Khoảng
thời gian sau khi Hiệp định Paris có hiệu lực (ngày 27/01/1973) đến ngày thành
phố Huế thất thủ (26/03/1975), hành khách từ Huế đi ra Bắc, khi vừa qua khỏi cầu
Bến Đá ở vị trí cách Hà Nội 784 km, bên tay trái Quốc Lộ 1 có dựng tấm bảng lớn
độ 2 mét x 5 mét, sơn màu vàng, kẽ bốn chữ “Đại Lộ Kinh Hoàng” đỏ tươi màu máu.
Bên dưới góc phải có thêm 5 chữ nhỏ hơn, màu đen: “Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu”.
Chắc chắn lúc bấy giờ, ngồi tại dinh Độc Lập trên cao ngất trời xanh – trong
tình hình vi phạm ngưng bắn xảy ra khắp nơi, với việc Mỹ cuốn cờ, với các mặt
trận ở Thường Đức (Quảng Nam), ở Phước Long, quân viện bị cắt, xăng không đủ
cho máy bay yểm trợ phi pháo, đạn không có cho binh sĩ hành quân có hiệu quả –
tổng thống Thiệu chẳng còn lòng dạ nào để đặt tên cho một đoạn quốc lộ 1, không
quá 10 cây số, nằm lọt giữa con sông Bến Đá và sông Nhung bé tí trên bản đồ như
thế, mà chỉ là tác phẩm của công chức phục vụ ở Ty Thông tin & Chiêu hồi tỉnh
Quảng Trị, cố lấy chữ nhét vào miệng tổng thống. Dứt khoát, Nguyễn Văn Thiệu
không là kẻ nặn từ đầu ra cái tên không mấy an lành và thanh tao ấy.
Sau
khi đánh được thành, phá được địch và chiếm được đất, mặc dù chưa thắng được
lòng dân, nhưng vào năm 1999, Bộ Quốc phòng đã xuất bản cuốn “55 năm Quân đội
Nhân dân Việt Nam” trong đó, ở phần đề cập đến chiến dịch tiến công Trị Thiên
vào thời điểm Mùa Hè Đỏ Lửa ở Quảng Trị từ 30/03 đến 27/06/1972, Viện Lịch sử
Quân sự chỉ viết ngắn gọn ở trang 324, với 219 chữ:
“Tư lệnh: Thiếu
tướng Lê Trọng Tấn. Chính ủy: Thiếu tướng Lê Quang Đạo. Lực lượng tham gia chiến
dịch: ba sư đoàn bộ binh (304, 308, 324) và hai trung đoàn độc lập, hai sư đoàn
phòng không hỗn hợp (366, 377) gồm tám trung đoàn pháo cao xạ, hai trung đoàn
tên lửa, chín trung đoàn pháo mặt đất, hai trung đoàn xe tăng thiết giáp, hai
trung đoàn công binh và 16 tiểu đoàn đặc công, thông tin, vận tải.
Từ 30/03 đến
5/04, ta phá vỡ tuyến phòng thủ vòng ngoài, giải phóng hai huyện Gio Linh, Cam
Lộ, buộc địch phải rút khỏi tuyến phòng thủ đường số 9. Từ 10/04 đến 2/05, bộ đội
ta tiếp tục thọc sâu, chia cắt, diệt từng tập đoàn quân địch phòng ngự ở Đông
Hà, Ái Tử, La Vang, giải phóng toàn tỉnh Quảng Trị.Từ 3/05 đến 27/06, các đơn vị
củng cố vùng mới giải phóng, đánh địch phản kích.
Sau gần ba tháng
chiến đấu liên tục, ta loại khỏi vòng chiến đấu hơn 27.000 tên dịch, phá hủy
636 xe tăng thiết giáp, 1.870 xe quân sự, 419 khẩu pháo, bắn rơi và phá hủy 340
máy bay…, giải phóng hoàn toàn tỉnh Quảng Trị và ba xã thuộc huyện Hương Điền
(Thừa Thiên).”
