn đọng ướt cả lưng. Cứ như thế ngày này sang ngày khác, bộ đồ trận ướt rồi khô, bao nhiêu mùi hôi đều thấm sâu vào vải áo quần. May mắn lắm mới qua được một con suối còn lại chút nước, vội vàng múc cho đầy 2 bị đông nước, xong cùng nhảy xuống hụp cho ngập đầu rồi lại tiếp tục đi.

Ấy là những ngày không chạm địch, còn có thời gian ngồi xuống để thay một đôi vớ đã bốc mùi khó chịu. Những lần chạm địch thì coi như được phép quên đi những khó chịu hàng ngày, quên đi mình đã chưa ăn gì suốt một ngày qua, đã chưa uống một ngụm nước. Tàn cuộc thắng hay thua, lúc ấy mới biết mình còn đủ mồm miệng để ăn vội bọc cơm sấy. Còn các bạn tôi thật khỏe, ngồi trong buồng lái tha hồ tung hoành ngang dọc, hết phi vụ quay về phi trường, đi thẳng vào Câu Lạc. Bộ làm một ly cà phê đá, khỏe re trong lúc chờ cho các chuyên viên “check” tàu, tái trang bị bom đạn, “rocket” để chờ phi vụ tiếp theo.

Chưa nói đến vài ngày chúng tôi được xả hơi sau mỗi cuộc hành quân, cởi được bộ đồ hôi hám, thay vào một bộ quân phục mới để cùng xuống phố phường uống vài chai “33”cho đã bù lại những ngày phải uống nước sông nước suối. Nhưng nếu có xuống phố hay buổi tối tạt vào một tiệm nhảy nào lại đụng mấy bạn, và bao giờ chúng tôi cũng lép vế, lép về về đủ mọi phương diện. Đôi khi có một tí tình còm để an ủi những hễ chấm được cô nào vừa ý là y như rằng đã có một ông Không Quân nào sắp sửa rước đi rồi !!!

Nói cho vui vậy thôi chớ vội cho rằng chúng tôi đả kích các bạn nhé, thua thì thua rồi. Xưa còn trẻ đã không thắng các bạn, nay đầu đã bạc, chân mỏi gối mòn, hơi sức đâu mà ganh với đua . Trước khi nhắc lại những kỷ niệm đã qua, xin cho tôi nhắc lại một câu chuyện sau.

Vào tháng 1 năm 1975 khi Biệt Đoàn chúng tôi được lệnh tăng viện cho Tiểu Khu Phước Long, lúc này đang bị trên một sư đoàn địch vây hãm, các đơn vị địa phương hầu như đã tan hàng. Nói là Biệt Đoàn nhưng thật ra chỉ có 2 Biệt Đội 811, 814 và Bộ Chỉ Huy, tổng cộng khoảng 320 nguời. Không Đoàn 43 Chiến Thuật thuộc Sư Đoàn 3 Không Quân là đơn vị yểm trợ và đổ quân, dưới cơn mưa pháo 105 ly, 155 ly, hỏa tiễn 122 ly và súng cối, các phi đoàn trực thăng đã hoàn thành nhiệm vụ một cách phi thường với tổn thất không đáng kể.

Đích thân Chỉ Huy Trưởng của tôi, cựu Đ/Tá Phan Văn Huấn và Đ/Tá Triệu đã trực tiếp chỉ huy cuộc đổ quân. Nhìn từ trên trực thăng xuống thị xã Phước Long tôi nghĩ khó mà đáp được vì cả thị xã ngập trong khói lửa của đủ loại pháo chưa kể hỏa lực phòng không của địch tua tủa bắn lên đây trời với đủ loại từ đại liên 50, súng cá nhân, 23 ly và 37 ly. Tiếng đạn pháo nổ dưới đất cộng tiếng các loại phòng không nổ ngang trời nhắm vào các phi tuấn A-37 va F-5 đang cố thả những trái bom và bắn rocket yểm trợ cho cuộc đổ quân vang rền cả một vùng trời.

