Tuesday, August 19, 2025

KHÔNG HỔ DANH MỘT THIÊN THẦN QL/VNCH. - Cao Xuân Huy

Mời quý bạn đọc lại vài mẩu chuyện về người bạn đồng môn “bán trời không mời thiên lôi” nhưng có thừa loại máu “T++” của chúng ta, được mô tả qua ngòi bút dí dỏm pha lẫn ngậm ngùi của tác giả “Tháng Ba Gẫy Súng” Cao Xuân Huy.Trên chiến trường cứu sống đồng đội bị thương tích, trong khi ủ tờ ngoài tài nuôi chuột và đỡ đẻ cho lợn, Quan Ba Tu Bíp Nhảy Dù còn lập được một kỳ tích độc đáo khác do chính chủ nhân, cựu Trung Úy Công Binh kể lại: giải phẫu cho con gà mái của một bạn đồng tù đã mất thiên chức sinh đẻ, nhờ vậy chàng được người bạn này chia cho trứng gà để “bồi dưỡng” trong cơn khốn cùng.
<!>
Nếu không vì sự ngu dốt, kiêu ngạo lố bịch của lũ chó nhẩy bàn độc, đất nước đâu đến nỗi thua kém các nước láng giềng như bây giờ?

B’Ròm.
Ngu Như Lợn

Lý lịch của Mạnh chuột đọc được trên tờ trích ngang:
- Họ và tên: Nguyễn Đức Mạnh
- Cấp chức sau cùng: Y Sĩ Đại Úy, Đại Đội Phó Quân Y
- Đơn vị sau cùng: Sư Đoàn Nhảy Dù

Mạnh chuột không loắt choắt như cái biệt danh “chuột” mà anh em cùng trại đã đặt, mà Mạnh chuột to lớn, vẻ to lớn của một võ sĩ hạng trung đã đấu nhiều trận trên võ đài. Không to lớn thì sức mấy mà đi được lính Nhảy Dù.
Mồm miệng Mạnh chuột cũng không chu ra như cái biệt danh lạ lùng, giống như những đồng nghiệp “lương y” đang làm cán bộ, mà phải công nhận một cách “lô gích” là Mạnh chuột đẹp trai. Không đẹp trai, sáng sủa sức mấy mà học giỏi. Bác sĩ mà. Đã là bác sĩ thì tự động phải đẹp trai. Không tin, cứ hỏi các cô thì biết. Cái khoản học giỏi, anh em trong trại không ai thắc mắc, vì ở đây, chỉ cần sức khỏe chứ không ai cần học thức. Nhưng… cán bộ đồng nghiệp thắc mắc.

Một hôm, không hiểu vì hay phát biểu linh tinh, hay vì cái vẻ ngoại hình làm ngứa mắt cán bộ đồng nghiệp trong ban y tế trại, Mạnh chuột bị gọi lên chất vấn để bổ túc thêm cho bản lý lịch.

“Anh học đến đâu?”
“Bác sĩ.”
“Chúng tôi biết anh là bác sĩ rồi, nhưng anh học đến đâu?”
“Bác sĩ y khoa.”
“Này, tôi không đùa đấy nhé. Anh là bác sĩ thì chúng tôi biết rồi, nhưng anh học đến lớp mấy?”

Mạnh chuột ngớ ra. Cán bộ y tế vừa để khoe và cũng vừa để giải thích thật cặn kẽ cho tên bác sĩ Ngụy ngu dốt này hiểu câu hỏi:
“Tôi biết anh là bác sĩ rồi, nhưng anh học đến lớp mấy. Như tôi cũng là bác sĩ, tôi vừa học bổ túc xong lớp sáu.”
Cái sức học của Mạnh chuột, vì vậy, vẫn còn là một nghi vấn.
Đẹp trai, học giỏi, con nhà giàu.

Riêng cái khoản con nhà giàu thì không biết, không ai biết ngoại trừ chính Mạnh chuột. Có lắm kẻ con nhà nghèo vẫn được thăm nuôi soành soạch, và cũng có lắm kẻ con nhà giàu, bỗng dưng trở thành “con bà phước”. Mạnh chuột thuộc loại con bà phước trong trại nên cũng khó mà nói Mạnh chuột là con nhà nghèo hay con nhà giàu. Từ ngày trình diện đến giờ, chuyển qua bao nhiêu trại, có bao giờ Mạnh chuột được thăm nuôi đâu.

Tóm lại. Đẹp trai thì đúng rồi. Học giỏi, còn đang nghi ngờ. Con nhà giàu, không ai biết. Nhưng, đẹp trai, học giỏi, con nhà giàu chẳng để làm gì cả. Tất cả chẳng nói lên một tí cái gì cả, chẳng nhờ thế mà được thêm tí sắn, tí khoai nào cả. Nguyễn Đức Mạnh chỉ là một anh Y Sĩ Đại Úy Nhảy Dù bị phạt đang cong đít ra đào giếng. Hết.

Tóm lại, con người Mạnh “chuột” chẳng có gì đặc biệt cả.

***
Chỉ có một tí đặc biệt về cái biệt danh “chuột”.

Để “cải thiện linh tinh” cho cái bụng, để có một chút protéin cho cái thân hình vạm vỡ lúc nào cũng thiếu “chất tươi” này, Mạnh chuột chuyển khả năng từ một anh chuyên viên chữa người sang một anh chuyên viên chăn nuôi.

Một hôm Mạnh chuột vớ được một ổ chuột con, sau khi “sơi tái” vài con, Mạnh chuột đã “đầu tư” để lại một đực một cái. Mạnh chuột đào một cái hố, có rào ngăn cẩn thận, nuôi cặp chuột “bành tổ” này để làm “kinh tế”. Một thời gian không lâu, nhờ trời, bành tổ sinh “thái tổ”, thái tổ sinh “thái tông”, thái tông sinh thái… Ôi thôi, không biết đến tam tứ ngũ lục đời con cháu họ hàng nhà chuột. Cái hố không đủ sức chứa, Mạnh chuột bèn phát triển nghề nghiệp, nới rộng thêm hố mới đủ chỗ chứa cho nguồn cung cấp chất thịt này. Bạn bè đồng trại, nếu ai không sợ “thịt” đều được hưởng nhờ. Mà thực ra thì cũng chẳng ai sợ. Từ đó, Mạnh chuột được anh em “thân thương” đặt cho chữ “chuột” đằng sau cái tên đẹp đẽ, rất đàn ông, Mạnh.

Nhưng, đôi lúc, soi mặt vào vũng nước, Mạnh chuột cũng có cảm giác là hai má hơi hóp lại, miệng hình như có dài ra, nhòn nhọn, môi trên như có vẻ lúc nào cũng đang giựt giựt.

Tuy vậy, Mạnh chuột vẫn thường hãnh diện khoe với bạn cùng trại về sự tiến bộ, thức thời của mình:
“Trước 75, người ta đầu tư chất xám thì tao đi học. Bây giờ, người ta không cần chất xám nữa, mà chỉ cần ‘chất tươi’. Tao chăn nuôi để đầu tư chất tươi.”

Ngoại trừ chuyện chăn nuôi, tiêu thụ và phân phối cho anh em cùng đội những con chuột còn đỏ hỏn để làm chất tươi, Mạnh chuột chẳng có gì đặc biệt. Mạnh chuột sống lẫn vào đám đông thầm lặng, đúng như lời cán bộ vẫn mắng là “nín thở qua sông”. Giản dị một điều, Mạnh chuột biết mình là thằng hay bốc đồng, ưa đốp chát, không chui vào đám thầm lặng này thì, một sớm một chiều, chẳng lẽ lại chuyển “võ nghiệp” vừa bị mất cùng miền Nam sang thành “khẩu nghiệp”.

Mạnh chuột đã có lần tạo được một cái cớ để giữ sự im lặng. Một “ông” công an cán bộ tuổi cũng khoảng trên dưới mười tám, đứng khoa chân múa tay dạy dỗ đám “trại viên”, “thằng” trẻ nhất cũng gần ba mươi, “thằng” già thì đâu đó năm, sáu mươi tuổi, về cách giáo dục, nuôi dạy con cái trong nhà. Mạnh chuột điên lên được, nhưng, cũng may, Mạnh chuột tự tìm ra được một lý do là chính mình cũng chưa vợ con, thì làm sao “gây” với “ông” cán bộ này được.

Vậy mà, cái khẩu nghiệp đâu có tha cho Mạnh chuột, đã gọi là “nghiệp” thì làm sao mà thoát. Đã mang lấy “nghiệp” vào thân mà.

Hôm bác Tôn Đức Thắng chết, cả nước để tang, ai oán, sầu não trùm lên mọi cảnh vật, lên mọi người, nhất là các cán bộ. Vậy mà Mạnh chuột lại dám cười. Sau một ngày lao động cật lực “dâng lên bác” để tỏ lòng thương tiếc, để “biến đau thương thành hành động”, Mạnh chuột đã mặt mũi hớn hở cười cười đố bạn:
“Tao đố chúng mày biết tại sao Tôn Đức Thắng chết?”
“Thì tại già…”
“Thì tại bệnh…”
“Già gì, bệnh gì…”

Mạnh chuột đảo mắt nhìn quanh, điều chỉnh âm thanh chỉ vừa đủ cho đám bạn tù đứng quanh nghe, nhại giọng Nam:
“Thằng nào ‘đứt thắng’ mà ‘hổng chớt’.”

Không hiểu sao, dứt khoát là không có “ăng ten”. Lời đồn thằng này ăng ten, thằng kia ăng tên đều là láo khoét, đều là thất thiệt cả. Nhưng, không hiểu sao, ngay ngày hôm sau Mạnh chuột ta lết thẳng vào nhà biệt giam sau một trận “tự kiểm” toe người. Mặc dù Mạnh chuột nhất định không nhận tội giễu bác Tôn. Không lết sao được khi mà mặt mũi thì tím bầm, sưng húp lên, môi thì tưa máu tươi, người thì mềm như cọng bún.

Rõ ràng Mạnh chuột là một thằng không có học. Vì nếu có học, ai lại dại gì đi mua vui, chỉ được có mỗi một tiếng cười cho mấy thằng tù, để rồi được hưởng sự “khoan hồng” như thế này. Và cái sự “khoan hồng” này không biết còn kéo dài đến bao lâu.

Nhưng, chắc là không lâu, vì…

Mới qua đến ngày thứ ba, đang ngồi ngủ, dĩ nhiên là ngồi vì “nhà” biệt giam không đủ cao để Mạnh chuột đứng, và cũng không đủ dài để Mạnh chuột nằm. Đảng đã tha tội chết, và đảng chỉ tha tội chết thôi, chứ đảng không tha tội sống, đảng phải “chuyên chính” chứ. Biệt giam khơi khơi với cái tội dám mang bác Tôn ra mà cười như vậy là nhẹ lắm rồi.

Mạnh chuột đang ngồi ngủ, thì có tiếng lách cách mở ổ khóa. Giọng của “đảng” vang lên:
“Anh Nguyễn Đức Mạnh.”

Mạnh chuột thều thào qua đôi môi còn đang sưng tấy lên:
“Có.”
“Đi ra.”
“Chân tôi bị cùm, không đi ra được.”

Ánh đèn phin cực mạnh chiếu thẳng vào mặt làm chóa mắt; có những va chạm dưới chân, Mạnh chuột biết là có người mở khóa chốt cái cùm.
“Anh theo tôi lên khung.”

Chết mẹ rồi, tội này đâu phải là nhỏ. Thằng Trung Úy San bên Thủy Quân Lục Chiến chỉ vì cái tội đứng bên này hàng rào kẽm gai, khua chân múa tay cãi nhau với “đảng” ở bên kia hàng rào trước 75, vô tình bị nhận diện sau một buổi xem phim tài liệu để “học tập”. Chỉ vì cái tội đó thôi mà nó còn bị vứt xác ở bìa rừng, huống hồ… Vừa đi theo tên cán bộ, Mạnh chuột vừa hồi hộp. Nửa đêm nửa hôm khuya khoắt thế này mà gọi lên khung thì thế nào cũng có chuyện, hung chắc chắn là nhiều hơn kiết rồi.