Quay lại khúc
phim hãi hùng
Tác
phẩm mới nhất có đề cập tới 4 từ “Đại Lộ Kinh Hoàng”, là cuốn “Phóng viên Chiến trường” của 2 tác giả
Dương Phục & Vũ Thanh Thủy, do nhà xuất bản Tiếng Quê Hương vừa trình làng
lần đầu hôm 15/05/2016 tại Houston. Là một phóng viên chiến trường vào sinh ra
tử, kinh nghiệm trận mạc, Dương Phục là một trong ba sĩ quan Quân lực VNCH
(cùng với thiếu tá Đinh Công Chất và thiếu tá Phạm Huấn), được vinh dự đại diện
cho chính phủ và nhân dân miền Nam bay trên chiếc C-130 ra Hà Nội vào đầu năm
1973, trong tư cách là Ủy ban Liên hợp Quân sự 4 bên [Four-Party Joint Military
Commission; ghi chú của
NgyThanh], để giám sát thủ tục trao trả tù binh Hoa Kỳ từ phía Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa. Trong hồi ký của mình, ở phần nhắc lại “Đại lộ Kinh hoàng”, ký giả
Dương Phục viết:
“Cuộc di tản
hàng chục ngàn người tạo nên một đoàn rồng rắn suốt doạn đường dài trên Quốc Lộ
1, và không ngờ đã biến họ thành mục tiêu dễ nhắm của bom đạn Việt Cộng.
Không điều gì
gây phản tác dụng cho một chiến thắng hơn là cảnh dân chúng lũ lượt quang gánh,
bồng bế nhau liều chết chạy trốn đoàn quân chiến thắng. Cộng sản điên cuồng trước
chuyện dân chúng bỏ đi nên không ngần ngại làm bất cứ gì để ngăn cản. Với thói
quen chỉ biết dùng bạo lực như phương cách duy nhất để áp chế người dân, họ đã
dùng đạn pháo như mưa sa để đe dọa, hy vọng níu kéo người dân Quảng Trị ở lại…
… Hành động bỏ
phiếu bằng chân đó đã như cái tát vào mặt đoàn quân Cộng sản ở bất cứ cửa ngõ
thành phố nào họ đặt chân tới. Cộng quân do đó đã không ngần ngại xả đạn pháo
kích thẳng vào đoàn người di tản, từ đoạn Cầu Dài, Diên Sanh, kéo dài đến tận gần
cầu Mỹ Chánh. Quân nhân chỉ là thiếu số hướng dẫn đoàn di tản, còn lại đa số là
người dân thường, ông già, bà cả, phụ nữ, trẻ em và thương bệnh binh đang nằm
điều trị tại các quân y viện.
… Khi Thủy và
tôi đến được khu vực này, xác người đã nằm phơi sương giải nắng gần hai tháng
trời. Mùi tử khí vẫn nồng nặc trong cơn gió nóng hổi của vùng đất khô cằn như
sa mạc. Chúng tôi ngỡ ngàng không hiểu tại sao quá đông người có thể chết gục
cùng một lúc khắp nơi như thế. Quan sát kỹ, tôi nhận ra đa số thi thể nạn nhân
đều bị hàng ngàn mảnh vụn li ti như đinh vụn từ đầu đạn pháo của Cộng quân. Một
viên đạn pháo kích bắn ra, những mẩu đinh vụn sắt lẻm nầy tung bay mọi phía với
tốc độ tàn khốc và xuyên thủng cả những thành xe bằng sắt của đoàn quân xa miền
Nam. Loại vũ khí nầy đã hạ gục ngay lập tức mọi người, chết sững trong cùng động
tác mà họ đang hành xử đúng lúc đạn pháo bay tới.
Chưa bao giờ
trong đời chúng tôi thấy nhiều người cùng chết một nơi như vậy… Trái tim tôi quặn
thắt trong lòng và Thủy vội làm dấu thánh giá rồi quay mặt sang một bên nôn ọe.
Gần chỗ tôi đứng là thi thể một người mẹ tay ôm chặt đứa con trong lòng, đứa nhỏ
vẫn đang ngậm bầu vú mẹ. Cả hai mẹ con nằm bất động bên bờ đường quốc lộ như
hai hình nộm xám đen của một sân khấu quái đản.
Nếu không tận mắt
chứng kiến, khó ai có thể tưởng tượng được quang cảnh kinh khủng như thế nào.
Xác người nằm vất vưởng khắp nơi. Đồ đạc và quần áo tung tóe phủ kín mặt đường.
Xe hơi, gắn máy, xe đạp, kể cả xe đò, nằm ngổn ngang, lăn lóc. Gồng gánh, bao túi,
tan nát tung tóe phơi bày hết mọi thứ bên trong. Tất cả mọi xe cộ, từ quân xa,
xe jeep, xe hồng thập tự, đến xe đò, xe tư nhân, đều lởm chởm vết đạn xuyên lủng
khắp trên các thành xe.
Có những đoạn
không còn một chỗ nào trống cho nhóm báo chí chúng tôi đặt chân bước qua. Thủy,
vừa gạt nước mắt ứa ra trên má, vừa thận trọng lò mò dò từng bước chân trên mỗi
khúc đường. Chúng tôi phải tìm những cành cây làm gậy chống và nhẹ gạt các mảnh
quần áo còng queo sang một bên, để biết chắc là mình đã không dẵm lên các xác
người khô khốc sau cả tháng phơi bày sương gió.
