Tác giả cùng gia đình định cư tại Hoa Kỳ từ 1994 theo diện H.O. và hiện là
cư dân vùng Little Saigon. Trước 1975, ông là một trung úy Thiết Giáp,
Thiết Đoàn 5/ Kỵ Binh - Sư-Đoàn 18/ Bộ-Binh VNCH. Là một cựu tù cải tạo,
ông đã trải qua các trại tập trung Trảng-Lớn, Long-Khánh, Phước-Long và
cuối cùng là Trại tù Xuyên Mộc. Bài Viết Về Nước Mỹ đầu tiên của ông kể
nhiều chi tiết từ những tình huống đặc biệt về một vụ vượt ngục trải
qua nhiều thập niên, cho tới khi hài cốt người tù trốn trại được tìm
thấy, và tro cốt được gia đình mang sang đất Mỹ.
* * *
Trại
tù cải tạo Long Khánh, một ngày tháng Tư năm 1976. Sáng sớm. Cả trại
còn đang ngái ngủ, bỗng có lệnh tập họp điểm danh bất thường. Tiếng ồn
ào khắp nơi lan nhanh: có người trốn trại. Rồi tôi nghe tiếng xì xầm:
thằng Bé, thằng Thái, thằng Lộc phòng bên cạnh mình trốn trại.
Ồ!
Hoá ra hai anh chàng không quân, thường vào lúc tối hay vác soong chảo,
vừa gõ vừa hát bài “O talamera”, nét mặt lúc nào cũng hớn hở, vui tươi.
Cả hai anh đều là phi công A 37. Tôi biết Bé khi còn là sinh viên sĩ
quan không quân tại Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân ở Nha Trang, chúng
tôi cùng học khoá sinh ngữ anh văn. Lúc đó tôi đã là thiếu úy, được
tuyển vào không quân từ trường Bộ Binh Thủ Đức; còn Bé được tuyển trực
tiếp vào không quân. Lộc thì tôi biết sơ sơ thôi. Riêng anh chàng Thái
thì tôi rành rẽ từ lâu, trước 1975.
Thái
là trung úy quân cảnh thuộc Sư Đoàn 5 Bộ Binh. Đồn quân cảnh của Thái
đóng tại căn cứ Lai-Khê, còn tôi khi ấy là trưởng ban 2 thuộc Thiết Đoàn
5 Kỵ Binh. Tôi biết Thái nhân dịp giao một quân nhân Thiết Giáp phạm
pháp, say rượu và quậy phá đơn vị trong lúc hành quân. Trông Thái lúc đó
oai phong, đúng là tư cách của một sĩ quan quân cảnh, Thái ít nói nhưng
tướng cũng ngầu lắm.
Tất
cả đám tù chúng tôi bị lùa hết ra sân tập họp, vài tên quản giáo và mấy
tên vệ binh mặt đằng đằng sát khí, súng đã lên nòng hướng về phía các
hàng tù cải tạo.
- Anh nào biết mấy tên trốn trại không? Viên quản giáo hỏi.
Mọi
người trong hàng đều im lặng. Tên quản giáo nói tiếp: “Mấy anh này có
tên trong danh sách được thả về sao lại dại dột thế!” Sau mấy lời ngọt
ngào” ấy là đủ mục đe doạ, nào là mấy anh trốn trại này sẽ không thoát
khỏi tay nhân dân và cách mạng; đảng và nhà nước đã khoan hồng cho học
tập cải tạo vậy mà còn ngoan cố. Sau này các anh sẽ thấy số phận dành
cho bọn muốn chống phá cách mạng.
Sau
khi điểm danh, chúng tôi vào phòng mà lòng đầy hồi hộp lo âu vì sợ
những con người dại dột kia bị bắt hoặc bị giết. Anh em tù đều thầm cầu
nguyện, mong cho cả ba nguời đều vượt thoát, vì biết rõ nếu bị bắt lại,
các anh sẽ không thể sống nổi.
Khoảng
mấy ngày sau, có tin toán trốn trại đã bị bắt lại, rồi xác hai người
bạn là Bé và Lộc bị đưa về trại tù Long-Khánh để làm gương và dằn mặt
anh em tù nhân chúng tôi. Sau đó, một số tù nhân được lệnh đem xác Bé và
Lộc đi chôn ở một gò đất cách trại chỉ vài ba trăm mét.