Mạnh chuột giả vờ đau chân, mà không giả vờ cũng không được, chân bị cùm ba ngày làm thế nào mà không đau cho đươc. Mạnh chuột đi khập khiễng để kéo dài thời gian, theo dõi những hành động của tên cán bộ. Hung hay kiết sẽ lộ ra trên thái độ của anh chàng cán bộ này. Anh này tại sao hôm nay lại có vẻ hiền từ. Mặt không hầm hầm như mọi ngày, lại còn cả không hối thúc Mạnh chuột phải đi nhanh.

Vừa bước vào khung, cán bộ trực trại đã đợi sẵn, hỏi Mạnh chuột một cách “dịu dàng”:
“Anh là bác sĩ, vậy thì anh có biết đỡ đẻ không?”

Mạnh chuột hoàn hồn. À ra thế. Mẹ kiếp, hóa ra là chúng mày cần đến chuyên môn của ông. Tuy không phải là bác sĩ chuyên về sản khoa, nhưng thời còn là sinh viên đi thực tập, Mạnh chuột cũng đã đỡ nhiều ca rồi. Nhưng mà, ở đây có đàn bà đâu mà đẻ với đái. Vậy thì cái gì đây? Gì thì gì, chắc chắn là không phải đi theo thằng San là tốt rồi.
“Biết chứ cán bộ. Mà ở đây, tôi có thấy phụ nữ nào đâu.”

Tay cán bộ trực trại cười giả lả:
“Không phải là đỡ đẻ cho người, mà chúng tôi gọi anh lên để đỡ đẻ cho lợn.”

Máu tếu Nhảy Dù chảy nhanh trong cơ thể, Mạnh chuột nghĩ ngay đến Lịnh, tay chuyên môn thiến heo trong đội.
“Nếu đỡ đẻ cho lợn thì một mình tôi không đủ đâu, tôi lại đang đau. Cần phải gọi thêm người.”

Cán bộ sốt sắng hỏi:
“Anh cần thêm mấy người? Tôi cho gọi lên.”
“Cán bộ gọi cho tôi anh Lịnh, ở đội tôi. Tôi với Lịnh là đủ rồi.”

***
Hơi ấm từ đống lửa bập bùng trong chuồng lợn tỏa ra, Mạnh chuột và Lịnh “thiến heo” được ngồi sưởi là nhờ ơn mưa móc của con lợn sắp đẻ này.

Lịnh ngày xưa, trước khi đi lính lên đến Hạ Sĩ, chuyên sống bằng nghề thiến heo. Đúng ra, nếu không vì tính mê gái, nếu không vì muốn giựt le với cô em bán nước mía đầu đường Nguyễn Thiện Thuật, và nếu không bị lừa là cách mạng ra thông cáo học tập mười ngày cho sĩ quan cấp úy, nếu không… những tưởng sau mười ngày đi học tập cải tạo, Lịnh “thiến heo” được chính phủ cách mạng chính thức hóa được cấp bậc Thiếu Úy của mình, Lịnh “thiến heo” hăng hái đi trình diện, thì bây giờ đâu có phải là bạn cùng trại với Mạnh chuột.
“Đang ngủ ngon lành, anh lại phá tôi. Tôi có biết gì về vụ đẻ đái của mấy con heo bao giờ.”

Mạnh chuột nheo nheo mắt, cười cười:
“Mày sống bằng nghề thiến heo, tức là có dính dáng đến heo rồi. Cũng như tao là bác sĩ thì tao dính dáng đến đỡ đẻ vậy mà.”

Lịnh vẫn còn hậm hực:
“Vậy bộ anh muốn tôi ‘thiến’ con heo nái này à?”
“Không ai ngu như mày. Đỡ đẻ xong, ngày mai sẽ được nghỉ lao động, và thế nào mà không được bồi dưỡng một ít đường.”

Mạnh chuột được ân xá nhờ đỡ đẻ “đạt tiêu chuẩn”, một lứa tám con, không chết con nào nên được tha về đội, lại còn được nghỉ nguyên ngày hôm sau để bù lại suốt một đêm thức trắng đánh vật với lợn.

***
Đảng tha, nhưng “khẩu nghiệp” thì không tha. Mạnh chuột lại bị vạ miệng vì cái “vô học” của mình.

Thời gian này có “dịch” trốn trại. Đêm hôm trước điểm danh đủ, sáng hôm sau mở mắt ra là thiếu một vài mạng. Đảng tổ chức và lãnh đạo thành công mọi cuộc cách mạng, cho nên đảng không thể thất bại trong việc ngăn chặn chuyện trốn trại. Vận động mọi khả năng sáng tạo của đỉnh cao trí tuệ loài người, đảng nghĩ ra một cách kiểm soát tù không tốn công tốn của là bắt tù gác tù. Sau một ngày “lao động là vinh quang, trồng khoai lang là yêu nước”, tù được phân công thay nhau gác… tù.

Trong một ca “đón giao thừa một phiên gác đêm”, Mạnh chuột đã lỡ “vui xuân quên nhiệm vụ”, gác thì lơ là mà miệng lại còn nghêu ngao hát:

Giờ đây bên sông “mai” rụng tơi bời

Giờ đây em ơi “sao” mọc lên rồi

Lòng anh tan hoang thôi vỡ “đời” ơi…

Đảng còn đang tiến hành cuộc điều tra về gốc gác bài hát, vì đây là một bản nhạc vàng đầy phản động. Tại sao cách mạng thành công, miền Nam đã được hoàn toàn giải phóng, đem lại cơm tuy chưa ngon nhưng mà no, áo tuy chưa đẹp nhưng mà ấm cho nhân dân lao động anh hùng, mà lại dám nói là “thôi vỡ đời ơi”.
“Báo cáo cán bộ, đây là bài thơ cách mạng.”
“Cách mạng nào, anh lại bôi bác cách mạng phải không?”
“Báo cáo cán bộ, đây là bài thơ của cán bộ cách mạng thật mà.”
“Anh chỉ cho tôi xem cán bộ nào lại dám làm bài thơ phản động như thế này?”
“Bài này tên là ‘Hoa rụng bên sông’ của cán bộ Lưu Trọng Lư.”

Trong khi chờ đợi cuộc điều tra ngã ngũ, Mạnh chuột không bị vào nhà biệt giam, vì có dây dưa đến cán bộ Lưu Trọng Lư, dù rằng cán bộ khung chẳng ai biết cán bộ Lưu Trọng Lư là cán bộ nào. Cho nên Mạnh chuột được “tại ngoại hậu tra”, và đang cong đít lên mà đào giếng.

Đây là vùng đất mà chỉ có chó mới sống được một cách no đủ, vì chỉ toàn là đá với sỏi. Mỗi nhát cuốc bổ xuống là mỗi lần lửa tóe lên.

Mạnh chuột đào giếng qua đến ngày thứ hai mà mới sâu xuống được đâu ngang đầu gối. Cán bộ vệ binh luôn luôn mắng nhiếc “Anh giơ cuốc lên thì chim đậu, hạ cuốc xuống thì mối đùn”. Mạnh chuột giận lắm, ở cái xứ khỉ ho cò gáy này, lấy chó đâu ra chim với mối mà đậu với đùn. Có giận thì giận, có gì thì gì, Mạnh chuột vẫn phải cuốc và vẫn phải cắn răng “ngậm miệng mà không… ăn tiền”.

Nhưng cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng, buổi chiều ngày thứ ba, khi Mạnh chuột đang lui cui vét đất dưới hố để hất lên trên, cán bộ vệ binh đến cà khịa:
“Đầu óc anh vẫn còn hướng về bọn đế quốc Mỹ nên mới bảo ‘nà’ cách mạng đã ‘nàm’ cho đời anh tan hoang.”

“Đó là bài thơ của cách mạng mà, cán bộ.”
“Thơ thẩn gì, anh vẫn còn tư tưởng yêu Mỹ, kính Mỹ, thương Mỹ, sợ Mỹ. Tôi ‘nà’ đọc được tư tưởng của anh mà.”

Mạnh chuột im lặng không trả lời.
“Phát biểu thì ‘ninh’ tinh, ‘nao’ động thì trây ‘nười’.”

Mạnh chuột vẫn cắn răng cố nhịn, không nói. Anh cán bộ vệ binh thấy Mạnh chuột không nói, nghĩ ngay là nó đang khinh mình, tức giận quát một câu thật to:
“Anh ngu như ‘nợn’ ấy.”

Máu Nhảy Dù dồn lên mặt, mắt đổ lửa. Sẵn tay cầm cuốc, Mạnh chuột đứng bật dậy, những tưởng phen này thế nào cũng có “máu đổ thịt rơi”. Nhưng, trán Mạnh chuột chạm ngay vào mũi khẩu AK. Hơi lạnh của chất thép lan nhanh sang Mạnh chuột. Mọi động tác của Mạnh chuột như tê cóng, ngừng hẳn lại, chỉ còn ý nghĩ chạy trong đầu:
”Mày ngu như lợn thật, Mạnh chuột ạ.”

Cao Xuân Huy

 

Tôi không phải là nhà văn, nhà thơ gì cả nhưng không hiểu sao lại có duyên gặp gở và quen biết vài văn nghệ sĩ ở quận Cam như nhà thơ Du Tử Lê, nhà văn Phan Nhật Nam (bạn cùng khóa 18 VBĐL với ông anh tôi), nhà thơ Nguyễn Mạnh Trinh (bạn cùng khóa 7/68 KQ), nhà văn Hoàng Khởi Phong (bạn làm chung ở một hãng tiện tại Irvine), Cao Xuân Huy (bạn của NMT), nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang, Nhật Ngân hay uống cà phê ở quán Cobi trên đường Euclid... Hầu hết các ông đều giả từ cõi tạm này ngoại trừ nhà văn Phan Nhật Nam đang ở Santa Ana/Orange County, nhà văn Hoàng Khởi Phong nghe nói về VN sinh sống đã lâu và bặt tin từ đó?
Mời đọc cuốn Hồi ký nổi tiếng 'Tháng Ba Gãy Súng' của nhà văn Cao Xuân Huy:

Monday, August 18, 2025

LÁ THƯ HỘI NGỘ QUÂN Y SĨ 2025 [#27]

 
(Xin chuyển vào các Diễn Đàn Y Nha Dược và đến các Quân Y Nha Dược Sĩ không có trong các Diễn Đàn)

TIN MỚI NHẤT:
DS Lê Văn Khoa thông báo Đã có 210 người ghi danh (với khoảng 1 tháng bắt đầu chính thức tổ chức).
Và những người sau cùng là 115-DS Trần Xuân Quang TT13-D: 1 người (từ Úc qua)  
116-OB Nguyễn Thế Chiêu( em BS Chu Bá Học TT-12): 2 người
117-DS Nguyễn Thị An & Phạm Việt Dũng : 2 người DKSG 72
NS Lý Văn Quý cho biết lệ phí thu được kể cả tiền tặng (donation): $12775
Và đã chi, đặt cọc $1500 nhà hàng giữ chỗ. 

