Sunday, September 15, 2024

The Last Officer: 99-Year-old Major General John Raaen - 5th Ranger Battalion in France, Belgium, and Germany, until December 1944 - United States, Korea, Europe, and Vietnam

Viên chức cuối cùng:
Thiếu tướng 99 tuổi John Raaen là sĩ quan cuối cùng còn sống sót sau đợt D-Day đầu tiên.
Ông sinh ra tại Fort Benning, Georgia vào năm 1922, là một sĩ quan quân đội chuyên nghiệp và theo học tại Học viện Quân sự Hoa Kỳ tại West Point. Sau khi tốt nghiệp, anh được thăng cấp Thiếu úy.
Vào tháng 10 năm 1943, Raaen được bổ nhiệm vào Liên Đoàn 5 Biệt Động Quân Hoa Lỳ mới được bổ nhiệm và trải qua khóa huấn luyện ở Florida, Anh và Scotland.
Ông tham gia đợt tiến quân vào D-Day đầu tiên vào ngày 6 tháng 6 năm 1944, giữ chức vụ Đại đội trưởng của Biệt động quân số 5 trên Bãi biển Omaha. Trong lần đầu tiên tham chiến, Raaen, lúc đó là cấp bậc Đại úy, đã có mặt trên các bãi biển ở Normandy, Pháp. Anh đã được trao tặng Huy Chương Anh Dũng Bội Tinh với Ngôi Sao Bạc và Huy Chương Bộ binh chiến đấu vì hành động của mình vào ngày hôm đó.
Ông phục vụ trong Tiểu đoàn 5 Biệt động quân ở Pháp, Bỉ và Đức cho đến tháng 12 năm 1944 trong Trận chiến Bulge, khi ông bị thương vào một vụ tai nạn xe Jeep.
Ông được di chuyển trở lại Hoa Kỳ và được bổ nhiệm làm giảng viên tại Cục Quân khí ở West Point cho đến khi chiến tranh kết thúc.
Trong suốt những năm sau chiến tranh, Raaen nắm giữ nhiều quyền chỉ huy quan trọng trên khắp Hoa Kỳ, Nam Hàn, Châu Âu và Việt Nam. Tháng 4 năm 1979, ông về hưu với cấp bậc Thiếu tướng sau 36 năm phục vụ  cho Quân đội.

Các bạn mến,
Hãy cùng chúc mừng Sinh Nhật Cụ Ông này, một chiến binh Hoa Kỳ từng tham chiến trận D-Day Normandy năm 1944, mà Cụ Ông này là người cuối cùng còn sống cho đến hôm nay, quá lớn tuổi rồi. Điểm đặc biệt trong tấm hình dưới, Cụ Ông trân trọng ôm cái khung gắn nhiều huy chương, mà đáng kể là trong số đó có huy chương của Quốc Gia Việt Nam Cộng Hoà lá cờ Vàng Ba Sọc Đỏ. Tôi xúc động và hãnh diện khi thấy hình ảnh này. 🌷
Trích Wikipedia:
Trận Normandie
Cuộc đổ bộ của quân đội khối Đồng minh vào các bãi biển vùng Normandie ngày 6 tháng 6 1944, còn gọi là Trận chiến vì nước Pháp[10], là một trong những mốc lịch sử quan trọng của Thế Chiến thứ Hai. Đây là cuộc tấn công từ biển vào đất liền lớn nhất trong lịch sử[11], với hơn 150.000 quân lính của Hoa Kỳ, Anh Quốc, Canada cùng với quân kháng chiến Pháp, Tiệp Khắc, Ba Lan, Bỉ, Hà Lan, Na Uy, theo các chiến hạm lớn nhỏ từ miền nam Anh Quốc kéo vào đất Pháp lúc bấy giờ đang nằm dưới sự kiểm soát của quân Đức Quốc Xã. Ngay từ ngày đầu tiên, họ đã phá hủy các cầu và cắt đường liên lạc của quân Đức, và gặt hái thành công vang dội[12]. Sau nhiều ngày chiến đấu, quân lực Đồng Minh giành được lợi thế vào tháng 7 năm ấy[12], đẩy được quân Đức Quốc Xã ra khỏi các căn cứ quân sự tại Normandie và trên đà thắng lợi đã tiến hành cuộc giải phóng Paris nói riêng[10], và cuộc tiến chiếm giải phóng châu Âu nói chung cũng như sự chấm dứt thắng lợi của cuộc chiến. Bất chấp sự kháng trả mãnh liệt của mình, quân Đức bị tổn thất lớn lao, lâm vào một thảm họa choáng váng.[2][13] Thắng lợi quyết định này đã làm nên một bước ngoặt lớn cho cả cuộc Đại chiến thế giới lần thứ hai, góp phần dẫn tới sự sụp đổ của Nhà nước phát xít Đức và chấm dứt chiến tranh.[1][14][15] Để đạt được chiến thắng vang dội này, lực lượng Đồng Minh đã phải hứng chịu thiệt hại nặng nề,[13] và đại thắng cũng được xem là một trong những trận thắng vẻ vang và anh dũng nhất trong cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai.
Ngô Kỷ