Những
ngày ở trại Long Khánh sau đó, khi có dịp cùng cùng đội tù lao động khổ
sai đi ngang gò đất chôn tù này, tôi vẫn thường cầu nguyện cho Bé và
Lộc, rồi nhớ đến Thái. Tên cán bộ quản giáo có lần nói là Thái cũng đã
bị bắt lại và đã phải “đền tội”. Không biết thật sự số phận Thái ra sao.
Nỗi thắc mắc ấy phải hơn hai mươi năm sau mới được giải đáp.
Năm
1994, gia đình tôi sang Mỹ định cư theo diện H.O. dành cho cựu tù cải
tạo. Mấy năm sau, khi đã “an cư” tại Little Saigon, một ngày họp bạn tại
cà phê Factory, tôi đã tình cờ gặp lại Thái. “Ôi, không thể ngờ là mày
vẫn khoẻ mạnh thế này.. Chúa giữ gìn mày đó Thái,” tôi nói.
Trong
nhóm bạn càphê tại Factory thời đó còn có cả cố nhạc sĩ Nhật Ngân. Anh
Ngân gọi Thái là “ông trốn trại.” Rồi cả bàn cà phê từng có dịp hồi hộp
nghe Thái diễn lại cuốn phim vượt ngục gay cấn của bộ ba Bé-Lộc-Thái.
*
Tang Lễ KQ Lê Văn Lộc và KQ Nguyễn Văn Bé
Tờ
giấy trải bàn cà phê được mở rộng. Cây viết cầm sẵn trên tay, Thái nhấp
thêm ngụm cà phê rồi bắt đầu nói, nói đến đâu vẽ trên tờ giấy trải bàn
đến đó, cứ như một trưởng ban ba đang thuyết trình, vẽ đường tiến quân
trên phóng đồ hành quân.
Sau đây là lời kể của Thái:
Tôi
cũng như hai thằng Bé và Lộc, cả ba đã lên kế hoạch trốn trại từ lâu,
hành lý vượt ngục đã chuẩn bị sẵn. Hành lý gì à? Thì mỗi thằng thủ sẵn
hai bao cát, loại bao nhựa xanh, đan thưa dùng để dồn cát làm công sự
chiến đấu cho quân đội nên rất bền bỉ. Một bao dùng đựng lương khô, nước
uống. Riêng phần bao của Bé còn chứa thêm một trái lựu đạn. Đây là trái
lựu đạn bọn tôi tình cờ lượm được khi lao động dọn bãi cỏ tranh. Bao
cát thứ hai được dùng để chứa tí rau muống, rau tàu bay hái được bên
suối hay bờ ruộng, thường gọi nôm na là “đi cải thiện, nhằm che mắt bọn
vệ binh, bộ đội.
Rồi
sau nhiều phen tính toán, “ngày hành động” tới. Đó là một buổi chiều
trung tuần tháng Tư, - 19 hoặc 20 tháng 4 năm 1976. Khi đoàn tù cải tạo
đi lao động thu xếp ra về, ba thằng Bé, Lộc và tôi đi ngược hướng ra
cổng. Vài anh em tù hỏi chúng tôi đi đâu? -Đi cải thiện chứ đi đâu.Chúng
tôi trả lời.
Bọn
tôi đi trên con đường đất, dọc theo con suối ven trại để đến chỗ có rau
muống. Thấy tên vệ binh trên vọng gác mải nhìn về hướng đám bộ đôi đi
lãnh cơm chiều và cười đùa với ho, Bé, Lộc và tôi lần lượt nhào xuống
suối. Tôi lặn cùng hai thằng dọc theo bờ suối có đầy cỏ phủ trùm trên
đầu. Cứ lặn ít thước thì phải chồi lên thở. Đoạn lặn sau cùng, khi cả
bọn vừa ngóc đầu lên thì thấy một em bé gái cỡ 9, 10 tuổi, tay cầm xô,
xuống suối múc nước. Lộc đưa ngón tay ra hiệu cho em bé gái im lặng.
Thật là may mắn, em bé không tỏ phản ứng gì, lặng lẽ xuống suối múc nước
và trở lên bờ. Chúng tôi cũng vội vã lên theo, mau chóng lẩn vào những
lùm cây cối um tùm. Rồi cứ vậy, len lỏi nhắm hướng núi Chứa Chan
(Gia-Rai) tiến tới.