MỤC LỤC CỦA LÁ THƯ:
A. THỜI ĐIỂM VÀ ĐỊA ĐIỂM HỘI NGỘ QUÂN Y SĨ 2025
B. DANH SÁCH GHI DANH SƠ KHỞI
C. DANH SÁCH THAM DỰ CHÍNH THỨC (ĐÃ ĐÓNG LỆ PHÍ)
D. DANH SÁCH GHI DANH TRÌNH DIỄN VĂN NGHỆ
E. THÀNH PHẦN BAN TỔ CHỨC
F. THƯ MỜI CỦA TRƯỞNG BAN TỔ CHỨC
G. DANH SÁCH QUÂN Y NHA DƯỢC SĨ HY SINH TRONG CUỘC CHIẾN
H. VỀ ĐÂY VỚI NHAU (PHẠM ANH DŨNG) VƯƠNG ĐỨC HẬU 

********************
A. THỜI ĐIỂM VÀ ĐỊA ĐIỂM HỘI NGỘ QUÂN Y SĨ 2025
     
lúc 5 giờ chiều, ngày Chủ Nhật 09 tháng 11 năm 2025. 
tại Saigon Grand Center  
16149 Brookhurst Street 
Fountain Valley, CA 92708 
1(657)657-8889. 

Rất có thể chúng ta phải đổi thời điểm sớm hơn 1 giờ (vì số người muốn trình diễn văn nghệ quá đông) và phải đổi địa điểm vì số người ghi danh tham dự lên quá 200 người (với khoảng 1 tháng bắt đầu chính thức tổ chức). 
Nhưng nếu có cũng ở 1 chỗ gần đó để những người đã lấy vé máy bay hay khách sạn không bị ảnh hưởng. 
*********************

B. DANH SÁCH GHI DANH SƠ KHỞI
          https://docs.google.com/spreadsheets/d/1-DGzfe6-qvq_HQRkkeu5icsIVFApEpBL-8uHlzr5EMk/edit?gid=0#gid=0

Xin ghi danh ngay tại lekhoa1946@gmail.com
Hạn cuối ghi danh: 9 tháng 10, 2025 nhưng ghi danh càng sớm càng tốt.
Khi ghi danh sơ khởi xin cho biết email để tương lai Ban Tổ Chức sẽ gửi giấy mời.
********************

C. DANH SÁCH GHI DANH THAM DỰ CHÍNH THỨC
         https://docs.google.com/spreadsheets/d/1EPXbLm50ZNML8nlNS7SpBlczhSznNoM3/edit?gid=1628029398#gid=1628029398

Xin gửi lệ phí là $75/1 người càng sớm càng tốt và tiền ủng hộ (donation) nếu có thể.
Tiền dư sẽ tặng 1 hội thiện nguyện (charity organization).
Hạn cuối ghi danh chính thức đóng tiền: 9 tháng 10, 2025 nhưng ghi danh chính thức đóng tiền càng sớm càng tốt.

Ngân phiếu hay lệnh phiếu xin đề tên và gửi về:
Quy Van Ly
9462 England Ave
Westminster, CA 92683

Hoặc Zelle về:
Quy Ly
714-305-5199

********************
Vì thời gian có giới hạn, Ban Tổ Chức đã quyết định ngưng ghi danh vì số người muốn trình diễn quá 40 người.
Tổng dợt cùng ban nhạc: 6 tháng 11, 2025 tại 9462 England Ave., Westminster CA 92683.
********************

E. THÀNH PHẦN BAN TỔ CHỨC


Trưởng Ban: Nguyễn Ngọc Khôi
Phó Trưởng Ban: Nguyễn Thượng Vũ
Thủ Quỹ: Lý văn Quý
Văn Nghệ & MC: Lý Văn Quý, Vương Đức Hậu, Phạm Quang Tố và Nguyễn Lê Hương
Khánh Tiết: Nguyễn Lan Hương
Liên Lạc Tổng Quát: Phạm Hiếu Liêm  
Ghi Danh và Liên Lạc Dược Khoa: Lê Văn Khoa
Liên lạc Y Khoa Huế và Nhà Hàng: Vĩnh Chánh
Liên lạc Bắc Cali và Nhảy Dù: Đặng Vũ Báy
Thư Ký: Nguyễn Hiền và Phạm Anh Dũng
********************

F. THƯ MỜI CỦA TRƯỞNG BAN TỔ CHỨC


Kính thưa các niên trưởng và các đồng nghiệp, thưa các anh em:

Sau nhiều ngày suy nghĩ, chúng tôi, những người có trách nhiệm trong Diễn Đàn Quân Y Hiện Dịch, đã quyết định sẽ mở rộng diễn đàn đến các cựu quân y nha dược sĩ trưng tập và đặt tên mới là Diễn Đàn Quân Y Sĩ. Tên gọi ngắn gọn Diễn Đàn Quân Y Sĩ bao gồm tất cả các y nha dược sĩ của Quân Y Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.

Đó là lý do chính để chúng tôi kính mời tất cả các niên trưởng, đồng nghiệp và anh em cựu quân y nha dược sĩ hiện dịch, trưng tập và thân hữu tham dự buổi họp mặt lấy tên là Hội Ngộ Quân Y Sĩ 2025.

Buổi hội ngộ này sẽ tổ chức bắt đầu vào lúc 5 giờ chiều, ngày Chủ Nhật 09 tháng 11 năm 2025, tại Saigon Grand Center với địa chỉ: 16149 Brookhurst Street, Fountain Valley, CA 92708 và điện thoại: 1(657)657-8889.

Trong buổi hội ngộ, chúng tôi sẽ trình bày với tất cả quý vị dự tính mở rộng diễn đàn đến tất cả các cựu quân y nha dược sĩ trưng tập. Đây cũng là dịp cho tất cả chúng ta, đều trên dưới 80 tuổi, được gặp nhau, hàn huyên mà không giới hạn đơn vị gốc, khoá học...v… v… Chúng ta đều có thời khoác áo chiến binh, chiến sĩ  Việt Nam Cộng Hòa. Dù là trưng tập hay hiện dịch, chúng ta cũng đều đã chia sẻ hiểm nguy, hy sinh trong thời chiến. Và sau cùng cũng chúng ta tìm hiểu, học hỏi lẫn nhau.

Chương trình của Hội Ngộ Quân Y Sĩ 2025 dự định từ 5 giờ chiều đến 11 giờ tối sẽ có bữa ăn tối, những thuyết trình hay phát biểu về dự định thành lập Diễn Đàn Quân Y Sĩ, các trình diễn văn nghệ và dạ vũ.
Để tiến hành công việc tổ chức buổi Hội Ngộ, chúng tôi cần biết đại khái tổng số người tham dự và vì vậy ngay từ bây giờ xin quý vị ghi tên vào Danh Sách Sơ Khởi của buổi Hội Ngộ Quân Y Sĩ 2025 với Dược Sĩ Lê Văn Khoa tại địa chỉ email lekhoa1946@gmail.com. Xin cho biết tên họ đầy đủ và số khóa quân y hiện dịch hay trưng tập và số người sẽ ghi danh tham dự kể cả thân hữu.

Trong tương lai, chúng tôi sẽ xin được phép tiếp tục gửi thêm nhiều những tin tức, thông báo... về buổi Hội Ngộ  Quân Y Sĩ 2025.

Đa tạ và xin gặp lại vào ngày 09 tháng 11 năm 2025.

Kính thư,

Nguyễn Ngọc Khôi
YKSG 1969 / QYHD 16
Trưởng Ban Tổ Chức Hội Ngộ Quân Y Sĩ 2025
*******************

G. DANH SÁCH QUÂN Y NHA DƯỢC SĨ HY SINH TRONG CUỘC CHIẾN

          https://docs.google.com/spreadsheets/d/1dv_anqmgajt9sTpHIox9Wes7mWEYj3lTfM_vNbhrkJY/edit?gid=0#gid=0
********************

H. VỀ ĐÂY VỚI NHAU 
(Phạm Anh Dũng) Vương Đức Hậu hát:
          https://youtu.be/6SyIAMRPJ1g?list=RD6SyIAMRPJ1g 

Thursday, August 14, 2025

NHỮNG NGƯỜI LÍNH CŨ.... Đọc để Thương để Nhớ ... Bé Dương

Trong bài thơ “Dưới chân đồi Chu Pao” của nhà thơ Lâm Hảo Dũng, viết về trận đánh trên Quốc Lộ 14 dẫn vào Kontum trong Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, có hai câu:

“Chu Pao ai oán hờn trong gió
Mỗi chiếc khăn tang một tấc đường”

