Năm
1981, sáu năm sau khi đến Mỹ cùng hàng trăm người Việt Nam tỵ nạn khác
sau ngày 30 Tháng Tư, 1975, ông Nguyễn Từ Huấn tốt nghiệp Đại Học
Okahoma State với bằng cử nhân điện cơ. Không dừng lại, ông lấy tiếp các
bằng thạc sĩ tại ba đại
học: Southern Methodist, Purdue và Carnegie Mellon (hạng tối ưu) chuyên
ngành kỹ thuật thông tin. Sau đó, ông làm việc cho một cơ quan thuộc Bộ
Quốc Phòng, thuộc bộ phận thiết kế các hệ thống điều khiển điện tử trên
chiến đấu cơ.
Năm
1991, cuộc chiến Vùng Vịnh nổ ra. Ông Huấn ghi danh vào quân ngũ. Năm
1993, ông trở thành sĩ quan Hải Quân trừ bị. Trong thời gian này, ông
làm việc thêm ở Bộ Năng Lượng. Với vị trí kỹ sư phụ trách dự án đặc biệt
chuyên nghiên cứu kỹ
thuật dẫn hai tia proton phóng với vận tốc gần bằng vận tốc ánh sáng
sao cho chúng có thể chạm nhau (superconducting super collider), từ đó
cung cấp các dữ liệu nhằm giúp hiểu thêm về hiện tượng Big Bang cũng như
các hiện tượng khác trong vũ trụ, ông Huấn
là một trong số rất ít người Việt có mặt trong nhóm nghiên cứu này. Từ
Bộ Năng Lượng, ông chuyển sang làm việc cho General Motors (GM), phụ
trách thiết kế các hệ thống điện tử cho xe hơi. Tại đây, ông phát minh
một số sáng chế mà hiện GM vẫn sử dụng…
Năm
1993, Internet chưa phát triển, cả nước Mỹ chỉ có khoảng 20 website.
Tuy nhiên, ông Huấn đã nghĩ đến việc làm thế nào có thể sử dụng network
để phục vụ quân đội và hỗ trợ tác chiến. Ý tưởng của ông được một đề đốc
ủng hộ. Ông Huấn được
mời vào Ngũ Giác Đài tường trình cho giới lãnh đạo Hải Quân.. Tiếng nói
của anh Thiếu Úy Huấn trở nên lạc lõng giữa những hoài nghi. Cho đến
thời điểm đó, rất ít người có thể hình dung cái gọi là “network
warfare.” Không đầy 10 năm sau, khi nước Mỹ bước vào
cuộc chiến Vùng Vịnh lần hai (2003), kỹ thuật chiến tranh không gian
mạng đã trở thành một trong những yếu tố quyết định thắng bại. Cuộc
chiến Vùng Vịnh lần hai cũng là thời điểm Thiếu Tá Huấn được đưa sang
Afghanistan và Iraq, với vai trò sĩ quan chỉ huy
đơn vị kỹ thuật giúp phá hủy các thiết bị kích nổ bom từ xa của khủng
bố… “Một trong những thử thách khó nhất đối với tôi là phải đi một bước
trước kẻ thù” – ông Huấn trả lời phóng viên Eric Schmitt trên New York
Times số ra ngày 6 Tháng Hai, 2006.
“Cách
đây 44 năm, tôi là một trong những người tị nạn, lòng lo lắng cho một
tương lai bất định nhưng vẫn cảm thấy vô cùng biết ơn khi đến được đây.
Những hình ảnh tôi còn nhớ rõ mồn một khi đặt chân đến Trại Asan ở đảo
Guam này, giờ là công
viên Asan Beach, là những thủy thủ và thủy quân lục chiến Mỹ phơi mình
dưới cái nắng cháy da, dựng lều và lán thức ăn, phát nước uống và đồ ăn
nóng, giúp đỡ và chăm sóc mọi người với thái độ tử tế và kính trọng…
Những người lính đó đã mang lại cảm hứng cho
tôi cống hiến cho Hải Quân Mỹ đến tận hôm nay”… Phát biểu trên của Đại
Tá Nguyễn Từ Huấn trong dịp khánh thành tượng Lone Sailor tại Guam ngày
30 Tháng Tư, 2019, đã cho thấy tại sao ông quyết tâm gia nhập và cống
hiến cho quân đội (tượng đài Lone Sailor do
chính ông Huấn khởi xướng với sự thực hiện của US Navy Memorial).
Ông
có một sứ mạng khác trong lẽ sống của mình. Ông định hình cuộc đời ông
bằng những định nghĩa khác với những đo lường về vật chất. Với ông, có
nhiều cách để “trả nợ” nước Mỹ nhưng ông đã chọn binh nghiệp, vì quân
đội mới là hình ảnh đại
diện bảo vệ cho quốc gia nơi đã cưu mang những người tị nạn như ông,
một quốc gia từng là ngọn hải đăng cho những giá trị nhân bản, về tự do,
dân chủ và nhân quyền. “Món nợ” đối với nước Mỹ không phải là món nợ
lớn nhất đối với ông Huấn. Có một món nợ khác
chất chứa gánh nặng lương tri thậm chí nặng nề hơn. Nó có ý nghĩa lớn
hơn cả. Nó ám ảnh ông như một lời thề mà ông nguyện phải làm, như một
cách để báo hiếu cho cha ông – cố Đại Tá Chỉ Huy Trưởng Trường Thiết
Giáp VNCH Nguyễn Tuấn, như một cách để làm mẹ ông
mỉm cười nơi chín suối, như một cách để “trả lời” cho một cuộc chiến
tàn khốc từng làm điêu linh dân tộc mà toàn bộ gia đình ông là nạn nhân,
để cuối cùng, cho thấy rằng, hòa bình có giá trị như thế nào và tại sao
bằng mọi giá phải bảo vệ hòa bình.