Trời
đã nhá nhem tối, thấy có đám lửa từ xa, ba thằng bèn chui vào bụi để
ngủ vì sợ bị bại lộ. Sáng dậy, tiếp tục cuộc hành trình thì gặp một
người đàn ông đang cuốc ruộng, chúng tôi đánh bạo hỏi phía trước có bộ
đội đóng quân không, anh nông phu trả lời không. Có lẽ anh ta là lính
chê độ cũ, nên không thắc mắc gì thêm. Chúng tôi tiếp tục đi và lại gặp
thêm một chị phụ nữ, chúng tôi hỏi thì chi cũng trả lời tương tự như anh
nông dân kia. Đến gần núi thấy trại bộ đội trước mặt, thấy họ sinh hoạt
bình thường, không thèm để ý, chúng tôi bèn leo lên núi Gia- Ray. Suốt
ba ngày trên núi, uống nước suối và bắt tôm tép, cá trong những hố, khe
nước suối cạn nấu nướng ăn. Cuộc hành trình đã kéo sang ngày thứ 5, cả
bọn quyết định xuống núi.
Nhắm
hướng quốc lộ chúng tôi tiến tới. Đây là quốc lộ 1, hướng tay phải về
Sài gòn và hướng ngược lại về Phan Thiết. Tới đường, thấy có cái bảng Ủy
Ban Nhân Dân xã ấp gì đó, nên ba thằng quẹo trái về hướng Phan Thiết.
Bé và Lộc đi ven lộ bên phải, còn tôi đi bên trái. Thấy một bà ngồi bên
vệ đường có vẻ chờ đợi cái gì đó. Thật là sui sẻo, vì chính bà này đã đi
báo cho du kích biết. Vì chỉ lát sau là thấy có du kích đạp xe đạp rượt
theo Bé và Lộc. Tên du kích hỏi hai anh kia đi đâu? Bé trả lời “Chúng
tôi đi tìm người quen.”
“Hai anh cho coi giấy tờ.”
“Tôi để quên giấy tờ ở nhà, Bé đáp lại. Tên du kích ra lệnh “Mời hai anh vào ủy ban xã.”
Bé
nhìn sang phía tôi, bảo “Mày về nói vợ tao đem giấy tờ lên bảo lãnh.”
Tên du kích tức thì ra lệnh “Cả anh kia nữa, cũng đi vào ủy ban.” Ba
thằng tôi đành đi theo tên du kích. Chúng tôi bị lọt vào giữa đám du
kích và người hiếu kỳ, họ đến mỗi lúc mỗi đông. Tên du kích quát lớn,
“Các anh mở hết túi, lấy đồ vật ra.”
Bé
làm bộ lấy đồ, lần tới trái lưu đạn, làm bộ mở chốt rồi la lớn, “ĐM.,
tao giết hết chúng mày.” Mọi người bỏ chạy tán loạn, ba thằng tôi chạy
ngược về hướng núi.Tôi chạy trước, Bé và Lộc chạy phía sau. Có lẽ Bé vì
bị đau chân từ trước, từng phải chống gậy khi còn ở trong trại, nên chạy
không nổi, Lộc phải dìu Bé chạy và tạt vào một bụi cây gần đó. Đã có
tiếng súng nổ phía sau. Tôi tiếp tục chạy, nhưng thật khó khăn vì những ụ
đất to, lởm chởm cản trở. Bọn du kích vẫn bắn và dượt theo tôi. Tôi
chạy theo hình dzích dzắc để tránh đạn. Bỗng tôi nghe thấy hai tiếng
súng lớn, có lẽ bọn du kích pháo cối đuổi theo, rồi lại thêm một tiếng
nổ lớn nữa. Sau đó là những tràng đạn bắn xả về hướng tôi, tôi cố gắng
chạy, nhưng lại té gục xuống gò đất phía trước..
“Thật
may mắn, đúng lúc ấy, hướng phải tôi có lũ em nhỏ theo cha mẹ ra đồng
đùa chơi, tôi chạy về hướng đó và rồi không nghe làn đạn dượt theo nữa,
chắc chúng sợ bắn lầm vô các em. Tôi chạy vòng lại ra hướng quốc lộ 1,
vượt qua đường và chạy vô khu cư dân gần đó. Tôi tiếp tục lẩn tránh cho
đến khi thấy một căn nhà, nhìn vào thấy có bàn thờ Chúa, Đức Mẹ và trên
khung ảnh thấy có hình một quân nhân mặc đồ đại lễ thuộc trường Bộ Binh
Thủ Đức. Tôi gõ cửa, một người đàn bà tay bế đứa bé, mở cửa mời tôi vào
nhà. Tôi hỏi thăm chị về bức hình ảnh sĩ quan kia, chi cho biết đó là
chồng chi hiện đang đi học tập cải tạo. Tôi yên lòng và không hỏi gì
thêm, chỉ tự giới thiệu mình và thú thật về chuyện trốn trại của tôi.