Chỉ hai câu thơ này thôi cũng đủ nói lên sự tổn thất to lớn của những người lính cũ thi hành sứ mạng bảo quốc an dân.
Những người lính cũ? Họ là ai?
....Họ là Lưu Trọng Kiệt, Lê Hằng Minh, Nguyễn Đình Bảo, Lương Quế Vượng, Mã Thành Cương, Lê Văn Khoắng, Nguyễn Viết Thanh, Nguyễn Viết Cần, Hoàng Ưng, Cao Hoàng Tuấn, Nguyễn Bá Tòng, Đỗ Cao Trí, Nguyễn Mạnh Dũng, Dương Hữu Trí, Mai Gia Thược...
....HỌ đã nằm xuống trên những chiến trường miền Nam hay trong các trại tù cải tạo điểm đầy trên quê hương sau ngày tàn cuộc chiến. Họ là những người lính cho nổ lựu đạn tự sát, người sĩ quan Cảnh Sát đã tuẩn tiết dưới chân tượng Thủy Quân Lục Chiến, là Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Trần Văn Hai... Họ là Nguyễn Hữu Luyện, Lê Tuấn Ngô, Nguyễn Trung Chính, Nguyễn Tấn Sang, Huỳnh Văn Của, Trần Văn Nam, Nguyễn Văn Cầu... ngày nay đã xa cố quốc nhưng lòng vẫn luôn nhớ về các đồng đội ngày xưa. Họ chỉ là một con số rất nhỏ, trong số bao nhiêu người lính Việt Nam Cộng Hòa, đã từng hy sinh trọn thời thanh niên chiến đấu để bảo vệ tự do, để cho người dân miền Nam được hưởng 21 năm tự do ngắn ngủi.
Bao nhiêu người lính VNCH đã nằm xuống để đổi lấy từng hơi thở tự do cho người dân. Họ và đồng đội đã hứng chịu bao gian nan khốn khổ cho hậu phương được những ngày bình yên. Mưa gió tầm tã miền tuyến lửa Đông Hà, nắng cháy rát mặt nơi Cao Nguyên, đất sình đen vùng Đồng Tháp dính nặng đôi giày sô không làm cho người lính sờn lòng. Họ vẫn luôn giữ vững tay súng bảo vệ từng phần đất tự do. Họ là những người lính Không Quân, Hải Quân. Họ là những người lính mũ đỏ, mũ xanh, mũ nâu.
.... Họ là những người lính “bùn lầy còn pha sắc áo xanh” của Sư Đoàn 1, Sư Đoàn 5, Sư Đoàn 18, Sư Đoàn 21, Sư Đoàn 22, Sư Đoàn 25... Họ là những người lính Thiết Giáp, Pháo Binh, Truyền Tin, Quân Cảnh, Biệt Kích, Nha Kỹ Thuật, Biệt Đội Người Nhái, Công Binh, Nữ Quân Nhân, Quân Y... Họ là những người lính dân quê của Địa Phương Quân, Nghĩa Quân. Còn nhiều nữa, họ còn là những thương phế binh Nguyễn Văn Nhạn, Bùi Văn Bon... với tấm thân tàn phế, vẫn còn lê lết chuỗi ngày tàn trong một tương lai đầy ảm đạm.
Tướng Douglas MacArthur đã nói:
“Old soldiers never die, they just fade away.”
Nhưng riêng với chúng ta, người lính Việt Nam Cộng Hòa không bao giờ bị phai nhạt và không thể bị phai nhạt. Vì họ là cha, là mẹ, là anh, là chị, là em, là bạn bè, là người láng giềng cùng xóm. Họ chính là chúng ta.
Vì vậy Nhớ Người Lính Cũ là điều chúng ta đã làm và phải làm hằng ngày, không phải chỉ qua một vài bài viết. Số báo nhỏ nhoi này chỉ là một nhắc nhở đến mọi người về nguồn cội của chúng ta, những người đang chịu ơn các vị anh hùng đó.
Người sĩ quan Quân Lực VNCH đó là một người lính dân quê, từng là Tiểu đoàn trưởng của một tiểu đoàn xuất sắc nhất của Sư Đoàn 7 Bộ Binh. Trong một trận đánh vào đầu năm 1968 ông bị trúng thương nặng nhưng vẫn cố gắng chỉ huy binh sĩ cho đến khi tàn trận. Vết thương thập tử nhất sanh trên ngực buộc ông phải nằm trong phòng Hồi Sinh gần một tuần lễ. Sau một thời gian dưỡng thương ông được đưa trở lại nắm đơn vị cũ. Vết thương vẫn không bao giờ hoàn toàn lành lặn, thỉnh thoảng vẫn rỉ máu, và nhiều lần ông phải dùng thuốc cầm máu. Ông đã có thể từ chối thượng lệnh nhưng tinh thần trách nhiệm của người lính VNCH với đồng đội đã buộc ông chấp nhận không một lời kêu ca. Một thời gian sau ông được thăng cấp và chuyển đi nhận nhiệm vụ mới. Ngày ông rời đơn vị, trong buổi lễ bàn giao, nhiều người lính đã rơi nước mắt từ giã vị chỉ huy cũ. Ông là lính tác chiến trọn đời binh nghiệp nhưng ông phải hứng chịu nhiều bất công, và ông đã cắn răng không than van chỉ vì “còn nhiều người lính khổ hơn mình.”
Được giải ngũ vào đầu năm 1975, một người mà trọn đời binh nghiệp là lính tác chiến, tưởng đã có thể sống một đời yên ổn bên gia đình sau bao năm chinh chiến thì biến cố 30/4/1975 ập đến. Ông được mời di tản nhưng chỉ có chổ cho một mình ông và ông đã từ chối vì không thể bỏ lại vợ con.
Sau khi trình diện học tập cải tạo ông bị đưa ra miền Bắc như nhiều sĩ quan khác của Quân Lực VNCH. Trước khi đưa mọi người lên xe lửa ra Bắc, bọn người thắng trận đã ra lệnh tịch thu tất cả những gì họ xem là có thể giúp tù cải tạo trong việc đào thoát, trốn trại. Thuốc men của ông mang theo để dùng cho vết thương cũ bị tịch thu dù đã có lý do chánh đáng.
Trong trại tại vùng Hoàng Liên Sơn, người tù cải tạo phải chịu những hành hạ lao lực. Mỗi ngày người tù phải kéo gổ từ dưới sông về trại trong những ngày rét buốc. Sức khoẻ của ông ngày càng suy yếu vì lao lực quá độ. Một ngày kia ông vấp ngã, bị thân cây đè và vết thương cũ vỡ ra. Ông xin ban quản giáo trại cho lại số thuốc men đã bị tịch thu. Họ từ chối. Sau nhiều lần nài nỉ của ông và các bạn cùng trại, ông được phát cho vài viên APC (một loại aspirin của quân đội cũ). Vài ngày sau ông chết đi. Thi hài ông được bó bằng tấm chăn vãi dù đã theo ông suốt cuộc đời chinh chiến và đem chôn ở một ngọn đồi gần trại.
Một điều tàn nhẫn cuối cùng, gia đình của ông không được thông báo về cái chết của ông, và giấy báo tử được Trưởng trại ký 18 tháng sau ngày ông mất. Mười sáu năm sau ngày ông mất, di cốt của ông đã được gia đình đem về an táng tại quê nhà.
Người lính già kể câu chuyện này thuộc một gia đình nông dân ở gần Phụng Hiệp. Thời trai trẻ, chỉ được học hành ít ỏi nhưng ông vui sống đời cày cấy bên thửa ruộng, con trâu như bao nhiêu người dân miền Nam chất phác khác. Lệnh Tổng động viên được ban ra, ông và người anh lớn sang Vĩnh Long đăng lính Nghĩa Quân, phục vụ dưới quyền của một người anh họ đang là Thiếu tá Quận trưởng của một quận tại đây.
Hai anh em ông tham gia vào mọi cuộc hành quân tuần tiểu, công tác bình định trong quận và được tiếng là gan dạ, dũng cảm. Trong một trận Việt Cộng tấn công vào quận lỵ, hai người đã đẫy lui nhiều cuộc xung phong và bảo vệ cho người anh họ Quận trưởng khi địch chen vào được phòng tuyến quận đường.
... Chiến tranh chấm dứt hai anh em trở về làng cũ. Dù chỉ là những người lính thường, không chức tước nhưng tại quê hương cả hai đều bị trả thù tàn khốc. Con cái bị cấm đến trường học, vợ bị cấm buôn bán tại chợ. Gia đình túng quẩn chỉ còn trông cậy vào mấy công ruộng nhà. Nhưng đám người chiến thắng vẫn không để yên cho họ. Hai người bị kêu trình diện mỗi đêm tại trụ sở công an.
“Tụi nó không làm gì mình hết, chỉ bắt mình ngồi đó độ mươi, mười lăm phút hay một vài tiếng đồng hồ rồi cho về. Vừa đến nhà nằm xuống, chưa kịp ngủ thì nó lại xuống gọi lên. Có đêm tụi nó làm như vậy vài lần. Ngày lễ của tụi nó thì mình phải lên ngồi cả ngày ở đó. Riết rồi không còn sức lực làm lụng gì được. Bị hành hà quá đến nỗi chú nói: “Mấy ông có muốn bắn muốn giết tụi tui thì cứ làm chớ đày đọa làm chi như vầy”.
Nhưng tụi nó cũng không tha. Ruộng vườn cứ bán dần mà sống. Buồn quá, nhìn vợ con nheo nhóc mà không làm gì được chú chỉ còn biết mượn rượu giải sầu đến khi vướng phải bệnh ghiền lúc nào cũng không biết. Thấy anh em chú thân tàn ma dại, không làm gì được nữa tụi nó mới chịu tha.”
“Cuộc đời của thằng lính thua trận như vậy đó con ơi!” Người lính già nấc lên, nước mắt chảy ra, nói với người cháu trong một cơn tỉnh ngắn. Mắt đứa cháu cũng cay xè, ươn ướt.
Có một gia đình, cả hai vợ chồng đều là sĩ quan Quân Lực VNCH. Sau ngày 30/4/1975 cả hai người đều phải đi học tập cải tạo như bao nhiêu người lính khác của quân đội bại trận. Người chổng trình diện đi trước, người vợ chờ đi sau. Trong khi chờ đợi chị xin những người chiến thắng cho được ở lại để chăm sóc ba đứa con còn nhỏ vì không có người gởi gấm. Thật ra vào thời điểm lúc đó cũng chưa chắc đã người dám nhận. Lời khẩn cầu bị bác bỏ ngay, không được chấp nhận. Cũng vì “Với chánh sách khoan hồng của cách mạng chị chỉ đi học tập vài ngày rồi về thì có gì mà lo.” Cả bốn mẹ con phải nhập trại vào Thành Ông Năm ở Hóc Môn.
Trại này được chia làm hai phía: bên dành cho những người lính VNCH nam, bên dành cho các nữ quân nhân VNCH, ngăn cách nhau bằng một hàng rào kẽm gai. Khẩu phần ăn dù đã ít ỏi nhưng chỉ được phát cho người mẹ vì các con không phải là thành viên chánh thức của trại. Biết được hoàn cảnh thương tâm đó, nhiều người bên trại nam đã cố gắng ném các vắt cơm nhỏ qua để nuôi các cháu nhỏ. Về sau được tin là người mẹ qua đời vì lao lực, và các cháu cũng không biết trôi giạt về đâu. Người cha vẫn biệt vô âm tín.
Người kể chuyện này là một trong những người đã từng ném vắt cơm tình nghĩa nuôi các cháu.

Monday, August 11, 2025

Phòng Tuyến Bình Thuận

Tại phòng tuyến Ninh Thuận-Bình Thuận, sau khi CQ chiếm Phan Rang, bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 Tiền phương và Sư đoàn 6 Không quân đã hoàn toàn tê liệt sau khi Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi và Chuẩn tướng Sang bị bắt. Theo lệnh của tân Tổng trưởng Quốc phòng VNCH Trần Văn Đôn, Quân đoàn 3 lập tuyến phòng thủ tại Phan Thiết. Chỉ huy mặt trận Phan Thiết là Chuẩn tướng Trần Văn Nhựt, Tư lệnh Sư đoàn 2 Bộ binh từ Phan Rang rút về. Lực lượng phòng thủ từ xa Phan Thiết do Trung đoàn 6 của Sư đoàn 2 BB với nhiều TĐ Địa Phương Quân thiện chiến của TK/Bình Thuận và lực lượng chính của Tiểu khu Bình Thuận gồm TĐ229/ĐP và TĐ/202 phụ trách bảo vệ vòng trong từ Tân An đến Cầu Sở Muối ..

NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG THÁNG
4-1975 TẠI PHAN THIẾT
Trung úy Cao Hoài Sơn

Mỗi khi nhớ lại những ngày tháng 4-1975, người Lính Chiến VNCH trong lòng bỗng thấy đau xót. Xót cho quê hương Miền Nam, xót cho thân phận mình. Không phải vì VNCH yếu hèn mà vì đồng minh phản bội, cắt đứt mọi nguồn viện trợ để bắt VNCH bại dưới tay CSBV để Mỹ rút đi trong danh dự và chấm dứt chiến tranh cùng nhiều lợi ích mà Mỹ đã ký kết với Trung Cộng. Thật ra CSBV không là gì với lính tinh nhuệ của VNCH, nếu như Mỹ chịu giúp VNCH trong trận chiến sau cùng này thì CSBV làm gì huênh hoang trong chiến thắng và chúng sẽ không bao giờ ngóc đầu lên nổi vì chúng đã tung ra con chốt cuối cùng.

Trong ngày 1/4/1975, Cộng quân tấn công phòng tuyến tiền phương của Quân đoàn 2, tại Phú Yên. Tại Khánh Dương, Lữ đoàn 3 Nhảy Dù do Trung tá Lê Văn Phát chỉ huy đã kịch chiến với 4 trung đoàn của 2 sư đoàn Cộng quân. Lực lượng của lữ đoàn này đã giao tranh quyết liệt với các đơn vị thuộc Sư đoàn F-10 và F-320 của Cộng quân. Các tiểu đoàn Dù đã đánh trả quyết liệt bất chấp đạn pháo binh của Cộng quân bắn phá khá chính xác. Nhiều vị trí mất rồi được chiếm lại, rồi lại bị mất, nhiều lần như vậy nhưng các tiểu đoàn thuộc lữ đoàn 3 Dù vẫn còn giữ vững vị trí chiến đấu. Tướng Phú yêu cầu Lữ đoàn 3 Nhảy Dù cố gắng để chờ quân của Sư đoàn 22 Bộ binh từ Qui Nhơn rút vào cùng với 1 trung đoàn của sư đoàn 23 BB được tái chỉnh trang. Đến 2 giờ 10 chiều ngày 1/4/1975, khi đang bay trên không phận Khánh Dương thì Tướng Phú chỉ liên lạc được với một sĩ quan của Lữ đoàn 3 Nhảy Dù. Tướng Phú được báo vắn tắt là Cộng quân đã tràn ngập nhiều vị trí của các đơn vị Nhảy Dù, tuyến phòng ngự đã bị cắt nhỏ. Sau đó phía dưới đất tắt máy.
Sáng ngày mồng một tháng 4-1975, một cuộc họp tại Tòa Hành Chánh Tỉnh, gồm BCH Hành Chánh, Tiểu Khu và bảy Quận Trưởng, nhằm mục đích đối phó với đoàn người di tản từ Cao Nguyên và miền Trung vào sắp tới Phan Thiết. Trong khi tình hình tại Lâm Đồng rất sôi động nhất là tại vùng giáp ranh với Định Quán (Long Khánh), QL1 tại Rừng Lá đã bị Cộng quân đóng chốt, quân số cấp Sư Đoàn, chuẩn bị đánh vào Sư Đoàn 18BB tại Xuân Lộc. Tại Bình Tuy, Đại tá Tỉnh Trưởng Trần Bá Thành cũng đã lập một nút chận hùng hậu từ Căn cứ 10 cho đến thị xã La Gi. Trước tình hình này, Đại Tá Ngô Tấn Nghĩa quyết định bỏ ngỏ Phan Thiết để đoàn di tản đi qua.
Ngày 2-4-75, sau khi Bộ Tư Lệnh/Quân Đoàn II lần lượt bỏ Pleiku, Kontum, Buôn Mê Thuột rút về Nha Trang, qua quyết định của Bộ Tổng Tham Mưu / QLVNCH sáp nhập phần lãnh thổ còn lại của QĐ II vào QĐ III. Cuộc bàn giao lãnh thổ diễn ra tại Lầu Ông Hoàng nơi đặt Bộ Chỉ Huy Hành quân của Tiểu Khu Bình Thuận giữa Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh QĐ II và Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu, Tư lệnh Phó QĐ III. Coi như kể từ 1 giờ 45 phút ngày 2-4-75 Quân đoàn II không còn.