The Last Officer: 
99-Year-old Major General John Raaen is the last surviving officer from the first wave of D-Day. 
 He was born at Fort Benning, Georgia in 1922, to a career military officer, and attended the United States Military Academy at West Point. Upon graduation, he received a commission as a Second Lieutenant. 
In October of 1943, Raaen was assigned to the newly activated 5th Rangers, and underwent extensive training in Florida, England, and Scotland. 
He participated in the first wave of the D-Day invasion on June 6, 1944, serving as Headquarters Company Commander of the 5th Rangers on Omaha Beach. During his first time in combat, Raaen, who was an Army Captain at the time, distinguished himself on the beaches of Normandy France. He was awarded the Silver Star and Combat Infantryman Badge for his actions on that day. 
He served with the 5th Ranger Battalion in France, Belgium, and Germany, until December 1944 during the Battle of the Bulge, when he was involved in a serious Jeep accident. 
He was evacuated back to the United States and was appointed as an instructor in the Department of Ordnance at West Point until the end of the war. 
Throughout the postwar years, Raaen held several important commands throughout the United States, Korea, Europe, and Vietnam. In April 1979, he retired at the rank of Major General after 36 years of devoted service to the Army. 
 
Major General John C. Raaen Jr.

Born on 22 April 1922 at Fort Benning, Georgia, John C. Raaen, Jr., graduated from the United States Military Academy in 1943. Commissioned as a 2nd. Lt. in the Corps of Engineers, he joined the newly activated 5th Ranger Battalion, landing on Omaha Beach on D-Day, 6 June 1944, where he earned a Silver Star. Injured in December 1944, Raaen was evacuated to the United States.

After recovering from his injuries, he was appointed as an instructor in the Department of Ordnance at West Point in 1945 and transferred to the Ordnance Corps in 1947. After attending the Naval Post Graduate School in Annapolis, Maryland from 1948 to 1949, he earned an MA in Nuclear Physics from Johns Hopkins University, Maryland, in 1951. Raaen next served as the Executive Officer in the Ammunition Development Branch of the Office of the Chief of Ordnance from 1951 to 1954, involved in the development of combustible cartridge cases, anti-tank projectiles, and armor-piercing small arms ammunition.

From 1955 to 1956, Raaen served in Korea, first as Executive Officer, 8th US Army Ordnance Section, where he expedited the flow of repair parts and new equipment, and then as commander of the 83d Ordnance Battalion, where he revamped the ammunition stock control system. He returned to the United States in 1957 to serve on the Ordnance Board at Aberdeen Proving Ground (APG ), Maryland. In 1959, as a member of the Military Liaison Committee to the Atomic Energy Commission, he was involved in developing artillery nuclear warheads and arming devices.