Đa số xác người
đã rữa nát thịt vì nắng mưa, chỉ còn da bọc lấy xương khô lép kẹp đen sậm như
những hình nộm ma quái trong các loại phim kinh dị. Sâu bọ và côn trùng bay túa
ra khi gậy của chúng tôi lia trúng những xác người ngổn ngang trên đường đi. Có
cả một chiếc xe buýt bị pháo bắn nát đầy lỗ đạn li ti khắp thành xe. Mọi hành
khách dường như đều tử thương tức khắc vì mọi người vẫn ngồi gục trong từng vị
trí trên băng ghế.
Trách nhiệm của các
tướng quân VNCH về cuộc thảm sát trên Đại Lộ Kinh Hoàng
Trước
khi miền Nam Việt Nam thất thủ năm 1975, do sự tan rã của Sư đoàn 3 Bộ Binh, dẫn
đến biến cố mất toàn bộ tỉnh Quảng Trị vào ngày đầu tháng 5/1972, dư luận và
báo chí Sàigòn có khuynh hướng về hùa nhau, chê trách tài lãnh đạo của tướng Vũ
Văn Giai, tư lệnh sư đoàn xấu số nầy, và trút hết trách nhiệm, kể cả về nhiều
ngàn thường dân bị giết trên đường tản cư, cho ông ấy.
Những
ngày sau khi mất Quảng Trị, toàn dân rúng động, dân chúng Huế cũng nhanh chân
ùa vào Đà Nẵng, Sàigòn, kéo theo tâm lý sa sút, và tinh thần chiến đấu bị khủng
hoảng nơi thân nhân họ. Vào thời điểm ấy, việc cứu vãn các tỉnh miền trung
không thể tựa vào các sư đoàn trừ bị thiện chiến như Nhảy Dù, TQLC hay các liên
đoàn Biệt Động Quân – vì thực sự các quân số nầy đang vướng tay ở các chiến trường
khác trên khắp nước. Tổng tư lệnh quân đội VNCH chỉ còn một thế cờ chót trước
khi đầu hàng: một tên tuổi đủ tài thao lược và sạch sẽ để dùng làm liều thuốc
cuối cùng. Thật may, ông đã tìm ra, và đã quyết định kịp thời. Ngày 4/05/1972,
Trung tướng Ngô Quang Trưởng đang là tư lệnh Quân đoàn 4 ở miền đồng bằng sông
Cửu Long nhận lệnh bay ra Đà Nẵng nhận chức tư lệnh Quân đoàn 1, thay tướng
Hoàng Xuân Lãm.
Tướng
Trưởng là người thanh liêm, ít nói, dám làm. Bằng chứng là ông đã cứu nguy được
tình hình, và còn chỉ huy tái chiếm được cỗ thành Đinh Công Tráng, và tất cả
lãnh thổ tỉnh Quảng Trị nằm ở phía Nam sông Thạch Hãn, rồi lầm lì im lặng. Mãi
đến sau khi di tản sang Mỹ, vào thời gian được ban quân sử Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ
mời, năm 1980 ông mới viết quyển “The
Easter Offensive of 1972”, sau đó được Kiều Công Cự chuyển ngữ thành “Trận Chiến Trong Mùa Phục Sinh Năm 1972”
ấn hành vào năm 2007, sau khi ông Trưởng đã qua đời.
Chính
tướng Trưởng lên tiếng bạch hóa vai trò của tướng Giai trong các diễn tiến mất
Quảng Trị, dẫn đến dân chết thảm trên ĐLKH. Trong cuốn sách kể trên, tác giả viết:
“… Tướng Lãm đã
không quan tâm đến những khó khăn mà tướng Giai gặp phải. Thái dộ của ông hoàn
toàn lạc quan… Thái độ lạc quan của tướng Lãm lại được thể hiện rõ nét qua biến
cố ngày 9/04… Ở thời điểm nầy, trách nhiệm và quyền hạn của tướng Giai đã vượt
xa hơn vị trí của một vị tư lệnh sư đoàn. Ông đã chỉ huy 2 trung đoàn BB Cơ hữu
(TrĐ 2 và 57), điều động hành quân 2 LĐ/TQLC, 3 LĐ/BĐQ, 1 LĐ/Kỵ binh và những lực
lượng diện địa của tỉnh Q. Trị. Như vậy ông ta có đủ quyền hạn trên 9 LĐ bao gồm
khoảng 23 tiểu đoàn và những lực lượng diện địa… Nhưng có một điều cần lưu ý ở
đây là tướng Lãm không tự cảm thấy vội vàng đến thăm viếng những vị chỉ huy dưới
quyền của ông ở tại mặt trận hay những đơn vị tuyến đầu của QĐ1. Ông chỉ nghe
thuyết trình về những diễn biến của trận đánh qua các bản báo cáo và ban hành
những chỉ thị, những huấn lịnh cho ban tham mưu của ông. Tự bản thân ông không
bao giờ đi thị sát tuyến phòng thủ của SĐ3 để hiểu rõ những trở ngại mà các đơn
vị trưởng phải đối mặt…
… Căn cứ Ái Tử,
phía bắc sông Thạch Hãn, là một chọn lựa không thích hợp về mặt chiến thuật.