Câu
chuyện bi thương của ông đã được kể đi kể lại với rất nhiều tình tiết
không có thực. Và khi thuật lại câu chuyện, một số nhân vật luôn được
đẩy ra phía trước như thể họ là nhân vật chính. Cũng khó có thể tránh
điều đó vì câu chuyện đã
trở thành một phần của lịch sử cuộc chiến. Tuy nhiên, những thước phim
chính xác đáng lý cần phải lột tả thời khắc kinh hoàng xảy đến với gia
đình ông chứ không phải những gì xảy ra sau đó. Đó là hình ảnh kiên
cường của bố và mẹ ông trước họng súng của đặc
công Cộng Sản.
Hơn
50 năm trôi qua, ông Huấn chưa bao giờ quên những gì ông chứng kiến.
Ông không thể quên tràng súng liên thanh điên cuồng nã vào bảy người
trong gia đình mình – vào bố, vào mẹ, vào các người anh và cả đứa em út
mà mẹ bế trên tay, khi
họ đang bị bắt làm con tin, ngay trong những ngày mà hai bên đã thỏa
thuận ngưng chiến. Ông không thể quên cảnh người anh thở hắt ra làn hơi
cuối cùng và cảnh người em bị bắn thủng bụng ruột đổ ra ngoài. Ông không
bao giờ có thể quên được cảnh mẹ ông, bị bỏ
nằm đó đau đớn, chảy máu và rên xiết nhiều giờ cho đến chết. Ông cũng
không thể quên cảnh đặc công cầm lưỡi lê đâm vào lon bia để uống, dọn đồ
ra ăn, giữa những nạn nhân bị thương đang rên xiết và giữa những thi
thể vừa bị thảm sát man rợ.
Rồi
có một đặc công chĩa súng vào đầu Huấn khi phát hiện đứa trẻ 9 tuổi duy
nhất còn sót lại. Dưới ánh sáng hỏa châu từ bên ngoài, tay đặc công
Cộng Sản đối diện ánh mắt không hề lộ chút sợ hãi của cậu bé Huấn. Một
vết đạn, từ vụ thảm sát
trước đó, trúng vào đầu khiến mặt mày Huấn bê bết máu. Có lẽ đó cũng là
lý do khiến toán đặc công không buồn bận tâm ban cho Huấn “một phát đạn
ân huệ,” bởi nghĩ rằng ông sẽ không thể nào sống nổi. Tuy nhiên, ông đã
không chết.
Vài
giờ của một thời khắc sáng mùng hai Tết Mậu Thân 1968 đã trở thành cơn
ác mộng dài lê thê đi theo suốt cuộc đời ông. Thay vì gục ngã, thay vì
đầu hàng số phận khi đặt chân đến Mỹ với hoàn cảnh một thiếu niên tỵ nạn
nghèo khó, ông Huấn
đã chiến thắng tất cả thách thức và khó khăn, một cách ngạo nghễ. Nước
mắt thương mẹ và nỗi đau nhớ cha cùng các anh em trong gia đình đã không
làm ông ngã quỵ mà giúp ông mạnh mẽ đứng lên, bằng hình ảnh không phải
là nạn nhân một cuộc chiến mà một mảnh đạn
đến giờ vẫn còn lưu trong đầu. Ông đã trả được “món nợ” cho lương tri,
cho lẽ làm người, cho công dưỡng dục của hai vị chú thím cưu mang nuôi
nấng ông, và nhất là cho lẽ làm con đối với hai bậc sinh thành.
Đại
Tá Hải Quân Nguyễn Từ Huấn (thứ hai, phải) được gắn huy hiệu trong một
sự kiện ở thủ đô Washington, ngày 8 Tháng Giêng, 2018. (Hình:
defense.gov)
Tháng
Mười 2019, lễ thăng chức phó đề đốc cho ông Nguyễn Từ Huấn sẽ
được tổ chức tại Washington, D.C. Với kinh nghiệm cùng sự tận tụy, tân
Phó Đề Đốc Huấn còn sẽ đảm nhận một chức vụ mới: tham mưu phó Bộ Tư Lệnh
Hải Dương Hệ Thống
Hải Quân (Naval Sea Systems Command-NAVSEA), đặc trách an ninh mạng.
Cộng đồng người Mỹ gốc Việt lại có thêm một nhân vật đáng để tự hào. Ông
đã trả hết nợ chưa? Chắc là chưa – ông nói. Làm thế nào tôi có thể yên
tâm thản nhiên nhìn Trung Quốc đe dọa quê hương
mình từng ngày từng giờ mà không chút xót xa lo nghĩ? – ông Huấn tâm
sự. Ông còn ôm nặng một món nợ lớn khác: “Nợ” mình là người Việt Nam.
Mạnh Kim
No comments:
Post a Comment