Trước tình hình như vậy, BCH/ Tiểu Khu Bình Thuận điều động Tiểu Đoàn 229/ĐP do Th/tá Nguyễn Hữu Tiến làm Tiểu Đoàn Trưởng, lúc đó đang làm nhiệm vụ giữ an ninh cho Khu định cư Nghĩa Thuận nằm bên kia Đập Đồng Mới thuộc xã Lương Sơn, rút về tăng cường cho Nam Bình Thuận. Vào ngày 1-4-75, Đại đội 4/248/ĐP do Tr/úy Nguyễn Tấn Hợi làm Đại Đội Trưởng thay thế TĐ /229/ĐP. Trong ngày này Tiểu Đoàn được tăng phái cho Chi Khu Hàm Thuận, riêng Đại Đội 4/229/ĐP do Tr/úy Cao Hoài Sơn làm Đại Đội Trưởng phụ trách bảo vệ Nông Trường Sao Đỏ và đồng bào hồi hương từ Campuchia tại Bình Tú thế cho đơn vị của Đại úy Huỳnh Văn Quý đã di chuyển tăng cường cho mặt trận Ba Hòn (Kim Bình, Hàm Thuận).
Ngày 3-4-1975, toàn bộ Tiểu Đoàn 229/ĐP được lệnh di chuyển về phòng thủ bảo vệ Tiểu Khu và Tòa Hành Chánh Tỉnh. Đại đội 2/229 do Đại úy Lê Viết Duyên làm Đại Đội Trưởng phòng thủ chu vi Tòa Hành Chánh. Đại đội 3/229 do Tr/úy Nguyễn Dương Quang làm Đại Đội Trưởng trú đóng tại Vườn Hoa, Lầu nước. Đại Đội 1/229 do Tr/úy Nguyễn Văn Thứ làm Đại Đội Trưởng đóng từ Bưu Điện qua Ngân Khố dọc theo đường Hải Thượng Lãn Ông. Đại Đội 4/229 đóng dọc theo đường Nguyễn Hoàng, bảo vệ mặt sau cho Tiểu Khu.
Một ngày đêm trôi qua êm ả, cuối cùng đoàn di tản cũng tràn vào Phan Thiết theo ngã Quốc Lộ 1 từ Bắc Bình Thuận sau khi đã tàn phá các làng mạc, thị trấn trên đường đi gồm các thị trấn Long Hương, Phan Rí Cửa, Chợ Lầu, Lương Sơn... Tại Phan Thiết, sáng ngày 4-4-1975, trên các con đường phố tràn ngập những quân xa, có cả Thiết vận xa M113 và chiến xa M41, M48. Xe Honda và người tràn ngập trên vỉa hè, tất cả các chợ, quán ăn, tiệm tạp hóa, cây xăng đều đóng cửa.
Tuy vậy đoàn di tản và một số côn đồ lợi dụng tình thế cướp giật, không ít Cộng quân đã trà trộn đột nhập vào thị xã Phan Thiết, gây tình trạng rối ren hầu tìm cách đánh úp ta. Tất cả đều bị đập phá tang hoang, các cửa tiệm, cây xăng bị cướp phá. Các nơi chứa gạo dự trữ bị dân tràn vào cướp đi. Chúng tôi nhìn cảnh này lòng đau như cắt, nhưng được lệnh không được nổ súng vì sẽ gây thêm hỗn loạn, dân lành sẽ chết và Đặc cộng địch sẽ lợi dụng cơ hội giết thêm dân rồi vu vạ cho ta. Phan Thiết đã thật sự bỏ ngỏ để tránh đổ thêm máu vô ích.
Sáng ngày 4-4-75 tại Cầu Bằng Lăng ở đoạn đường vắng gần núi Tà Dôn, đoàn di tản đã bị VC phục kích. Có hai binh sĩ của Đại đội 4/229 đang công tác may mắn thoát chết. Theo lời tường thuật của hai nhân chứng thì đoàn di tản bị thương vong rất nhiều, vì VC bắn bừa bãi vào đoàn xe trên đó đa số là dân chạy nạn từ vùng hỏa tuyến về. May nhờ có chiến xa tiến lên tiêu diệt địch quân, yểm trợ cho đoàn di tản tiếp tục tiến về Phan Thiết.
Cơn lốc tàn phá cuối cùng cũng chấm dứt vào buổi chiều, khi một số lượng lớn người và xe di tản vào Bình Tuy. Phan Thiết tưởng chừng như qua khỏi cơn đại nạn, cho đến 10 giờ đêm thì bỗng nghe một tiếng nổ rất lớn ở hướng phố Gia Long làm cháy ngôi Chợ Lồng Phan Thiết. ĐĐ4/229 của Tr/úy Cao Hoài Sơn được lệnh đến hiện trường tìm cách giúp đỡ dân chúng chữa lửa cùng trấn áp bọn tội phạm thừa lúc hỗn loạn cướp phá. Cho đến trời vừa hừng sáng mới dập tắt được đám cháy trong chợ thì VC bắt đầu pháo kích vào BCH / Tiểu Khu. Nhưng đạn lạc ra ngoài quanh Vườn Hoa, dọc bờ sông đường Trưng Trắc, và Ngân Hàng Việt Nam Thương Tín. Có hai trái rớt vào khu dân cư ở Khu II Bình Hưng làm nhiều thường dân vô tội thương vong. Nhờ ta pháo trả kịp thời nên đã bịt kín họng súng của địch lúc đó đang đặt tại Xuân Phong, Đại Nẫm.
Ngưng được một thời gian ngắn đến lúc 10 giờ, địch tiếp tục pháo vào Phan Thiết nhưng chỉ trúng nhà dân, làm tử thương thêm vài người. Một bọn du đảng ở Lò Heo nhặt đâu được một chiếc xe Jeep quân đội bỏ lại, bọn này cắm cờ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, tay cầm súng AK 47, mang băng đỏ, lái xe băng qua cầu Quan đi dạo phố như chỗ không người, tới trước rạp Chiếu bóng Bình Thuận và Khách sạn Anh Đào thì đụng ngay với Đại đội 1/229/ĐP của Tr/úy Nguyễn Văn Thứ. Những tràng đạn M16 của ta đã diệt gọn không sót một tên, xác chết nằm vắt trên xe, bọn này có lẽ bị VC nằm vùng giật dây, cho rằng chính quyền đã bỏ chạy hết, nên tìm cách cướp chính quyền lập công dâng đảng.
Buổi trưa có hai hỏa tiển 122 ly từ hướng Xuân Phong, Trinh Tường pháo vào trung tâm Phan Thiết làm thương vong thêm một số người. Chừng ấy đoàn di tản mới chịu rời thành phố nhưng lại rơi vào ổ phục kích của VC tại cây số 37 trên QL1. Số còn lại chạy thoát vào căn cứ 10 thì bị Tiểu Khu Bình Tuy giải giới hết. Tuy vậy Tiểu Đoàn 229/ĐP vẫn được lệnh tiếp tục bảo vệ Thị Xã Phan Thiết thêm hai ngày mới rút.
Ngày 7-4 Áp lực của Cộng Quân dồn về Chi Khu Thiện Giáo sau khi Lâm Đồng bỏ ngỏ . Cộng quân chuẩn bị thanh toán Chi Khu Thiện Giáo .
Ngày 8-4, Thiếu tá Lê Văn Thông, Chi khu trưởng Thiện Giáo cho di tản BCH Chi khu về vùng Phú Long trên quốc lộ, nhưng khẩu Đại Liên 50 trên pháo đài không chịu phá hủy, và để nguyên đạn dược . Cộng quân tràn vào chiếm Chi Khu Thiện Giáo .
1 Liên trung đội Nghĩa Quân ( Khoảng 100 người ) của Chi khu Thiện Giáo, do Trung úy Nguyễn Văn Cư chỉ huy, đóng quân dọc theo bờ phía Nam sông Cái, từ cầu Phú Long đến Phú Hài.

Sau khi Chi khu Thiện giáo rút đi, Tiểu đoàn 230/ ĐP còn khoảng 400 người, cũng di chuyển qua cánh đồng trống để về vùng Nora trên Quốc lộ 1, để thay thế TĐ275/ĐP thì bị Cộng quân dùng chính khẩu Đại Liên 50 trên pháo tháp bắn vào TĐ 230/ĐP, may mắn không ai bị tử thương . Đồng thời điều Tiểu đoàn 275 ĐPQ về khu vực Lầu Ông Hoàng, một đại đội ( Đại úy Úy ) đóng tại Lầu Ông Hoàng để bảo vệ bộ chỉ huy nhẹ của TKBT. Hai đại đội trấn giữ khu vực Bình An, phía Nam cầu Phú Long. Còn đại đội 4/275 ( Trung úy Lợi ) vẫn ở lại trấn giữ đồn Tà Dôn. Hai khẩu 105 ly tại đồn Tà Dôn được kéo về đồi Lầu Ông Hoàng
Cũng trong ngày 8-4 Thiếu tá Lê Văn Thông bỏ nhiệm sở trốn về Sài Gòn, Chi khu Phó là Đại úy Lê Văn Tuân thay thế.
Để bảo vệ vòng đai Phan Thiết, toàn bộ Tiểu đoàn 229/ĐP di chuyển đến phối hợp với Tiểu đoàn 202/ĐP của Đại úy Huỳnh Văn Hoàng làm Q.Tiểu Đoàn Trưởng (thế Thiếu tá Bính); BCH/ Tiểu đoàn đóng tại căn cứ Tân An. Ngày 12/4/75 khi TĐ229/ĐP đến phòng tuyến mới Cầu Sở Muối, thì Tân Điền đã lọt vào tay địch. Đại Tá Ngô Tấn Nghĩa Tiểu Khu Trưởng ra lệnh cho Tiểu đoàn 230/ĐP từ Nora rút về phòng thủ thị xã Phan Thiết, đơn vị này được phối trí đóng quân tại vùng nhà thờ Lạc Đạo.
Lúc này mặt trận tại Phú Long đang hồi khốc liệt, tiếng đạn nổ bom rơi ì ầm suốt cả ngày đêm. Trong ngày 12/4/75, Đại úy Huỳnh Văn Quý Liên Đội Trưởng Liên Đội Đặc Nhiệm Bảo Vệ Nông Trường Sao Đỏ được bổ nhiệm làm Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 249/ĐP (thay thế Thiếu tá Phan Sang) và Đại Uý BĐQ Nguyễn Văn Hạnh (TĐP) . Tiểu Đoàn 249/ĐP được tăng phái thêm ĐĐ Biệt Lập 283/ĐPQ do Đại úy Nguyễn Văn Ba làm Đại Đội Trưởng. Lúc 4 giờ chiều ngày 13-4-1975, Tiểu Đoàn 249/ĐP và Đại đội 283 ĐPQ đã đánh vào Phú Long, Mặt Bắc Phú Long được tăng cường thêm một đơn vị của Tr/đoàn 6/Sư đoàn 2BB do Trung tá Tôn Thất Hổ chỉ huy đã kềm chế được Cộng quân giúp TĐ/249/ĐP chiến đấu oanh liệt chặn địch và chiếm lại được Phú Long cho đến ngày cuối cùng 18/4/75 khi các Binh Đoàn của Cộng Sản thanh toán xong các nút chận và đang tiến về Phan Thiết theo QL1.
Từ ngày 12/4/75, Tiểu Đoàn 229/ĐP lập phòng tuyến tại Cầu Sở Muối trên Quốc lộ 1, BCH/Tiểu Đoàn đóng tại Cầu Sở Muối. Đại Đội 1, 2, 4 lập thành vành đai từ Tân An đến Tân Điền, dựa theo địa thế tự nhiên mương rạch chằng chịt trong khu vực. Đại Đội 3 nằm bên kia QL1 trong những đám ruộng muối. Có một đồn nhỏ sát với QL1 ngang với Tân Điền do một Trung Đội Nghĩa Quân đóng chốt. Trong phạm vi phòng thủ có vài ngôi nhà dân còn lại là ruộng chưa gieo cày.