(BCND nhảy vào vùng địch)
Tôi chỉ còn trông cậy vào tài bay bổng của các bạn đưa tôi an toàn xuống đất, chỉ cần chúng tôi đặt được chân xuống đất, dù chưa biết sau đó sẽ ra sao. Và thật như một phép lạ, cả hai lần đổ quân đều trót lọt, tất cả đều nhờ tài khôn ngoan của phi hành đoàn. Thay vì đáp ngay xuống thị xã, các phi hành đoàn của Không Đoàn 43 Chiến Thuật đã đáp xuống cạnh các khe suối cạnh thị xã, là những nơi khuất tầm quan sát của các tiền sát viên địch. Địch đã bố trí quanh khu vực Phước Long một trung đoàn phòng không với đủ mọi loại súng từ 12 ly 8 đến 23 ly và 37 ly. Tiền sát viên của địch ở khắp nơi, nhất là đỉnh núi Bà Rá đã bị địch chiếm mấy ngày trước. Biệt Đoàn I Chiến Thuật của tôi chỉ gồm có Bộ Chỉ Huy và 2 Biệt Đội (Biệt Đoàn -), không quá 300 người. Lực lượng trú phòng của Tiểu Khu Phước Long và các đơn vị tăng phái không còn bao nhiêu.

Tiểu Đoàn 7 thuộc Trung Đoàn 9 của Sư Đoàn 5 chỉ còn không quá 100, Đại Đội 5 Trinh Sát, Sư Đoàn 5 chỉ còn hơn 10 người đã dạt vào đơn vị tôi, Đại Đội Trinh Sát Sư Đoàn 18 Bộ Binh còn Đại Đội Trưởng và hơn một trung đội. Hai Tiểu Đoàn Địa Phuơng Quân đã tan hàng, quân nhân còn lại cũng lẫn lộn trong hàng rào phòng thủ của Biệt Đội 811 của tôi. Cộng chung lại không quá 500 tay súng để chọi lại với lực lượng địch trên 10 ngàn với đủ bộ xe pháo mã tốt. F-5 và A-37 vẫn yểm trợ tích cực nhưng với một hệ thống phòng không chằng chịt không thể xuống thấp để có thể đánh bom chính xác hơn. Từ dưới đất tôi thấy chỉ một chút sơ hở là những chiếc F-5 và A-37 kia sẽ vỡ tung, có một vài trái bom đã rơi vào vị trí bạn …phải chấp nhận thôi .Dù sao sự hiện diện của những chiếc phi cơ này cũng khiến dịch không dám điều động thiết giáp tiến sát đến vị trí chúng tôi. Dân và lính bỏ đơn vị tràn ngập vị trí chúng tôi khiến không thể nào kiểm soát được, tuy vậy chúng tôi vẫn đẩy lui được nhiều đợt xung phong của địch và đã hạ được 4 chiến xa địch.
Vào lúc choạng vạng tối ngày 5 tháng 1 năm 1975, chiến xa địch và bộ binh tiến sát vị trí Bộ Chỉ Huy của tôi, sau đợt pháo 130 ly, 155 ly, 122 lý và 105 ly, chúng thả một toán đặc công vào 2 lô cốt trống , nhờ phát giác kịp thời nên chúng đã bị tiêu diệt ngay sau đó.

Suốt trong thời gian từ ngày 4 tháng 1 năm 1975 đến ngày 6 tháng 1 năm 1975, không lúc nào địch ngưng pháo vào vị trí chúng tôi, chúng mở nhiều đợt tấn công có chiến xa yểm trợ mong tiến sát vào vị trí chúng tôi. Sáng ngày 5 tháng 1 năm 1975, tôi đơn phương quyết định không cho C-130 thả dù tiếp tế nữa vì 1/2 khu vực thị xã đã rơi vào tay địch trước đó 2 ngày. Hầu như 9/10 những kiện hàng tiếp tế đều rơi vào tay địch, các phi vụ oanh kịch không hiệu quả, không còn pháo binh yểm trợ, không tiếp viện. Ở tại Quân Đoàn III, Trung Tướng Dư Quốc Đống từ chối lệnh thả phần còn lại của Liên Đoàn 81 BCND. Trong tình thế này, tôi buộc phải cho lệnh đơn vị rút khỏi Phước Long để bảo toàn đơn vị, tôi đã phải để lại hơn 60 xác đồng đội tại đây. Một điều đau đớn chưa bao giờ xảy ra trong lịch sử của đơn vị tôi. Tôi đã phải phân tán đơn vị tôi thành từng toán nhỏ, lợi dụng đêm tối, vượt qua hàng rào bao vây của địch để thoát ra ngoài. Phước Long thất thủ vào sáng ngày 6 tháng 1 năm 1975.
Trong lúc đơn vị tôi còn đang tìm cách vượt qua vòng vây của địch thì ngày 7 tháng 1 năm 1975 đã có một buổi họp cao cấp của Quân Đội, giống như tòa án quân sự, họ cố gán ghép việc thất thủ Phước Long là do lỗi của Không Đoàn 43 Chiến Thuật thuộc Sư Đoàn III Không Quân Biên Hòa. Thật là vô cùng phi lý nếu không nói là ngược ngạo. Trong khi các phi cơ của các Phi Đoàn Trực Thăng 221, 223, 231 237 … phi cơ L-19 còn đang bay tìm kiếm và bốc các toán đã vượt qua được vòng vây địch thì tại hậu phương họ đang bị kết tội.