From 1963 to 1965, Raaen served as Ordnance Officer then Deputy Chief of Staff, G-1, of the Berlin Brigade. In 1965, he took command of the Miesau ammunition depot in Germany. In September 1965, he headed up the US Army Research Office in Durham, North Carolina, overseeing programs being carried out by civilian researchers and scientists for the Army. Raaen then commanded, from 1967 to 1969, the Ballistics Research Laboratories, the Human Engineering Laboratories, and the Coating and Chemical Laboratory at APG and consolidated them with other agencies to form the Aberdeen Research and Development Center.

In 1969 Raaen served at Headquarters, United States Army Vietnam, as Chief of the G-4 Ammunition Division, then as Chief of the G-4 Supply Division, and finally as Deputy Assistant Chief of Staff, G-4. He then returned to the United States to serve as Director of Ammunition in the Office of the Deputy Chief of Staff for Logistics, Department of the Army, Washington, D.C. In 1971, he took command of the Mobility Equipment Command in St. Louis and in 1972 moved to Rock Island Arsenal to take command of the US Army Weapons Command. In 1973, Raaen organized and assumed command of the US Army Armament Command, merging three organizations responsible for 25 ammunition plants and seven arsenals. In 1975, Raaen served as Executive Deputy Director of the Defense Supply Agency, Alexandria, VA, and in 1976 took command of the Defense Fuel Supply Center in Washington, D.C. Maj. Gen. John C. Raaen, Jr., retired in 1979 after 36 years of devoted service.

LAST SURVIVING OFFICER D-DAY FIRST WAVE TURNS 99
Please join us in wishing WWII veteran Major General John Raaen a happy 99th birthday! In the early hours of D-Day, June 6, 1944, Raaen was among the first to land on Omaha Beach, serving as Headquarters Company Commander of the 5th Ranger Battalion. He is believed to be the last living officer who landed in the first wave at Bloody Omaha.
An Army Captain at the time, Raaen distinguished himself in combat across the European theater and was awarded the Silver Star and Combat Infantryman Badge for valorous actions in the face of the enemy. He served with the 5th Rangers in France, Belgium, and Germany, until December 1944 during the Battle of the Bulge, when he was involved in a serious Jeep accident.
He was evacuated to the United States and later taught as an instructor at the United States Military Academy at West Point until the end of the war. Throughout the postwar years, Raaen held several significant commands in the United States, Europe, and during the Korean and Vietnam wars. In April 1979, he retired at the rank of Major General after 36 years of devoted service to the US Army.
"Giving the Past a Future, One Story at a Time."
WWII Veterans History Project

Friday, September 6, 2024

Phải trút hết tội làm Mỹ thua trong chiến tranh VN cho cựu TT Nguyễn Văn Thiệu - Henry Kissinger

Miền Nam Tự do mất vào tay Việt cộng Miền Bắc, công của TNS trẻ Biden đối với CS không nhỏ khi phản đối tiếp tục viện trợ cho Miền Nam chống Việt cộng.
Không quên đọc những comments.

From: 'vi nguyen' via Văn Đàn TIẾNGQUÊHƯƠNG
[TiếngQuêHương] Phải trút hết tội làm Mỹ thua trong chiến tranh VN cho cựu TT  Nguyễn Văn Thiệu

Phải trút hết tội làm Mỹ thua trong chiến tranh VN cho cựu TT  Nguyễn Văn Thiệu

Cho đến năm 2024, cố Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã chết được 23 năm nhưng chưa có một ai hay một đoàn thể nào dám đứng ra kêu gọi trả lại danh dự cho ông, mặc dầu ngay khi ông vừa mới qua đời vào năm 2001 thì phóng viên chiến trường nổi tiếng nhất thế giới là Orihana Fallaci đã kêu gọi dư luận hãy trả lại danh dự cho ông.
Sở dĩ Orihana Fallaci phải kêu gọi bởi vì sau 1975 các phương tiện truyền thông của Mỹ trên khắp thế giới đã nhận được lệnh của Kissinger là phải trút hết tội làm Mỹ thua trong chiến tranh VN cho ông Nguyễn Văn Thiệu để cho sự thua của Mỹ tại Việt Nam “khả dĩ coi được” (đỡ quê).