Trong những ngày cuối cùng của tháng 3 năm 1975, Tiểu đoàn 275/ĐP do Thiếu tá Nguyễn Tư làm Tiểu Đoàn Trưởng chịu trách nhiệm an ninh vùng Cây Số 25, thì vào thời điểm đầu tháng 4-1975 Bộ đội Cộng Sản đã tăng cường áp lực lên Chi Khu Thiện Giáo và vùng Nora–Tùy Hòa. Chúng đem một đơn vị cấp Tiểu đoàn có pháo yểm trợ tấn công đồn NORA và chiếm giữ đồn. Tiểu khu Phòng 3 đã ra lệnh cho Tiểu đoàn 275/ĐP bằng mọi giá phải lấy lại đồn này không để mất vào tay Cộng sản.
Vì vậy trong đầu tháng 4/75, tiểu đoàn đã tiến về đánh chiếm lại Đồn. Trận chiến diễn ra ác liệt với sự yểm trợ của Pháo binh đặt trên núi Tà Dôn. Sau nhiều giờ giao chiến Tiểu đoàn đã chiếm lại được đồn NORA với tổn thất nhẹ. Đại đội 1 do Tr/úy Nguyễn Minh Luân làm ĐĐT đã có một Trung Đội Trưởng hy sinh anh dũng.
Áp lực địch càng ngày càng gia tăng lên xã Tùy Hòa, Tiểu khu không còn lực lượng để trấn giữ nên ra lệnh Tiểu đoàn 275/ĐP rời bỏ vùng NORA kể cả đồn này trước đó đã đổ máu để lấy lại để về giữ vững Tùy Hòa. Tiểu đoàn tăng viện Đại đội 2 do Tr/úy Lợi làm ĐĐT giữ mấy khẩu pháo tại núi Tà Dôn. Cộng quân đem một đơn vị rất lớn đánh vào Tùy Hòa nhưng không làm gì được bên ta, Tiểu đoàn đã cầm cự với Cộng quân trong hai tuần tại đây. Ý đồ của chúng là sau khi chiếm được Tùy Hòa rồi mới dồn nỗ lực đánh phá phòng tuyến Phú Long do Tiểu đoàn 249/ĐP cùng một số đơn vị tăng phái trấn giữ. Nhưng Cộng quân chiếm không được Tùy Hòa nên chúng thay đổi kế hoạch bằng cách đem toàn bộ lực lượng đi vòng đánh chiếm Phú Long. Tại đây chúng gặp sức kháng cự mạnh mẽ của các đơn vị đồn trú gây cho chúng nhiều thiệt hại cho đến ngày 18-4-1975, sau khi thanh toán xong Bắc Bình Thuận, Binh Đoàn Cộng Sản có chiến xa yểm trợ đã tiến vào Phú Long.
Tiểu đoàn 275/ĐP lại được lệnh bỏ Tùy Hòa để về tăng cường phòng thủ Phú Long vào trung tuần tháng 4-75. Tiểu đoàn phải di chuyển theo triền động cát rút về Kim Ngọc bảo vệ khu nhà Thờ Kim Ngọc. ĐĐ1/275/ĐP do Tr/úy Luân chỉ huy chịu trách nhiệm bên đây cầu còn bên kia do Tiểu đoàn 249/ĐP trấn giữ. Trong hai tuần tại đây cộng quân đã tiến đánh ngày đêm nhưng cứ điểm Phú Long như thành đồng vách sắt không thể nào chúng phá nỗi.
Sáng ngày 15/4/75. Đại đội 1/229/ĐP bắt được một Đặc công của địch đang ẩn náo trong nhà dân gần đó điều chỉnh pháo binh tác xạ vào quân ta. Trưa ngày 18/4/75 Đại Đội 4/229/ĐP do Tr/úy Cao Hoài Sơn chỉ huy được lệnh tấn công chiếm lại Tân Điền dưới sự yểm trợ của Đại đội 1/229 và Đại đội 2/229 của Tr/úy Thứ và Đại úy Duyên. Quân số địch tại Tân Điền rất đông lại có chuẩn bị hầm hố vững chắc, có cả vũ khí nặng. Mặc dù sáng hôm đó, Tiểu đoàn có nhận được một số lớn M72 chống xe tăng và nhiều đạn cối 81 ly xuyên phá dùng để phá hầm địch, nhưng cũng không đánh vào nổi Tân Điền.
Lúc 7 giờ tối 18-4-1975 nhận được lệnh sẵn sàng “chờ lui quân”. Trung đội Nghĩa Quân ở đồn bên cạnh liên lạc với ĐĐ4/229 xin cho sáp nhập vào đoàn di tản. Chờ mãi đến hơn 8 giờ tối mà chưa nghe bất cứ một hiệu lệnh gì! Hướng Phú Long thì im hơi lặng tiếng khác với ngày thường. Chính lúc đó, đoàn xe tăng địch đã qua Cầu Phú Long và đang hướng về Cầu Sở Muối vào Phan Thiết. Đoàn xe địch khi băng qua khu Kim Ngọc đã dùng đại liên bắn vào tháp chuông nhà thờ. Khi đoàn xe đi qua đồn Nghĩa Quân cách phòng tuyến của ĐĐ4/229 chừng 200m thì dừng lại quay pháo tháp, tôi nghe cả tiếng kẹt kẹt của pháo tháp quay và nổ nhiều phát đạn vào đồn, lửa văng tung tóe.
Khi xe chạy ngang vị trí ĐĐ4/229 thì hai quả chiếu sáng do BCH/ Tiểu Đoàn bắn lên, binh sĩ tình nguyện hạ Tăng địch chạy về vị trí phòng thủ bị địch phát hiện nên quay họng súng đại bác 100 ly vào vị trí của đại đội bắn trực xạ. Đằng sau xe tăng địch trên QL1 tràn lên tiếp ứng, mặt sau Tân Điền không biết địch quân có phối hợp với xe tăng để tấn công ta hay không chưa biết, nên Tiểu đoàn rút lui về Tân An để củng cố đội hình là cách thức tốt nhất.
Khi xe tăng địch đi qua Cầu Sở Muối thì BCH/Tiểu đoàn 229/ĐP còn dưới cầu, tất cả lợi dụng bóng đêm rút về Tân An an toàn, trừ Đại đội 3/229/ĐP của Trung úy Nguyễn Dương Quang không băng qua QL1 được nên rút xuống Bình Hưng tìm ghe về Vũng Tàu. Lúc này xe tăng địch truy đuổi theo con đường đất nối liền QL1 với đường Lương Ngọc Quyến, Tỉnh lộ 8 nối dài. Có lẽ địch đang chờ phối hợp với bộ binh tại Tân Điền mới tiến đánh. Tiểu đoàn 202/ĐP đã rút khỏi Tân An, trong đồn vỏ xe hơi đốt cháy sáng rực.
Lúc này BCH/ Tiểu đoàn liên lạc được với Đại tá Ngô Tấn Nghĩa hiện đã di tản bằng ghe chài ra Chiến hạm Trần Khánh Dư HQ04 đang neo ngoài biển Phan Thiết để lập kế hoạch di tản toàn bộ Quân Dân Cán Chính Bình Thuận vào ngày mai 19/4/75 theo kế hoạch. TĐ229/ĐP xin phi cơ yểm trợ để lui binh, Quân đoàn III đã cho một Hỏa Long C47 đến yểm trợ do Phi Công Trưởng là Đại úy Minh chỉ huy. Ông đã hết lòng “giải vây cho người lính Bộ đang nguy khổn” bằng cách thả đèn và bắn chận địch đang từ Tân Điền tiến vào Tân An. Qua ánh hỏa châu, thấy xe Tăng địch tấp vào núp dưới các tàn cây trên đường đất. Phòng không địch từ Tân Điền và Bình Lâm bắn lên đầy trời như sao xa, bao vây chiếc Hỏa Long đơn độc. Sau mười lăm phút quần thảo với địch, giúp đơn vị bạn củng cố đội hình, vượt sông Cà Ty qua ngõ Xuân Phong, Đại Nẫm tiến về Bình Tú, chiếc C47 bị trúng đạn phòng không của địch nên chào từ giã ĐỊA PHƯƠNG QUÂN BÌNH THUẬN và chúc may mắn. Ông lấy làm tiếc vì không giúp được nhiều hơn.