Trách nhiệm làm mất Phước Long nếu nói thuộc về tôi, người đã tự quyết định rút khỏi Phước Long, cao hơn là vì chỉ huy trực tiếp của tôi đã không buộc tôi phải hy sinh cả đơn vị để cố thủ một vị trí mà gần như đã hoàn toàn chiếm giữ bởi quân địch. Chúng tôi còn sống sót không trách cứ bất cứ cấp chỉ huy nào. Người lính chỉ biết tuân hành mệnh lệnh nhưng rõ ràng trách nhiệm làm mất Phước Long thuộc về người đã ra lệnh thả một đơn vị 300 người vào chỗ cầm chắc 90% để thua về một mục đích chính trị. Một ván bài tháu cáy, và đã thua, là khởi sự cho sự sụp đổ sau này.

Tôi đã ghi ở phần trước là giữa Không Quân và các anh em 81 BCND, ngoài tình huynh để chi binh, chúng tôi còn có một cái nghĩa “giang hồ”. Trong buổi họp, Đ/Tá Huấn, Chỉ Huy Trưởng 81 BCND đã dũng cảm tuyên bố trước mặt các tướng lãnh:

“Mất Phước Long, lý do tại sao quý vị đều biết nhưng không ai nói ra. Phần Liên Đoàn 81 chúng tôi vào chỗ chết đã đành bởi nghề nghiệp chúng tôi là chọn chỗ chết để đi vào. Riêng các anh em Không Quân, các phi hành đoàn trực thăng đã làm quá bổn phận của họ, đã chết lây với chúng tôi, thật tội nghiệp. Nay đưa họ ra tòa, tôi cho là vô lý, nếu có lỗi làm mất Phước Long, tôi nhận lỗi. Xin quý vị tiếp tục họp và cho tôi biết kết quả, tôi xin phép ra về vì còn nhiều việc phải làm”

Mãi 2 ngày sau, tôi và Bộ Chỉ Huy mới thoát ra khỏi được vòng vây địch. Ban đêm di chuyển qua các bãi trống, tôi phát giác được nhiều chốt của địch đang bám giữ các bãi đáp này. Sáng cuối cùng chúng tôi tới được một nương sắn (khoai mì), đã thấy nhiều trực thăng đang bốc các toán lẻ cách thị xã khoảng 5 đến 10 cây số. Tôi không còn máy để liên lạc với họ vì chiếc mày truyền tin PRC-25 cuối cùng đã bị Hiệu Thính Viên của tôi đánh rớt xuống nước khi vượt qua sông vào buổi tối. Phương tiện liên lạc duy nhất là một mảnh kiếng nhỏ bằng 2 đầu ngón tay, tôi cũng không hy vọng được bốc ra. Ở tại Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn, mọi người đều nghĩ tôi đã tử trận hoặc bị bắt . Còn đang kiểm điểm xem còn lại bao nhiêu người trong BCH của tôi, bất chợt tôi nghe lùng bùng ở tai. Tôi biết đang có trực thăng bay rất thấp vì tiếng quạt gió làm rung chuyển lớp không khí còn ướt hơi sương, chỉ trong một khoảnh khắc ngắn chiếc chiếc trực thăng UH1 đã ở ngay phía trước. Anh em vội bẻ gẫy một số cây khoai mì, trong lúc đang ra dấu cho trực thẳng vào vị trí, tôi chợt nghe nhiều loạt súng cá nhân từ các đồi bên cạnh bắn qua, có lẫn cả tiếng nổ của đạn súng cối bắn vào vị trí quanh bãi đáp. Vì số cây khoai mì còn nhiều nên trực thăng chỉ lơ lửng trên đầu ngọn cây khoai mì, anh em tự nhảy lên bám vào càng leo lên rồi kéo người khác lên. Đạn bắn càng lúc càng gần, đốn gẫy các cây mì chung quanh.
Vì đạn địch bắn quá gần nên phi hành đoàn buộc phải cất cánh vội vàng. Tôi và Đ/Úy Thành, sĩ quan liên lạc Không Quân (ALO) phải nhảy lên mới bám được vào càng bên trái của chiếc trực thăng.