Riêng các phương tiện truyền thông Việt gian
 trên đất Mỹ thì có bổn phận nguyền rủa NVT độc tài tham nhũng mới làm cho mất nước, nhằm hướng nỗi hận mất nước của nguòi Việt vào ông NVT mà quên đi nguyên do mất nước là bị Mỹ phản bội.

Ngày 29-9 năm nay đã là ngày giỗ thứ 23, 2001-2024 của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu.
Cho tới trước khi chết ông vẫn cúi đầu nhận chịu trách nhiệm đã làm cho mất nước,một lỗi lầm quá to lớn mà cá nhân một người không thể nào gánh vác. 
Nếu có một người nào đó đứng ra nhận chịu thì quả là vô lý, thế nhưng ông Nguyễn Văn Thiệu đã làm.

Frank Snepp là một nhân viên CIA làm việc tại chi nhánh CIA tại Sài Gòn năm 1975. 
Nhiệm vụ của ông là đọc báo và nghe đài phát thanh của CSVN và VNCH để trình cho Polgar, trưởng CIA tại Sài Gòn, những tin nào mà ông ta thấy đáng quan tâm.
Sau biến cố 1975 Frank Snepp quyết định viết thành sách về những gì ông chứng kiến trong vai trò một nhân viên CIA làm việc tại VN trong giai đoạn Hoa Kỳ cuốn cờ ra khỏi Việt Nam. 
Nhờ đó ông nhanh chóng trở thành nhân chứng sống duy nhất dám tiết lộ những bí mật mà một nhân viên CIA không được phép tiết lộ.
Theo Frank Snepp thì mọi chuyện đều bắt đầu từ khi ký kết Hiệp định Paris. Rồi 3 tháng sau khi ký kết hiệp định, Tổng thống Nixon cử Martin làm đại sứ Mỹ tại VN thay Bunker. 

Frank Snepp mô tả vai trò của Đại sứ Martin :
“Mỹ buộc phải bò ra khỏi Việt Nam trong tư thế đường hoàng, và muốn tạo được ấn tượng như vậy thì cần phải có một chuyên gia về ảo thuật và kịch nghệ mà Martin thuộc vào hạng sư phụ. 
(Trang 75, nguyên văn : “The United States was obliged to crawl out of Vietnam standing up, and to foster that illusion required the kind of conjuring and stagecraft at which Martin so adept”).
Như vậy màn kịch bỏ rơi Việt Nam đã được lên giàn từ tháng 4 năm 1973.

Hết đạn và hết nhiên liệu :
Tường trình của Tướng Cao Văn Viên :
“Một sự thực không thể chối cãi là quân đội VNCH sẽ hết đạn và nhiên liệu vào tháng 6 năm 1975…” (Tài liệu của Ngũ Giác Đài : Cao Văn Viên, The Final Collapse, bản dịch của Nguyễn Kỳ Phong trang 136).
Tài liệu của CIA : “Từ cuối tháng 12-1973 đến đầu tháng Giêng 1974 Tướng John Murray và ban tham mưu của ông đã làm việc ngày đêm để cố gắng tìm đáp số cho bài toán viện trợ quân sự. 
Nhưng mỗi lần họ tìm ra một giải pháp để giải quyết vấn đề thì lại phát sinh một vấn đề khác mà kết quả cũng chỉ đưa tới bí lối” (Frank Snepp, Decent Interval, trang 95).
Tướng Jhon Murray là Tư lệnh cuối cùng của quân đội Hoa Kỳ tại Nam Việt Nam. 
Ông đến Việt Nam sau Hiệp định Paris 1973, sang đầu năm 1974 ông và Bộ tham mưu Hoa Kỳ tại Việt Nam phải tính toán sổ sách về viện trợ quân sự cho Nam Việt Nam trong nửa cuối 1974 và đầu năm 1975. 
Tuy nhiên Ngũ Giác Đài đã cho ông biết trước là có thể dưới 700 triệu đô la; nhưng theo các chuyên viên tham mưu của John Murray thì 700 triệu chỉ đủ giữ được Vùng 4.