Chị hoảng hốt, tái mặt, nhưng sau đó lấy lại bình tĩnh. Tiếp tục câu
chuyện, tôi nhờ chị đưa về Hố Nai. Chị nói sẽ đưa tôi tới ngã ba Dầu
Giây và đón xe dùm tôi về Hố Nai.
Sau
đó, chị kêu thằng con trai lớn ra ẵm em và dặn dò cháu coi nhà. Chi đưa
cho tôi hai nải chuối, chiếc nón rộng vành. Tôi hỏi xin chị đôi dép cũ
vì dép của tôi bị đứt quai khi chạy. Chị bảo thằng con đưa cho tôi đôi
dép nhật cũ, đồng thời chị cũng nói cháu đưa cho tôi chiếc áo sơ mi cũ,
màu xanh lơ để thay chiếc áo montarguiđã sờn rách. Đáp lại sự giúp đỡ
của chị, tôi lột chiếc đồng hồ citizen tặng lại cho cháu.
“Ra
tới quốc lộ, chị vời chiếc xe lam, hai người cùng lên xe và chạy về
hướng Sài- Gòn. Bất ngờ, một thằng nhỏ bán kem cũng đón xe lam, hắn vừa
lên xe là nói lớn: “Sáng nay có ngụy về, hai thằng bị bắn chết, còn một
thằng bắn bị thương chạy vào trong núi. Nghe vậy, tôi hoảng hồn, ngồi
nhích xa hắn.
Xe
chạy tới ngã ba Dầu Giây, tôi theo chị xuống xe. Thay vì đi xe đò, chị
lại vời chiếc xe Daihatsu, trong đó có nhiều bà con đi làm ruộng rãy về
với nhiều rau trái chồng chất. Chị thu xếp với người lái xe Daihatsu,
chờ tôi leo lên, rồi chia tay. Xe đưa tôi về xứ Thánh Tâm, thật may mắn,
không gặp bất cứ tram kiểm soát nào.
Sau
đó, tôi đi bộ vào khu dân cư thuộc Giáo xứ Thánh Tâm, tìm lại ông Dự,
ông từng là bạn thân của cha tôi trước đây. Rất hên, tôi gặp được ông,
ông sững sờ nhìn tôi và liền sáng hôm sau, ông xuống Sài Gòn báo tin và
mẹ tôi lập tức lên gặp.
Hai
mẹ con nhìn nhau ngậm ngùi, mẹ tôi khóc nhiều và bà đưa cho tôi vài
vòng vàng, nhẫn để tôi có điều kiện ứng phó với hoàn cảnh sắp tới, nhưng
tôi không nhận vì lúc đó tôi dự tính sẽ vô rừng hoạt động. Mẹ tôi trở
lại Sài Gòn, báo cho chị tôi và ngay sáng hôm sau, thằng cháu con bà chị
đi xe Honda lên nhà ông Dự. Hắn đưa tôi một khẩu sung lục và tự giới
thiệu là thành viên của “Mặt Trận Dân Tộc Tự Quyết”. Thằng cháu chở tôi
tới ấp Tân Phong đối diện với trại Suối Máu, và đưa tôi tới căn chòi ở
tạm. Hôm sau, một người đàn ông đến chòi và giới thiệu ông là trung tá
chế độ cũ, lãnh đạo mặt trận rồi ông đưa tôi 5 đồng nói đây là tiền mặt
trận gửi tặng. Ông thuộc nhóm điều nghiên, lên kế hoạch đánh chiếm lại
thành phố Biên Hoà.
Ba
ngày hôm sau, ông quay lại cho biết kế hoạch bị bể, một số đã bị bắt.
Ông nói tôi hãy tự lo lấy thân và nên rời chỗ này. Sáng hôm sau, tôi đội
nón, vác chiếc cuốc trên vai, đi ngược ra đường và trở lại nhà ông Dự.
Ông hoảng hốt, nhưng vẫn ra tay bao bọc, che chở, giúp tôi liên lạc lại
với thằng cháu và tôi được đưa về nhà bà chị tại Biên Hoà.
Chị
đưa tôi lên lầu ở, cơm nước chị cung cấp hằng ngày. Tôi liên lạc được
bà xã. Sau 10 ngày, tôi về nhà tại Sài- Gòn và qua sự giơi thiệu của
ngườI thân, tôi gặp được ông Phong, chuyên làm giấy tờ giả. Riêng tôi,
tôi khắc những con dấu giả, tự đóng dấu và làm giấy tờ cho mình.