Khi anh em kéo tôi lên được trên sàn tàu, tôi phải xoay người lại nhờ anh em bám chặt hai chân, cúi xuống nắm lấy hai cổ tay của của Đ/Úy Thành và la lớn để anh thả hai tay ra thì tôi mới kéo anh lên được. Những Anh Thành vẫn không chịu buông tay ra và la lên “Cho tàu đáp xuống” …khi chiếc trực thăng đã bốc lên cao khoảng 200 bộ , bỗng nhiên anh bỏ tay ra không báo trước nên tôi đã để vuột anh. Nhìn anh rơi xuống như một chiếc lá rụng, chiếc áo jacket da bò xòe ra như một cánh bướm mất hút với tiếng là thảm thiết của anh, tôi như người mất hồn…Cả phi hành đoàn đều cúi xuống nhìn anh rơi mà không màng đến hàng trăm viên đạn phòng không đang túa theo chiếc trực thăng đang nặng nề rời bãi.

Chiếc trực thăng duy nhất của Không Đoàn 43 đó Tr/Uy Sơn (Sơn Rỗ) lái đã phải cất cánh với 32 nguời kể cả phi hành đoàn, nó đã bị quá tải (overtorque), chỉ bay mà không đáp được nữa vì nếu đáp sẽ không còn có thể cất cánh được nữa.

Trong đời binh nghiệp của tôi từ khi còn là một toán trưởng thám sát cho đến khi trở thành một cấp chỉ huy cao hơn, chưa bao giờ tôi phải ân hận như thế, đã để rớt Đ/Úy Thành. Hình ảnh của anh còn mãi trong tôi như một cơn ác mộng luôn đè nặng lên tôi trong nhiều năm.

Có rất nhiều phi hành đoàn trực thăng đã chết lây theo chúng tôi. Vì là một đơn vị lấy phương tiện không vận và không yểm là con chủ bài, hầu hết các cuộc hành quân của Liên Đoàn 81 BCND đến nằm trong vùng địch và sau lưng địch, không nằm trong tầm pháo binh, có khi còn phải chuyển tiếp qua căn cứ tạm để tiếp nhiên liệu vì thời gian bay của trực thăng không đủ bảo đảm số thời gian bao vùng. Nếu nói một cách tàn nhẫn hơn thì dù 81 BCND chỉ là một đơn vị nhỏ nhưng đã làm thiệt hại rất nhiều phi cơ của cả hai phía Hoa Kỳ và Việt Nam. Tôi đã sống hết đời quân ngũ trong chỉ một đơn vị duy nhất, 12 năm khởi đầu bằng nghề Toán Trưởng, leo lên đến được BCH/ Biệt Đoàn, tôi đã chứng kiến được nhiều điều đau xót. Quên sao được khi lần đầu tiên bước chân lên chiếc H-34 nặng nề như một con voi của Phi Đoàn 215 Thần Tượng, nhớ những Anh Vui, Vinh, Khôi, Mành, Trắng, Hiếu …Những con người hào hoa đã đưa chúng tôi vào những mặt trận “thắt cổ họng còn sướng hơn” như Bình Giả, Pleime, Đức Cơ, Đồng Xoài …và đã đón chúng tôi trở về trong niềm vui gặp lại vợ con, bằng hữu. Quên sao những bạn bè như Trọng, Vỹ, Bảo, Dõng, Duyên và hàng trăm phi công trẻ của Không Đoàn 43 Chiến Thuật, những cánh bay mong manh L-19 thủng hàng chục lỗ đạn. Quên sao được những buổi hàng đoàn trực thăng đáp xuống sân căn cứ hành quân ở Suối Máu, Biên Hòa, phi hành đoàn ngồi chờ phi vụ với một khúc bánh mì, gói xôi đậu xanh mua vội ở Biên Hòa. Những con người đã từng đối đầu với gian nguy cùng với chúng tôi qua bao nhiều mặt trận mà cuộc sống vật chất không đủ để nuôi vợ con, nhưng vẫn cười vang mỗi lần gặp gỡ.
Chúng tôi đã không có đủ khả năng để đãi các bạn một bữa cơm trưa thanh đạm mà phải để các bạn bay về căn cứ, nuốt vội bữa cơm ở Câu Lạc Bộ, để rồi lại phải tiếp tục suốt buổi chiều, có khi trở về khi trời đã tối. Thế mà các bạn vẫn cười, không có một lời phiền hà. Chúng ta đã đã cùng chiến đấu để không vì miếng cơm manh áo của chính mình mà vì để bảo vệ miền Nam tự do, tránh được cái họa cộng sản.