Tình hình thực sự vào tháng 3 năm 1975 :
Năm 1975, ngày 7-1. 
Sau khi mất Phước Long, Mỹ tuyên bố : 
“Tổng thống Pho không có ý vi phạm những điều cấm chỉ (của Quốc hội) về việc sử dụng lực lượng quân sự Hoa Kỳ tại Việt Nam” (Hồi ký của Tướng CSVN Hoàng Văn Thái, trang 161)
Ngay sau khi nhận được tin, Lê Duẩn chỉ thị cho Đại tướng Tổng tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái tiến hành kế hoạch tiến chiếm miền Nam :
“Một tháng sau chiến thắng Phước Long, ngày 5 tháng 2, anh Văn Tiến Dũng lên đường vào Tây Nguyên” (Hoàng Văn Thái, trang 172).
- Tuần đầu của tháng 3 năm 1975. Trong một cuộc họp đầu tuần của Bộ Ngoại giao HK, Kissinger đã giải thích hành động viện trợ “lấy có” cho Cam Bốt: “Chính phủ Lon Nol đang trên đà sụp đổ, đây là nguyên do chính khiến chúng ta phải tiếp tục viện trợ để cho sau này không ai có thể trách chúng ta vô trách nhiệm”.
(Frank Snepp, Decent Interval, trang 175).
*(Nguyên văn : “…he say, the Lon Nol Government was on the brink of collapse, it was essential to keep open the aid pipeline so no one could later blame the United States for the disaster”).
- Ngày 7-3-1975, Kissinger chỉ thị cho các viên chức Ngoại giao HK trước khi ông ta lên đường đi Trung Đông : “Hãy làm mọi cách để Quốc hội tiếp tục duy trì viện trợ (lấy có) cho Cam Bốt và Việt Nam. 
Không phải để cứu vãn hai nước đó, mà vì không thể nào cứu vãn được hai nước đó” (Frank Snepp, Decent Interval trang 176).
*(Nguyên Văn : Do every thing possible to ensure that Congress lived up our aid commitments to Cambodia and Vietnam- not because the two countries were necessarily salvageable, but precisely because they might not be). 
Hai ngày sau khi Kissinger nói cậu này thì Văn Tiến Dũng ra lệnh tấn công Ban Mê Thuột.

Thế bắt buộc của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu :
Năm 1975, ngày 11-3, một ngày sau khi mất Ban Mê Thuột. Tướng Thiệu mời các Tướng Khiêm, Viên, Quang ăn sáng tại dinh Độc Lập và sau đó trình bày ý định muốn cắt bỏ bớt lãnh thổ cho vừa với mức viện trợ quân sự của HK vào năm 1975. 
Tướng Viên ghi lại cảm nghĩ của ông lúc đó :
“Quyết định của Tổng thống Thiệu cho chúng tôi thấy đây là một quyết định ông đã suy xét thận trọng. Hình như Tổng thống Thiệu đã ngần ngại về quyết định đó, và bây giờ ông chỉ thổ lộ cho ba người chúng tôi trong bữa ăn sáng…”
“… Tổng thống Thiệu phác họa sơ : …
Một vài phần đất quan trọng đang bị Cọng sản chiếm, chúng ta sẽ cố gắng lấy lại bằng mọi giá… …Ban Mê Thuột quan trọng hơn hai tỉnh Kontum và Pleiku nhập lại… …” (Cao Văn Viên, The Final Collapse, bản dịch của Nguyễn Kỳ Phong, trang 129-131).
“Ngay sau khi Phước Long bị tấn công, Hoa Kỳ không có một phản ứng nào … . Một thực tế gần như hiển nhiên là Hoa Kỳ không muốn cuộc chiến tiếp tục, và biều quyết viện trợ để VNCH đánh tiếp là chuyện sẽ không xảy ra. 
Đối với Hoa Kỳ cuộc chiến Việt Nam đã kết thúc”  trang 132).
Các đoạn trích dẫn trên đây đã giải thích vì sao Tổng thống Thiệu phải bỏ Vùng 1 cũng như Vùng 2.