Trong suốt tháng Tư, đây là điểm mà pháo địch gửi đến hàng ngày đêm với một mức
độ dữ dội. Cho nên Tư lệnh SĐ3 đã quyết định dời bộ tham mưu về phía nam của
con sông Thạch Hãn, trong cỗ thành Quảng Trị. Ông ta chỉ hỏi ý kiến của vị cố vấn
sư đoàn. Tướng Giai sợ rằng những cấp chỉ huy dưới quyền của ông biết được kế
hoạch nầy, họ sẽ tìm cách phá hỏng bằng những hành động vội vàng nào đó. Ông ta
cũng không thông báo kế hoạch nầy cho vị tư lệnh QĐ1. Đơn giản là ông ta muốn cẩn
thận, muốn đặt mọi việc trước một sự đã rồi. Nhưng đó là một hành động gây tức
giận cho tướng Lãm và sự bất tin cậy bắt đầu lớn dần giữa họ, khoảng cách càng
lúc càng lớn cho đến những biến cố dồn dập xảy ra dẫn đến sự thất thủ của thành
phố Quảng Trị…
… Trong vòng 4
giờ sau đó [ngày
1/05/1972, ghi chú của NgyThanh] những
phòng tuyến của quân đội miền Nam đã đổ vỡ hoàn toàn… Sau cùng khi biết được những
gì đã xảy ra, tướng Giai đã cùng ban tham mưu lên 3 chiếc M113 trong cố gắng bắt
kịp đoàn người phía trước. Lúc đó những chiếc trực thăng Mỹ đã đến để di tản những
toán cố vấn và những nhân viên người VN của họ. Tư lệnh SĐ3 muốn nhập vào đoàn
người phía trước nhưng thất bại. Quốc Lộ 1 đầy cứng những người dân chạy loạn
và những toán quân ô hợp và mọi loại xe cộ, quân đội và dân sự. Tất cả hốt hoảng
tìm đường về Huế dưới những bức tường lửa dã man hung bạo của các loại pháo địch.
Tướng Giai bị bắt buộc phải quay lại cỗ thành và sau đó ông ta và ban tham mưu
được trực thăng Mỹ bốc đi…
Trên QL1, cả một
dòng thác người chạy loạn, dân sự và binh lính tiếp tục xuôi nam. Con đường đã
diễn ra một cảnh tượng tàn sát không thể nào tưởng tượng nổi. Những chiếc xe đủ
các loại bốc cháy dữ dội. Những chiếc thiết giáp, GMC, xe nhỏ của quân đội và
dân sự đầy cứng cả con đường không tài nào lưu thông được. Trong khi đó pháo
binh địch mở ra một cuộc tàn sát đẫm máu không nương tay. Cho đến xế trưa hôm
sau, cuộc thảm sát mới chấm dứt. Hàng nhiều ngàn người vô tội đã được tìm thấy
trên đoạn đường dài của QL1 và sau đó báo chí đã đặt cho cái tên là “đại lộ
kinh hoàng”. Sự khích động và sự thảm thương của cảnh nầy, cũng giống như cuộc
tàn sát tập thể tại Huế hồi Tết Mậu Thân 1968 đã ám ảnh người dân phía bắc của
Vùng 1 Chiến thuật một khoảng thời gian lâu dài.”
Người Mỹ có biết
về cuộc thảm sát trên ĐLKH?