Tại Bắc Bình Thuận, theo tường thuật của Trung úy Nguyễn Tấn Hợi, Đại đội trưởng Đại đội 4/ TĐ 248/ĐP là đơn vị tiền phương xa nhất của TK Bình Thuận. Đơn vị đóng bên này Cầu Đá Chẹt (Cà Ná) là ranh giới của Tiểu khu Bình Thuận và Ninh Thuận trên QL1.
Vì tình hình chuyển biến quá nhanh, nên sau khi liên lạc về BCH/TĐ248 ĐP, Đại Đội 4 nhận được lệnh bỏ Cà Ná và rút toàn bộ Đại đội (-) về xóm Vĩnh Hảo nhưng vẫn phải thường xuyên liên lạc với BCH/TĐ và Liên Đoàn 925 ĐP để báo cáo diễn biến của địch từng phút một. Vì khi còn ở Cà Ná, nhận thấy xóm Vĩnh Hảo không có vị trí phòng thủ tốt, nên ĐĐ4/248 đã di chuyển đến đóng quân ở một ngọn đồi thấp, đối diện với Sở Nước Suối Vĩnh Hảo. Đây là một vị trí phòng thủ thiên nhiên rất lý tưởng, hơn nữa nếu nguy cấp Đại đội có thể rút ra phía sau núi là bờ biển. Khi đoàn xe tăng Cộng sản tiến vào theo QL1, Đại đội 4 của Tr/úy Nguyễn Tấn Hợi đã rút đi về hướng biển trong đêm được Hải Quân thuộc Duyên Đoàn 2 vào cứu toàn bộ ra Tàu.
Mờ sáng đơn vị chúng tôi đã có mặt trên chiếc Dương Vận Hạm HQ503, đó là ngày 17-3-75, con tàu đang nhấp nhô trên biển với những cơn sóng cao dữ dội. Tôi nhìn về đất liền hướng mũi Dinh, thấy lấp lánh ánh sáng từ những kiếng xe phản chiếu ánh sáng mặt trời nhiều vô kể như sao lấp lánh giữa trời đêm. Chiếc tàu đang lênh đênh ngoài vịnh Cà Ná - Cửa Xuất, tôi thấy các vị Sĩ quan Hải quân trên tàu ra dấu hiệu cho những chiếc ghe đánh cá lại gần, cho họ dầu nhờ họ vào bờ bốc lính ra (theo lời Trung úy Hợi tường thuật).
Khi công tác cứu vớt lính còn đang tiếp diễn, thì những đạn pháo từ trong bờ bắn ra, bởi vì chiếc DVH HQ503 ở rất gần vịnh Cà Ná, đó là pháo binh của VC mà tôi đoán là 130 ly bắn trực xạ, những trái đầu tiên bay qua tàu và rớt ở xa, tôi nghe chiếc loa trước pháo tháp đài chỉ huy phát tiếng gọi, những trái đạn kế tiếp bắn trúng pháo tháp chỉ huy và những loạt đạn sau trúng boong tàu. Trên tàu lúc này có rất ít người nên thương vong không đáng kể.
Tiếng súng từ bờ biển bắn ra đã im bặt vì Hải pháo của ta bắn vào dữ dội. Có một chiếc chiến hạm từ từ cặp vào bên hông nên dần dần chiếc DVH HQ503 trở lại bình thường. Chiếc DVH được bơm nước ra và kè đi trong đêm tối. Mệt mỏi, ê chề tôi đã thiếp đi đến khi tĩnh dậy đã thấy gần đất liền và tàu cập bến Vũng Tàu đâu khoảng 10 giờ sáng ngày 18-4-75.
ĐĐ4/248/ĐPQ được đưa lên những chiếc xe GMC do quân cảnh hướng dẫn. Khi đến nơi tôi mới biết đó là TTHL /Vạn Kiếp khu tiếp tân.
Tại Phú Long, đến ngày 18-4-75 khoảng 2 đến 3 giờ chiều, sau khi bị trận địa mìn ở Dốc Bà Chá Lương Sơn làm cháy mất 3 chiếc và hư hại nhiều chiếc khác do công của TĐ 212/ĐP, đoàn xe tăng địch sau hơn một ngày dò dẫm đã tiến vào Phú Long. Trước tình hình địch như vậy Tiểu Đoàn 249/ĐP + ĐĐ283 ĐP và Tiểu Đoàn 275/ĐP cùng các đơn vị tăng phái lần lượt rút bỏ Phú Long di tản chiến thuật theo kế hoạch về Bình Tú để chờ Tàu Thủy vào rước về Vũng Tàu.
Mặc dù vậy xe tăng địch chưa dám tiến đánh vượt qua cầu Phú Long vì sợ lại lọt vào trận địa mìn bẫy. Đại Đội 1/275 được lệnh giữ vững cầu và tiêu diệt xe tăng địch. Lúc này đơn vị kiểm điểm lại chỉ còn 7 quả M72 vì đã bắn nhiều trong nửa tháng không được cung cấp thêm. Xe tăng địch thì rất nhiều như những con thiêu thân chờ đêm tối mới tràn qua cầu.
Tr/úy Luân liên lạc với Phòng 3/TK thì được biết đã có lệnh rút lui về Bình Tú, nhưng Tiểu Đoàn rút đi mà không thông báo cho đơn vị biết. Dầu vậy anh đã ra lệnh chờ xe tăng địch tới gần 30 m mới cho bắn, để chắc chắn. Nhưng Tăng địch không dám qua cầu mà rẽ đường vào Phước Thiện Xuân tấn công đồn Nghĩa Quân do anh Néo làm Trung Đội Trưởng. Tại đây một chiếc tăng T54 đã bị NQ bắn hạ. Trung úy Luân gọi Hải pháo bắn chận địch để đơn vị rút quân. Đơn vị anh từ đó đã về Thanh Hải và tan hàng tại đây, tự tìm đường đi về Vũng Tàu. Riêng anh nhờ một chiếc ghe vớt anh trên thúng khi đang lênh đênh ở ngoài biển đưa vào Vũng Tàu, gặp lại Tiểu đoàn tại đây.