Tôi
Xuống Rạch Giá, tìm cách vượt biên, nhưng bị bắt. Nhờ đã biết cách khai
báo theo lý lịch giả, khoảng 3 tháng thì được thả về. Tôi lại ra làng
Chu-Hải, kiếm mối vượt biên lần nữa, nhưng cũng lại bị bắt nhốt tại trại
tù Bà Rịa. Đươc khoảng 4 tháng, nhờ bà xã liên lạc lại vơi người làm tờ
giấy giả, Ông này có quen biết với cán bộ trưởng trại tù, ông ta gửi
kèm lá thư cho tên này, ngay ngày hôm sau, tôi được tên trại trưởng này
gọi lên trình diện lên lớp khuyên tôi nên ở lại Việt Nam, lao động tốt,
giúp ích cho xã hội.
Sau khi được thả khỏi trại tù Bà Rịa, thấy khó có cơ hội ra đi bằng tàu thuyền, tôi quyết định vượt biên đường bộ.
Sáng
mùng 2 tết năm1980, tôi rời Sài Gòn, đi đường bộ tới được trại tỵ nạn
NW 9 nằm trong lãnh thổ Campuchia,sát biên giới Thái- Lan, do Hội Hồng
Thập Tự Quốc Tế quản lý. Thời gian sau họ chuyển tôi tới trại tỵ nạn Kao
Y Đăng nằm trong lãnh thổ Thái Lan, rồi trại chuyển tiếp Chonburi và
sau cùng tôi được chuyển tớI trại tỵ nạn Galant thuộc Indonesia. Đến
tháng 2 năm 1981 thì được sang định cư tại Hoa Kỳ.
*
Chuyện
trốn trại của Thái phôi pha theo ngày tháng. Đã từ lâu không còn là
chuyện được nhắc lại, nhưng rồi một buổi sáng, cũng tại quán Factory,
một phụ nữ bỗng tìm đến bên bàn cà phê.
Nghi Thức Trao Quốc Kỳ VNCH
Chị
tự giới thiệu là vợ của Lộc, anh bạn phi công bị bắn chết khi trốn trại
ở Long Khánh, và nói do anh Giàu giới thiệu đến để tìm biết ngôi mộ của
Lộc ở trại tù để cải táng, hỏa thiêu hầu đem tro sang Mỹ để làm giỗ và
thờ. Anh Giàu là một phi công trực thăng từng cùng bọn tôi uống cà phê,
biết chuyện Thái vượt ngục, chuyện tôi kể thêm về việc xác Lộc và Bé
được đưa về trại tù Long Khánh chôn cất.
Dù
đã mấy chục năm, hình ảnh gò đất chôn tù năm xưa vẫn hiện rõ ràng trong
đầu tôi và chúng tôi đã cùng nhau cung cấp cho chị Lộc mọi chi tiết và
bản vẽ chính xác nơi Bé và Lộc được bạn tù chôn cất.
Sau
một thời gian, chúng tôi được chị Lộc thông báo đã đem được tro cốt của
chồng sang Mỹ. Khi Hội Ái Hữu Không Quân Nam Cali giúp chị Lộc tổ chức
lễ giỗ cho chồng, chúng tôi được mời tới tham dự.
Lễ
giỗ và vinh danh anh Lộc được cử hành tại nhà quàng Peak Funeral rất
trang trọng trọng. Nhiều công trạng, thành tích, hy sinh của phi công
Lộc đã được ban tổ chức và đồng đội nói lên. Chỉ tiếc là trong buổi lễ
này bạn Thái quân cảnh của chúng tôi, nhân chứng sống trong nhóm trốn
trại cùng với anh Bé và Lộc, đã không thể tham dự để chia sẻ về những
ngày giờ cuối của hai người bạn đã cùng anh vượt ngục.
Trong
những năm tù cải tạo, bản thân tôi đã chứng kiến nhiều chuyện bạn tù
trốn trại. Nhân dịp kỷ niệm 40 năm ngày mất miền Nam 30 tháng Tư, tôi
viết thay cho người bạn trốn trại tên Thái kể lại câu chuyện này để
tưởng nhớ hai bạn Lộc, Bé cùng các bạn đã gục ngã trong trại tù cải tạo.
Xin trân trọng tưởng niệm và vinh danh các chiến sĩ quân lực VNCH đã hy sinh khi chống lại chế độ độc tài Cộng Sản.
Nguyễn Văn Uyển
No comments:
Post a Comment