Đào
bới núi sách báo viết về chiến tranh Việt Nam để tìm hiểu thêm về số người từ
Quảng Trị chạy về Huế vào ngày 1/05/1972, chúng tôi đã may mắn bắt gặp được tấm
ảnh duy nhất do thiếu tá Robert Sheridan, TQLC Mỹ chứng kiến và thu vào ống
kính. Trong ảnh đăng kèm bài nầy, độc giả thấy máy ảnh được đặt ở góc tây bắc của
cầu Bến Đá, ống kính hướng ra phía quận lỵ Hải Lăng, nơi đặt bản doanh Lữ đoàn
369TQLC trong cuộc hành quân tái chiếm QT vào tháng 7 và tháng 8/1972. Ảnh nầy
lấy từ trang 195 trong cuốn “The Easter
Offensive” (Trận Công kích Mùa Phục Sinh) của tác giả Gerald Turley được
nhà xuất bản Presidio in vào năm 1985. Ở chương 18, ông đại tá nhân chứng trong
tư cách cố vấn trưởng của SĐ3BB đã tường thuật:
“Lúc 12 giờ trưa
[ngày
1/05, ghi chú của NgyThanh] tướng Giai
tuyên bố tình hình kể như tuyệt vọng; thành phố không thể cầm cự dù bất cứ tình
huống nào. Ngay sau đó, hai chiếc thiết vận xa chạy vào thành cỗ. Tức khắc,
Giai cùng khoảng 25 sĩ quan cao cấp của ông trèo vào, hoặc ngổi bên trên các xe
ấy để mở màn nỗ lực tẩu thoát về phía sông Mỹ Chánh. Hành động nầy bỗng dưng
làm khoảng 18 quân nhân Mỹ bị bỏ rơi, phải trông chờ trực thăng đến di tản một
cách vô vọng. Dave Brookbank và Glen Golden đã phải dùng kỹ năng của mình để
lên kế hoạch chia nhau tử thủ cỗ thành. Đến 2g00, hai chiếc thiết vận xa chở
Giai và đoàn tùy tùng quay lại cỗ thành. Hóa ra khi vừa ra khỏi thành phố mới
chỉ được lối 1.5 km, xe của họ bị đối phương phác giác và tấn công. Đường thoát
bị khóa, họ chỉ còn nước quay ngược về thành. Về tới, Giai tức thì gọi xin trực
thăng để di tản ban tham mưu của mình… Bên trong cỗ thành, việc chuẩn bị di tản tiếp
tục với tốc độ chớp nhoáng trong khi các cố vấn Mỹ đốt bỏ tài liệu mật càng nhiều
càng tốt song song với phá hủy tối đa các đồ quân cụ. Lúc 3g20, máy phát điện nổ.
Vẫn chưa biết liệu có được di tản kịp không, nhưng các cố vấn đã bắt đầu nghe thấy
tiếng súng nhỏ ngay phía ngoài tường thành, mỗi lúc mỗi nhiều, và khu vực cũ
ngoài phố bắt đầu bốc cháy. Đến 4g30, chuyến trực thăng đầu tiên sà xuống. Ông
Giai và các sĩ quan thân cận nhảy vội lên. 4g32, máy bay rướn lên, chở theo 37
hành khách. Chiếc thứ nhì nhào xuống, trong vòng hai hoặc ba phút, đã mang đi
47 người. Chiếc thứ ba xuống, bốc 45 người còn lại, với đại tá Murdock và thiếu
tá Golden, là 2 người sau cùng. Đến lượt chiếc thứ tư xuống, nhưng chỉ sau 30
giây, đã cất tàu trống lên khi các phi công biết là tất cả mọi người đã được cứu
thoát. Cuộc di tản 129 quân nhân về Đà Nẵng đã kết thúc thành công. Thành phố bị
cô lập và bỏ ngõ…
Trước đó, giữa
sáng 29/04, hai đại úy George Philips và Bob Redlin lái xe Jeep tới bộ chỉ huy
Lữ đoàn 369TQLC để bốc thiếu tá Sheridan. Philips nói, ‘Chúa Mẹ ơi, ông có thấy
gì ngoài quốc lộ không? Cả mấy ngàn người dân đang chạy, bỏ Quảng Trị lại sau
lưng. Ngòai đó, nhìn vào phía nam hay ngược ra bắc đều thấy dầy kín dân tỵ nạn.
Đoàn người cứ thế tiếp tục trong nhiều tiếng đồng
hồ. Khoảng giữa trưa 29/04, pháo binh Bắc quân lại bắt đầu ào ào nhã đạn vào
đoàn người ấy. Khi đêm xuống, người tỵ nạn băng qua các vị trí bố phòng của
TQLC. Đột nhiên, lúc 9g đúng, trừ những người chậm chân bị tụt hậu lại đàng
sau, đoàn ngươi bỗng dưng đứt đoạn. Đại tá Mũ xanh Phạm văn Chung không lâu sau
đó đã nhận được tin nguyên nhân sự đứt đoạn là bởi Bắc quân đã thành công trong
việc cắt đứt Quốc Lộ 1 ở phía nam thành phố. Vậy rõ ràng là họ đã chiếm được
cây cầu qua sông Nhung [cầu Dài, hoặc cầu Trường Phước, ghi chú của
NgyThanh] do một cánh quân Biệt Động trấn
giữ. Và như thế, nhiều bộ phận của Sư đoàn 3BB đã bị nhốt cứng cách phòng tuyến
Mỹ Chánh độ 8 km về phía bắc.”