Cuối cùng, sau 30-4-1975 Mỹ mở chiến dịch đổ tội làm mất nước cho Tổng thống Thiệu để cho người ta không oán hận Mỹ đã bỏ rơi VNCH... Giờ đây đã 49 năm trôi qua, nếu người Mỹ không lên tiếng giải oan cho ông Nguyễn Văn Thiệu, thì cũng nên trả lại sự thật cho lịch sử.

BÙI ANH TRINH



@vanloinguyen2593
2 years ago
cách đây 50 năm mà nguyên thủ quốc gia đã giỏi ngoại ngữ rồi ,còn bây giờ nó chửi tưởng nó khen cứ gật đầu

@joejo1220
2 years ago (edited)
Nhờ mạng Internet , mọi người mới có dịp thấy khả năng nói lưu loát cả tiếng Anh ( Mỹ ) và tiếng Pháp trong một cuộc phỏng vấn khác của Tổng Thống NGUYỄN VĂN THIỆU với một ký giả người Pháp . Chúng tôi , người dân miền Nam hãnh diện có một vị Tổng Thống thật đáng ngưỡng mộ !

@Thuy_nguyen84
5 months ago
Không cần nhìn giấy, phong thái rất tự nhiên, tự tin, gương mặt hiền hậu khôi ngô, thời đó mà nói tiếng anh thông thạo như vậy thì phải biết nền giáo dục VNCH đã tuyệt vời như thế nào, mãi kính mến ông, VNCH mãi trong tim

@chauvo818
2 years ago
Một người lãnh đạo mà thông thạo 2 thứ tiếng Anh và Pháp lưu loát phát biểu ko e dè tự tin ko cần giấy, có sẵn văn kiện trong đầu, xứng đáng là nhà lãnh đạo, ngưỡng mộ và kính trọng.

@TravisHiep
2 years ago
Nghe ông TT Thiệu nói và Thủ Tướng Dũng và chủ tịch Phúc nói thì đủ biết nền giáo dục của VNCH như thế nào rồi. Đó là niềm tự hào của 1 thể chế Tự Do.

@sonba9363
2 years ago
Bây giờ tôi mới thấy cố TT Nguyễn Văn Thiệu , rất tuyệt vời và xứng đáng là TT VNCH .

@thihangnguyen8407
5 months ago
Nhìn TT .Thiệu lịch sự, văn minh ,trình độ văn hoá, nghiêm trang ,nhưng khi nói chuyện cũng dí dỏm. Miền Nam VN hãnh diện có một vị nguyên thủ quốc gia văn võ song toàn .

@loanhuynh7635
5 months ago
Đây mới đúng là nguyên thủ quốc gia mà người dân cần, ông tự tin , diễn đạt lưu loát, ông quá giỏi thật đáng nể

@dungdo146
2 years ago
Phát biểu tự nhiên không cần giấy không cần soạn trước ,quá hay

@vankim4181
2 years ago
Phong cách đỉnh đạc ... Ngoại ngữ trôi chảy. Xứng đáng 1 nguyên thủ quốc gia.