Friday, August 8, 2025

HỒN MA BÊN BỜ SÔNG DAKBLA

Tôi lên Kontum sau chiến cuộc “mùa hè đỏ lửa” năm 1972, phố xá vẫn còn dấu vết đổ nát, hoang tàn chưa dọn dẹp, nhà cửa ở khu phố chính, một vài căn vẫn còn trống hoác, trơ những mảng tường cháy đen còn ám khói. Ngoài ven thị xã, đây đó trong sân nhà mấy hố bom cày còn đọng nước chưa ai lấp. Dọc theo đường Nguyễn Huệ đi vòng lên phía Phương Nghĩa, mọi người vẫn còn nhắc lại mấy hôm đầu hồi cư về đây, xác súc vật lẫn xác người vẫn còn nằm rải rác ven đường bốc lên mùi thúi rữa.
Đang còn phân vân không biết trú ngụ nơi đâu. Thường thì anh em mới lên đáo nhận nhiệm sở hay mướn nhà ngoài phố ở chung với nhau cho tiện việc đi làm hay ra phố chợ, còn những ai độc thân thì được cho biết có một căn nhà gỗ hai tầng còn bỏ trống được gọi là “biệt điện”, vì trước đây là nơi dừng chân nghỉ trưa của Vua Bảo Đại khi đi kinh lý vùng đất này, nhưng ít có ai chịu đến đây ở vì vắng vẻ và hơi sợ, nhất là cư dân xung quanh hay đồn đại với nhau là khu nhà này có ma. Ngay cả ngôi biệt thự ngói đỏ khang trang nằm bên kia đường gọi là “công quán” cũng ít có người chịu đến tạm trú dù chỉ một vài ngày.
Đây là một khu đất rộng, rậm rạp trồng nhiều cây vông (bã đậu) cao vút giáp giới bờ tường, khu doanh trại của các cố vấn Mỹ, nằm gần sát dốc cầu Dakbla về phía bên thị xã. Đứng trên thành lan can ngôi nhà biệt điện này, ta có thể nhìn thấy cả một vùng trời nước bát ngát mênh mông bên bờ sông, cảnh núi đồi xa xa thật hùng vỹ và thơ mộng. Tôi rất thích nên xin dọn vào ở ngay. Có thể mọi người lo sợ về an ninh, nhưng tôi nghĩ nhà nằm sát tường rào khu nhà cố vấn Mỹ chắc cũng không đến nỗi nào, hơn nữa dưới chân cầu Dakbla luôn luôn có Nghĩa quân thuộc trung đội gác cầu ngày đêm nên có lẽ không sao.
Thật đúng là ngôi nhà hoang từ lâu không có người ở, bếp núc lạnh tanh. Sau nhà có một cái giếng nước lâu ngày không ai “cảo” (vét) nên lá cây đổ ngập lên đến gần bờ thành. Mọi người đồn rằng bộ đội miền Bắc chết không kịp kéo đi đã bị quăng xác xuống giếng, nghe cũng hơi ớn, nhưng rồi tôi mướn người xuống cảo giếng cũng chẳng thấy đâu và nước giếng ở vùng đất Kontum cát trắng này, đặc biệt là ở nơi nào cũng vẫn mát ngọt như nhau. Ngay cả giữa lòng phố thị bên cạnh trường trung học Hoàng Đạo, phía sau dãy phố cổ đường Nguyễn Huệ có một “Giọt nước” trũng, lộ thiên lâu đời, nước ngọt phún chảy ra quanh năm và cư dân đông đúc ở xóm bên kia con dốc thường hay ra đây lấy nước về dùng tự do.
Tôi sắp xếp dần, nhà cũng tươm tất và ấm cúng, trong nhà có bộ salon bằng gỗ thông sơn vécni bóng láng do Thiếu tá Phan, chỉ huy trưởng Thiết đoàn 8 gởi tặng cùng với bộ giường ngủ dã chiến bằng sắt và một số vật dụng cá nhân. Sinh hoạt ổn định, không khí trong lành, có người tới lui, thỉnh thoảng tôi có rủ một số anh em đến chơi, có khi ngủ lại qua đêm trong căn nhà tôn rất rộng ở bên hông biệt điện. Thật vui vẻ, có hôm các bạn còn hỏi với nhau:
-Có ai thấy ma “nữ” nào không?
Thế là cả bọn cười vang và một số bạn có vẻ như muốn dọn về ở đây, còn tôi suốt ngày làm việc ở dưới quận, trừ những hôm nào trực văn phòng, chiều tối mới về đến nhà đậu chiếc xe jeep cũ sơn hai màu xanh, trắng trước hiên nhà hướng ra bờ sông. Trong nhà có bếp điện nhưng chỉ để đun một ít nước sôi pha trà, cà phê chứ không có nấu nướng, ăn uống trong nhà cho nên sinh hoạt ngày thường ở đây cũng vẫn vắng vẻ như xưa.
Buổi tối ở Kontum trời rất lạnh, phố xá vắng vẻ, chỉ trừ khu mua bán quanh chợ đường Lê Thánh Tôn là có người đi lại mà đa phần là lính tráng. Hầu hết đều tập trung trong các quán cà phê, ngồi nghe nhạc xập xình ở dãy Hàng Keo, cũng làm thành một khu sinh hoạt sầm uất trong thị xã. Ngay tại các ngã tư Lê Thánh Tôn đi về hướng đường Nguyễn Huệ, từng cụm đèn dầu leo lét, vây quanh bởi mấy bà ngồi xếp thành dãy, bày bán bắp nấu đựng trong các thúng bằng tre đan, dở ra còn bốc khói, thơm lừng cả một góc phố.
Tôi thường hay ghé qua các ngã tư này, sau buổi cơm chiều để mua vài trái bắp nấu trước khi lái xe về nhà. Thú vị nhất là những đêm trăng sáng ngồi trước hiên nhà dưới ánh trăng, gặm bắp nếp Kontum còn nóng hổi rồi tự nghĩ không có bắp nơi đâu ngon và dẻo bằng. Chỉ đơn giản như vậy thôi mà cảm thấy gắn bó với xứ lạnh sương mù nầy nhiều hơn. Không những thế, dân tình ở dãy phố cổ, đầu đường Nguyễn Huệ hết sức quý mến tôi, các gia đình nầy có họ hàng, ở liền nhau mà ai cũng muốn mời tôi qua nhà chơi trong những tối rảnh rang đến khuya mới về.
Có những buổi tối trời lạnh sương mù dày đặc. Nhất là vào mùa Đông, tôi thường hay qua nhà thầy Danh, hiệu trưởng trường Trung học Hoàng Đạo vui chơi, có khi ăn uống tại nhà thầy cùng với gia đình. Lâu dần, tôi nghe gia đình kể nhiều câu chuyện đời xưa ở Kontum. Đến lúc này, tôi mới để ý đến cái miếu nhỏ nằm dưới bóng mát cây vông cạnh bờ sông, trước cửa nhà tôi độ chừng 100m.
Kể rằng, khu vực này thời Pháp thuộc, các viên chức người Pháp làm việc ở Kontum cư ngụ ở đường bờ sông, họ có cho xây một trụ xi măng dưới sông Dakbla, cách bờ không xa, trên trụ là mặt phẳng hình bầu dục đường kính độ chừng bốn mét giống như một hòn bi giữa dòng sông để mùa hè họ ra bơi lội trên sông và tắm nắng trên “hòn bi”, đặc biệt nhất là họ tính toán sao cho mặt bằng của trụ xi măng chỉ la đà cách trên mặt nước chừng nửa mét vào mùa hè để họ có thể leo lên xuống tắm lội được, còn mùa nước lũ thì hòn bi mất hút dưới lòng sông.
“Ngã kim nhật tại tọa chi địa
Cổ chi nhân tằng tiên ngã tọa chi”
(Vương Thực Phủ)
(Chỗ ta đang ngồi ngày nay, người xưa đã từng ngồi)
Đến khi người Mỹ qua, họ xây lại cũng ở chỗ cũ của người Pháp một cơ ngơi nhà tiền chế theo kiểu Mỹ và biến nơi đây thành một khu vực rất đẹp để làm việc và cư ngụ. Ngoài bậc thềm xuống bờ sông để lội ra hòn bi, còn có một khoảng trống rộng vừa đủ để đậu một chiếc trực thăng. Người Mỹ cuối cùng đã rời khỏi Kontum bằng trực thăng cũng chính ở chỗ này.
Ban đầu chỉ có những người làm ở sở Mỹ cùng với người Mỹ mới tắm lội ở nơi này, nhưng lâu dần sau đó không còn phân biệt hay dành riêng nữa mà ai muốn đều có thể bơi ra hòn bi và tắm nắng ở đó. Thường thì năm, ba người tắm lội chung với nhau, nhiều nhất là trẻ nhỏ 14, 15 tuổi, ít khi bơi lẻ tẻ một mình vì lời đồn đại là gần hòn bi có “ma da” (thuồng luồng) ẩn náu.
Kể cũng lạ, từ ngày xây hòn bi cho đến nay chưa có một người ngoại quốc nào chết đuối vì bơi lội quanh hòn bi, ngược lại người địa phương năm nào cũng có nhiều người chết đuối trên sông gần hòn bi, ba ngày sau thi thể trôi quấn quanh dưới chân cầu Dakbla hay dạt lên bãi cát phía bên Phương Hòa. Do đó dân chúng trong vùng đã tự đứng ra xây một cái miếu nhỏ thờ vong linh các người chết trôi sông ở bên này bức tường ranh giới giữa khu vực của ngoại kiều và khu biệt điện, gọi là miếu Hòn Bi.
Sau khi trú ngụ ở nhà biệt điện một thời gian, lúc bấy giờ chính quyền mới xây thêm một dãy nhà làm câu lạc bộ (CLB) Dakbla hướng ra phía ngã ba đường cửa ngõ vào thị xã và cử người đến ở, vừa quản lý CLB vừa trông coi an ninh, trật tự. Kể từ lúc đó, sinh hoạt trong khu vực này thêm phần sống động và các đoàn thể, nhất là học sinh thường hay đến đây chơi bóng bàn hoặc cắm trại ca hát, vui chơi trong khuôn viên chung quanh khu biệt điện. Tôi vui mừng thầm vì ngày càng cảm thấy yên bình hơn và nỗi lo sợ vẩn vơ do mọi người đồn đãi cũng dần biến mất.
Cho đến một buổi tối mùa Đông tôi về trễ hơi mệt, chưa kịp thay quần áo đã vội vàng lên giường ngủ vùi. Đang say ngủ, bỗng nhiên tôi nghe có tiếng lộp độp trên mái nhà. Thường thì trái bã đậu rớt lẻ tẻ trên mái nhà nghe đã quen, nhưng tối nay hơi lạ, tiếng lộp độp trên mái nhà rơi rất dồn dập nghe như có người liệng liên tục trên mái không ngừng làm tôi thức giấc không ngủ lại được, rồi từ đó thỉnh thoảng lại nghe có tiếng gõ cửa nhè nhẹ ở phía trước kèm theo tiếng gió rít như tiếng khúc khích, khiến tôi hơi ớn lạnh, tự dưng cảm thấy sợ thật. Trước hết tưởng có người đùa giỡn nên tôi lên tiếng hỏi “ai đó” và xin lỗi khuya rồi nên về nghỉ ngơi… Nhưng sau đó càng lúc tiếng gõ cửa càng lớn hơn và tiếng cười khúc khích lại rõ hơn. Thật điếng người.
Nhưng chỉ trong phút chốc, tôi lấy lại bình tĩnh vì nghĩ có thể có người lạ hoặc kẻ xấu có âm mưu gì đây nên tôi rón rén đến góc phòng phía trong lấy khẩu súng trường (carbin) bá xếp ra ngồi ở đầu giường ngủ, khoác tấm chăn mỏng nhìn ra cửa… Mọi sự đều im ắng, không một tiếng gió hay tiếng lá rơi. Tôi gác súng trên vách đầu giường và quấn mền thật chặt rồi ngủ thiếp đi. Được một lát thì các tiếng động lại tiếp tục có phần dồn dập hơn, lần này tôi nghe rõ tiếng người nói cười thật sự. Tôi đứng lên và hét to “Ai đó, tôi bắn.”
Tôi giơ súng lên cao hướng ra cửa và siết chặt cò súng… Nhưng súng không nổ! Hoảng loạn, tôi vứt súng chạy vô phòng phía trong chộp lấy túi xách nhỏ trong có đựng một khẩu súng ngắn khoác lên vai, rồi mở cửa sổ buồng tắm nhảy ra ngoài, chạy một mạch không còn biết gì nữa cả. Băng qua đường cái men theo vỉa hè chạy đến nhà anh LT Hổ ở cách đó chừng 5,6 trăm mét, tôi gõ cửa xin tá túc qua đêm. Anh còn say ngủ ra mở cửa, tưởng tôi say rượu không muốn về nhà ở một mình đêm khuya. Anh không hỏi han gì và tôi cũng thấm mệt và quá chấn động nên thiếp đi cho đến sáng.
Hôm sau tôi nhờ anh Hổ báo tin xuống quận rằng tôi bị bệnh nên xin nghỉ vài ngày. Tôi chưa nói gì với ai về sự việc xảy ra trong đêm qua. Khi trở về nhà, quan sát chiếc xe jeep vẫn đậu nguyên tại chỗ, không có dấu hiệu gì thay đổi hay xê dịch. Mở cửa vô nhà, đèn vẫn còn để sáng, giường chiếu còn rối tung; và ở giữa phòng, cây carbin vẫn còn nằm trơ trên sàn nhà. Tay hơi lạnh, tôi đến cầm cây súng lên, lật qua lật lại xem và thoáng hơi sững sờ một chút khi phát hiện ra cây súng vẫn còn cài khóa an toàn. Thảo nào súng không nổ. Trong lúc hoảng loạn, tôi chỉ biết siết cò thật chặt mà quên đi thao tác căn bản là phải mở khóa an toàn.
Đến chiều tối mới là gay go, không biết sự thể ra sao nhưng trong lòng tôi hơi lo sợ không muốn ngủ ở nhà. Khi ra Kontum, tôi sinh hoạt ăn cơm chung với ba người bạn Quốc gia Hành chánh là anh Thi và anh Hổ tại nhà anh Hổ. Vì chỉ có anh Hổ là đem vợ con ra Kontum nên mướn nhà ở phố cho tiện sinh hoạt gia đình.
Trong bữa cơm chiều hôm ấy, tôi kể cho anh Hổ và anh Thi diễn tiến sự việc đêm qua ở nhà tôi, sau đó tôi chở hai anh đến nhà xem xét sự tình. Anh Hổ rất am tường nhiều việc ở nhà quê. Đầu tiên, anh đi quanh nhà quan sát rồi kế đến anh ra bờ sông và chú ý đến gần miễu Hòn Bi. Anh nói miễu nhang tàn khói lạnh không ai quan tâm. Tôi nói thỉnh thoảng cũng có vài người lính Nghĩa quân đi kiểm tra an ninh khu vực có đến dọn dẹp cho sạch sẽ chứ không đốt nhang.
Anh Hổ đề nghị giúp tôi liên lạc, nhờ thầy ở chùa Bác Ái đến cầu siêu vong linh tại miếu Hòn Bi. Khi gặp thầy thì được biết trong chùa có Ban tụng niệm chuyên cầu siêu vong linh ở các miếu hoang trong thị xã hoặc những nơi có ghi dấu hay do người dân địa phương kể lại là có nhiều người chết mà không có thân nhân cải táng.
Sau khi nghe trình bày sự việc, thầy bảo là chuyện rất thường ở những vùng có giao tranh, đôi bên chết nhiều, nhất là bộ đội miền Bắc bỏ xác chôn tập thể tại chỗ. Riêng miễu Hòn Bi thì mỗi năm ban tụng niệm ở chùa đều có đem nhang đèn đến cúng vái trong Tháng Bảy Âm lịch. Sau đó, thầy xem ngày và đến miễu Hòn Bi tụng niệm cùng với hoa quả, nhang đèn rất tươm tất. Xong xuôi thầy nói với tôi là đã yên ổn, sinh hoạt bình thường không có gì phải lo lắng. Thầy còn giải thích thêm nhiều điều khác nữa mà tôi còn nhớ đôi chút.
Rằng trong cõi u minh còn có nhiều đời sống khác mà mình thường không thấy bằng mắt trần, họa hoằn lắm có đôi khi mới nghe được thoang thoáng như mơ mà thôi, còn trong cõi nhân gian ngoài tiếng người, tiếng thú vật, còn có hằng hà sa số âm thanh khác mà tai mình không nghe thấu, mà có nghe được cũng không hiểu. Tùy cơ duyên mỗi người mà lãnh hội, Ví như có người đọc, nghe kinh kệ lâu ngày, thẩm thấu có thể nghe biết được nhiều điều về kiếp người, có thể gọi là giác ngộ, có người không. Giác linh là phần sâu thẳm nhất của con người. Nó dẫn dắt chúng ta đi trên con đường đời, may hay rủi đều do âm đức mà ta đã tạo dựng nên.
Nếu đã biết, sống không được công bằng thì khi chết dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào chúng ta cũng nên đối xử cho công bằng, ít nhất là về phần hương khói và cầu siêu. Thử nghĩ những người sống không toại nguyện, chết vất vưởng không nơi thờ tự, nhang tàn khói lạnh thì thảm thương biết dường nào. Hơn nữa, có khi “xác khôn, hồn dại”, phần hồn không được siêu thoát cứ quanh quẩn chốn dương gian gây nhiều phiền nhiễu cho người còn tại thế. “Ma đưa lối, quỷ dẫn đường” là vậy.
Kể từ sau đó, thật sự mọi việc đều yên ổn, tốt đẹp. Tôi nhờ trung đội Nghĩa quân gác cầu đốt nhang đèn mỗi tối ở miễu Hòn Bi cho thêm phần linh thiêng và ấm cúng. Lòng thành động đến “Thiên địa quỷ thần” và mùi trầm hương hòa quyện với gió bờ sông cũng làm thành những buổi chiều thật êm ả, ngay cả khi tôi không còn ở nhà biệt điện nữa mà chuyển sang ở trong công quán, bên kia đường, bấy giờ đã trở thành tư thất của ông Phó.
Cũng là duyên lành với khu biệt điện này mà trong những ngày đầu Tháng Ba 1975, có người thuộc lực lượng Thám sát tỉnh cho tôi biết là trực thăng đã đáp khẩn cấp xuống nhà cố vấn Mỹ, khiến tôi linh tính được việc gì sắp xảy ra ở địa phương; và rồi một may mắn nữa lại đến, khi có một phái đoàn hỗn hợp Việt-Mỹ ghé qua Kontum, gợi ý là tỉnh nên cử một phái đoàn, sớm về Phủ Phó Thủ tướng đặc trách Khẩn Hoang Lập Ấp để trình duyệt xét chương trình của tỉnh.
Chiều ngày 8 Tháng Ba 1975, tôi đáp chuyến bay cuối cùng của hãng hàng không dân dụng (Air Vietnam) rời Kontum về Sài Gòn. Qua khung kính cửa sổ máy bay, tôi nhìn xuống dòng sông Dakbla mờ nhạt và dưới vòm cây xanh rì nằm bên đầu cầu sắt là nơi tôi từng trải qua những tháng ngày tươi đẹp nhất…, và chợt nhớ lời truyền khẩu của người dân Kontum thường hay nhắc nhở nhau về một lời nguyền của thần linh để sống sao cho tử tế và lương thiện: “Cái gì của rừng núi sẽ trả về cho rừng núi…”.
Trần Bạch Thu