Phóng
viên Arnold Issacs của tờ Baltimore Sun có dịp đi qua đại lộ kinh hoàng, đã trông
thấy tấn thảm kịch và ghi lại trong cuốn “Without
Honor: Defeat in Vietnam and Cambodia” (Chẳng danh giá gì: Chiến bại ở Việt
Nam và Cambodia):
“Ở phần mở màn của
trận phản công, binh sĩ Nhảy dù VNCH đã chứng kiến một trong những cảnh tượng
khủng khiếp nhất trong toàn bộ cuộc chiến tranh: những tàn dư của một đoàn công
voa gồm vừa lính tráng vừa thường dân bị đốt cháy và bị xé banh xác do bị kẹt lại
ở phía bên kia của cây cầu đã bị giật sập [cầu Bến Đá, ghi chú của
NgyThanh] để rồi bị tiêu diệt trên hành
trình trốn chạy khỏi tỉnh. Trên chiều dài của nhiều dặm đường, xe cộ bị xé toạc
thành từng miếng nằm nối đuôi nhau thành một hàng dài hầu như không đứt lìa dọc
cả hai bên lề đường. Trên chuyến xe Jeep nhồi nhét đầy ắp nhà báo chạy về hương
bắc một vài ngày sau khi lính Nhảy Dù qua sông, tôi đếm được hơn 400 xác xe
trong 3 cây số đầu tiên, và tôi thôi không đếm nữa trước khi tới hết cái đuôi của
sự tàn phá. Quân xa thì bạt che mui bị đốt cháy hay đã bay mất, chỉ còn trơ các
thanh đỡ mui trông giống các que xương sườn của một bầy khủng long. Xen kẽ giữa
chúng là các xác xe tư nhân nằm lộn xuôi lộn ngược: xe đò thì bên hông lăm dăm
các lỗ thủng do mảnh lựu đạn hay đạn súng trường, xe đạp xe gắn máy bị vặn cong
hoặc gảy gọng từng khúc, xe lam thì chiếc cháy chiếc bị xé từng mảnh, xe hơi
cháy đen, đèn pha bị hất tung ra ngoài chỉ còn các lỗ trống như các hố mắt trên
đầu lâu con người.”
Phần
riêng thiếu tá Sheridan, ông ghi nhận những gì mà ông quan sát cảnh tượng vô bờ
bến của tấn thảm kịch và sự tàn phá: “Đoàn
người chạy giặc kéo dài hàng giờ và tôi nghĩ không đời nào còn có thể chứng kiến
một hình ảnh tệ hại hơn khi mà vào sau giờ Ngọ, các pháo thủ của miền Bắc, vì
lý do gì thì tôi sẽ không bao giờ hiểu thấu, đã khai hỏa các họng đại pháo trút
đạn xuống đầu đoàn người. Hàng trăm người bị giết và bị thương, nhưng cái khối
lúc nhúc người ấy tiếp tục ùn về phía nam. Chúng tôi không thể bắn trả vì tầm bắn
của pháo binh địch xa hơn pháo của chúng tôi. Tất cả sự kính trọng tôi vẫn dành
cho bộ đội Bắc Việt đã đánh mất từ hôm ấy. Các tiền sát viên của họ, những người
chấm tọa độ và chỉnh bắn trận mưa pháo đã đến đủ gần để khẳng định rằng đa phần
là dân thường và không thể là một lực lượng quân sự.”
Vòng tròn khép
kín
44
năm trước, trong tuần lễ nầy, quốc lộ tử thần giữa cầu Bến Đá và cầu Trường Phước
bốc mùi tử khí. Thật là một trùng hợp lịch sử: trong tháng 7 năm nay, cuốn nhật
ký chiến tranh Mùa Hè Cháy của tác giả Quý Hải, nguyên là một đại tá của Quân đội
Nhân Dân, đã được tái bản.