Mỗi lần đi tham dự ngày họp mặt của các Quân Binh Chủng bạn, nhìn lại các chiến hữu xưa, nay đầu đã bạc trắng bỗng bùi ngùi nhớ lại thân phận mình. Nhớ tới tôi đã chưa một lần gửi lời cảm ơn các bạn, vì lòng nhiệt thành của các bạn, biết bao nhiêu lần chỉ vì để cứu một người lính 81 BCND trong vòng vây địch, để rồi lại phải hy sinh cả phi hành đoàn, chúng tôi đã phải chấp nhận những tổn thất về nhân mạng. Chúng ta khác kẻ thù, chúng ta quý nhân mạng hơn, dù chỉ là một người lính bình thường. Biết bao lần tôi chứng kiến những chiếc trực thăng bị nổ tung khi vừa vào bãi đáp, không một người sống sót. Sự tiếp cứu sau đó chỉ để mang về những xác người đã cháy đen!!! Còn gì buồn hơn khi thấy người phi công thoát ra khỏi chiếc A-37 bị bắn cháy, chiếc dù cứ trôi theo gió rồi rơi vào đất địch. Hãy cảm nhận nỗi đau khổ của anh em chúng tôi, những người tiếp cứu một phi công L-19 của Không Quân Việt Nam bị bắn cháy chỉ mang về một thi thể trần truồng. Địch đã xỉ nhục hay căm thù đến nỗi lột hết quần áo của một người đã chết thân thế không còn nguyên vẹn. Cái bản chất cầm thú của kẻ địch đã đối xử với một người đã chết còn như thế, thử hỏi đối với những chiến hữu của chúng ta rơi vào tay địch còn phải chịu đựng những khổ nhục như thế nào? Bao nhiêu chiến sĩ Không Quân đã hy sinh, bao nhiêu người đã rơi vào tay địch?

Hoàng hôn ngày 27 tháng 4 năm 1975, giữa khung trời còn âm u khói từ kho bom phi trường Biên Hòa bị nổ trước đó vài ngày, tôi đứng bên nầy hàng rào nhìn hàng chục chiếc trực thăng cất cánh rời bỏ phi trường. Thế là hết, ẩn ý như một lời vĩnh biệt…đó là lần cuối cùng tôi nhìn thấy những cánh chim ấy, những cánh chim đã cùng chúng tôi trải qua bao gian nguy.

Bây giờ những cánh bay ấy có thể đã nằm mục rã ở một vài bãi phế thải nào đó, hoặc nằm sâu dưới đáy biển sau lần bay cuối cùng, hay may mắn hơn được nằm trong các viện bảo tàng chiến tranh. Nhưng những con người điều khiển chúng vẫn còn nhiều, lòng yêu nước và tinh thần dấn thân vẫn còn và mơ ước một ngày nào đó được bay trên vùng trời Tổ Quốc Việt Nam Tự Do.

Cuộc chiến tranh này chưa bao giờ chấm dứt, nó chỉ được thay đổi hình thức mà thôi … “Old soldiers never die; they just fade away.”
General Douglas MacArthur

A20 Vũ Xuân Thông

Liên Đoàn 81 BCND
(31 Tháng Mười Hai 2020)