Sáng
1/07/1972, khi tôi từ Huế theo chân phóng viên chiến trường Đoàn Kế Tường đến cầu
Bến Đá nằm ở phía bắc phòng tuyến Mỹ Chánh, thì cầu xe đã bị giật sập như các nhân
chứng khác đã tường thuật. Thấy khu vực hai đầu cầu vắng lặng, không có lính Nhảy
Dù phòng ngự trong các hố cá nhân và giao thông hào, chúng tôi phán đoán là
phía VNCH đã đẩy được đối phương lùi lại một khoảng, nên rũ nhau bò qua chiếc cầu
sắt xe lửa cũng đã gãy gục thành hình chữ V xuống nước, nhưng vẫn có thể bò qua
được, nếu may mắn trên thành cầu không bị cài mìn hay lựu đạn. Với một chút liều
lĩnh và hiếu thắng của tuổi trẻ, chúng tôi đã bò qua dễ dàng. Ngay đầu cầu phía
bên kia của quốc lộ, là một bãi mìn dày đặc, do công binh VNCH cài một cách
công khai, ngụ ý đe dọa để ngăn chặn đối phương hơn là nhằm sát thương. Bắt đầu
từ bãi mìn hướng ra phía bắc, là dãy xe nhà binh, xe dân sự, xe đạp, xe gắn máy
và la liệt xác người như trong tấm hình duy nhất mà tôi còn giữ lại được cho những
sử gia nghiên cứu về sau. Sau nhiều năm tìm tòi, tôi thấy cần bảo lưu tấm hình
không đạt yêu cầu nghệ thuật của mình, vì ngoài một tấm thứ nhì do thiếu tá cố
vấn Robert Sheridan thuộc TQLC Mỹ chụp, tất cả các hình ảnh “đại lộ kinh hoàng”
còn lại đều được chụp sau khi Công binh Chiến đấu của Trung tá Trần Đức Vạn đã
bắt xong cầu dã chiến qua sông Bến Đá, để mang xe ủi qua sông, cào một dãi khá
rộng giữa lòng đường làm tuyến tiếp viện binh sĩ, súng đạn và thực phẩm cho tiền
quân. Nhờ có cầu dã chiến, các phóng viên khác đến sau chúng tôi không phải bò
qua cầu sắt, nhưng họ lỡ dịp may ghi vào ống kính tình trạng nguyên vẹn của cảnh
tượng mà tôi đặt tên là “đại lộ kinh hoàng” trong cú điện thoại gọi về tòa soạn
Sóng Thần từ bưu điện Huế trong đêm 1/07/1972.
Nhưng
Tường và tôi vẫn là những kẻ đến muộn những 2 tháng sau khi đã xẩy ra cảnh tượng
kinh hoàng. Người biết về cảnh tượng rùng rợn nầy trước chúng tôi chính là vị
sĩ quan chỉ huy tiểu đoàn 2 thuộc trung đoàn 38 Pháo binh Bông Lau của miền Bắc,
người ra lệnh từ đài quan sát ở cao điểm 132, và chịu trách nhiệm trên từng
viên đạn pháo tầm xa, trong cuộc chiến nhằm “giải
phóng nhân dân khỏi sự kềm kẹp của Mỹ Ngụy”.
*
Trong
cuốn Mùa Hè Cháy, tác giả Quý Hải, bây giờ mang quân hàm đại tá, đã chỉ viết
đúng một câu ngắn: “Dọc đường số 1 hàng
trăm xe ngổn ngang, địch bỏ chạy. Máy bay địch thâm độc thả bom vào những đoàn
xe để phi tang, bất kể lính của chúng bị thương còn ngổn ngang. Xe cháy nghi
ngút.”
Là
một trong hai nhà báo đầu tiên đặt chân đến và đặt cho địa ngục trần gian ấy cái
tên “đại lộ kinh hoàng”, tôi thấy cái vòng tròn bao quanh cánh đồng chết giữa 2
cây cầu Bến Đá và Trường Phước nay đã có thể khép kín, nếu người đặt tên là
tôi, và cha đẻ của tác phẩm vấy máu chấp nhận ngồi đối diện nhau, cũng như đối diện
với các oan hồn đã bị thảm sát.
Khi
ngồi trước mặt nhau, tôi, một quân nhân mang cấp bậc Binh Nhất của miền Nam, chỉ
xin phép thưa với thiếu tá pháo binh Nguyễn Quý Hải vài điều thật giản dị. Thứ
nhất, hố bom do máy bay thả xuống và hố đạn pháo binh sau khi bị kích hỏa, tôi nghĩ
là không thể trộn lẫn với nhau. Nhưng kiến thức của một Binh Nhất miền Nam có
thể rất hạn hẹp, hay lầm lẫn; đề nghị thiếu tá hỏi lại thủ trưởng của mình, trung
đoàn trưởng Cao Sơn. Là người đi suốt chiều dài tử lộ từ sông Bến Đá đến sông
Nhung, tôi khẳng định với người anh hùng Bông Lau [dám tấn phong liệt sĩ cho khẩu đội trưởng Nhúng, Trọng
và đồng đội đã hy sinh tại trận địa ngày 22/04/1972 mà không cần chờ chính phủ
ban hành Nghị định số 31/2013/NĐ-CP, ngày 1/06/2013 quy định chi tiết, hướng dẫn
thi hành một số điều của Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng] – rằng,
trên mặt đường nhựa ấy, chỉ có xác chết và xác xe, không có một hố bom, dù là
loại bom nhỏ nhất. Thứ nhì, cây kim trong đống rơm còn có lúc phải thò ra ánh
sáng, nữa là đoạn từ lộ dài trên 5km, xác xe đan vào nhau từ vệ đường bên nầy
sang bên kia, bề ngang còn lớn hơn cả đoạn Bát Đạt Lĩnh (八達嶺) của Vạn Lý Trường
Thành, hà tất từ quỹ đạo địa cầu cũng có thể thấy đại lộ kinh hoàng. Hay là ông
đại tá Bắc Việt chưa có đủ thông tin, hoặc giả thông tin chưa chuẩn xác về những
nạn nhân của Bông Lau, chủ yếu là dân thường?
Tôi
xin kể một mẩu tin ngắn để mua vui cho người hùng Bông Lau: mới đây thôi ngày
31/05/2016, tại giao lộ Briardale và Brook Canyon trong thành phố Charlotte,
bang Bắc Carolina, một chị tài xế, để tránh khỏi cán một con mèo trên đường, đã
làm chiếc xe buýt chở học sinh của chị lạc tay lái, húc văng một xe hơi đang đổ
bên đường, rồi lao vào một căn nhà, gây thương tích cho 14 học sinh và bản thân
chị. Chuyện nầy nhỏ như chuyện xe cán chó chó cán xe bên mình, chẳng ai buồn nhớ
lại sau khi đọc cái tin, vì tránh không sát hại thú vật đã trở thánh nếp sống
văn minh của con người. Thành thử, đoạn văn mà nhà văn đại tá dùng để kết án Mỹ
ngụy thâm độc dùng máy bay thả bom vào những đoàn xe để phi tang, tôi không
nghĩ là có cơ sở, sẽ có ai tin, mà tự nó vạch trần cho người đọc thấy được một
nỗ lực lấp liếm, tráo trở kém trình độ. Muốn có người tin, e rằng trước tiến cần
thu hồi toàn bộ sách Mùa Hè Cháy đã in, để hiệu đính vô số lỗi văn phạm, lỗi cú
pháp và cách hành văn tối nghĩa như mõm chó, cũng như phải sửa lại đoạn vừa
trích dẫn, vì chỉ vỏn vẹn có 40 từ, mà nhà văn lớn đã vấp phải lỗi điệp ngữ vĩ
đại.
Thưa
Đại tá Quý Hải:
Chiến
tranh lùi lại sau lưng chúng ta đã 41 năm. Chuyện chết chóc và đau thương đã trở
thành quá khứ. Nay người dân đang cần những tác phẩm mang tính chính sử, chứ
không là ngụy sử. Nếu những trách nhiệm mà tướng Thân Trọng Một gây cho người
dân Huế có thân nhân bị chôn sống hồi Mậu Thân đến nay vẫn trong diện ưu tiên cần
né tránh, thì chắc chắn việc đại tá ra lệnh và sửa bắn, làm chết ít ra 1.841
người mà chính tay chúng tôi lượm được xác ba tháng sau đó – cũng chưa cần phải
đưa đại tá ra trước vành móng ngựa của Tòa án Hình sự Quốc tế ở Hà Lan, để trả
lời về tội ác chiến tranh, hay tội ác chống lại loài người. Mặc dù thiếu tá
Robert Sheridan viết “Tất cả sự kính trọng
tôi vẫn dành cho bộ đội Bắc Việt đã đánh mất từ hôm ấy”, nhưng là người Việt
Nam với nhau, tôi sẽ sẵn sàng bày tỏ lòng kính trọng của mình dành cho tập thể
Quân đội Nhân dân, trong đó có đại tá – với điều kiện đại tá nhận lời mời gọi
kính cẩn của tôi, để mang vòng hoa trắng, đến thăm đài tưởng niệm các nạn nhân
đã bị giết oan, và cầu cho oan hồn họ tiêu diêu cõi vĩnh hằng. Nếu dám đến, với
sự hối tiếc chân thành, và với tư cách là người gây ra biến cố “Đại Lộ Kinh
Hoàng”, tôi cho rằng đại tá Nguyễn Quý Hải xứng đáng được tha bổng.
NgyThanh
1/07/2016