Thứ năm - 19/04/2012 05:55
Tượng Đài Việt Mỹ ở Westminster, CA Qua cách nhìn của khoa Phong Thủy.
Hải Quân Bắc Việt đã chủ động tấn công trước vào các giang đỉnh của lực lượng Hải Quân Hoa Kỳ đang tuần tiểu ngoài khơi vịnh Bắc Việt ngày 31 tháng 7 năm 1964 . Đó chính là lý do cần thiết mà chính phủ Hoa Kỳ đã nhiều năm chờ đợi để đưa quân vào tham chiến tại chiến trường Việt nam. Ngày 4 tháng 8 năm 1964, TT Johnson đề nghị Quốc Hội Hoa Kỳ chấp thuận Nghị Quyết Vịnh Bắc Việt, The Gulf of Tokin Resolution, lên án hành động tấn công của Bắc Việt, thì các chiến sĩ của Không Lực Hoa Kỳ cũng đã nhảy vào vòng chiến.
Ngay sau đó, tại chiến trường Bình Giả, các lực lượng Bộ Binh Hoa Kỳ cũng phải đụng độ lần đầu với một lực lượng cộng quân cấp Trung Đoàn, được trang bị đầy đủ các loại vũ khí tối tân nhất của khối cộng sản. Thế nhưng, chiến sử của Quân Đội Hoa Kỳ thì ghi trận Ấp Bắc, cạnh Mỹ Tho, vào những ngày cuối của năm 1963 mới là trận đầu tiên người lính trận của Hoa Kỳ chiến đấu cùng một chiến hào với các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa. Ngay trận đụng độ đầu tiên, cho dù cộng quân bỏ lại hơn 100 xác tại chiến trường, nhưng 3 chiến binh Hoa Kỳ và 65 chiến sĩ của Quân Lực VNCH cũng đã ngã xuống. Cuối năm 1965 quân đội Hoa Kỳ đã đổ 184.300 quân vào chiến trường Việt Nam. Tháng 12, 1966 chưa kể đến trên 30.000 chiến sĩ của các biệt đội thuộc Lực Lượng Đặc Biệt và Dân Sự Chiến Đấu, số quân tăng vọt lên 385.300 người - Gần bằng với con số ở các thời điểm cao nhất - thuộc đủ cả 3 binh chủng Hải, Lục và Không Quân. Có phải vì Cộng Sản Bắc Việt đã vô cớ tấn công vào lực lượng Hải Quân, cho nên Hoa Kỳ phải ào ạt đổ gần nửa triệu quân, thuộc đủ các binh chủng vào chiến trường Việt Nam tham chiến để trả đũa, hay vì một lý do nào khác? Và, lý do tại sao các chiến sĩ của Quân Lực Việt nam Cộng Hòa đã anh dũng chiến đấu bên cạnh người Mỹ, để sau ngày 27 tháng 1 năm 1973, người Mỹ rút đi rồi mà họ vẫn phải kiên cưòng tiếp tục chiến đấu? Đọc lại “Người Mỹ và Chiến Tranh Việt Nam“, Vietnam Bibliography 2001, trang 92 và trang 202, tác giả Nguyễn Kỳ Phong ghi lại thì rõ biết : “..........John F Kennedy khi còn là Dân Biểu Quốc Hội nhân dịp viếng thăm Việt Nam vào tháng 11 năm 1951 trong một buổi họp tại tòa Đại Sứ Mỹ tại Saigòn đã luôn miệng hỏi tại sao người Việt chiến đấu bên cạnh người Pháp để Pháp giữ quê hương cho họ như là một thuộc địa? Tại sao chúng ta phải hùa theo người Pháp, một quốc gia đang cố gắng nắm giữ một tàn tích đế quốc ở Đông Dương? (Trang 92).
...........Mười năm sau, ở cương vị Tổng Thống Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ, Kennedy đã không ngần ngại tiết lộ rõ cho báo chí biết là ông đã quyết định ngăn chận ảnh hưỡng cộng sản ở ĐNÁ và sau khi được giới quân sự phân tích ưu và khuyết điểm của 2 chiến trường Lào và Việt Nam, Kennedy đã nói với Ngoại Trưởng Rusk là ông chọn VN vì VNCH quyết tâm chống cộng và sẽ chiến đấu. Việt Nam là mặt trận “. Đúng ! Việt Nam là một mặt trận Người chiến binh Hoa Kỳ đã đến Việt Nam không phải để gây chiến mà để nhằm ngăn chận ảnh hưởng cộng sản ở Đông Nam Á. Và, người Chiến sĩ của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa thì đã sát cánh cùng với các chiến sĩ của quân đội Hoa Kỳ rõ ràng là vì lý tưởng Tự do. Họ đã không chiến đấu bên cạnh người Mỹ để người Mỹ giữ quê hương cho họ như là một thuộc địa. Cũng đã hơn 30 năm rồi. Bao nhiêu người lính trận Hoa Kỳ đã ngã xuống trên đất Việt Nam? 58.156 người ? Trong đó bao nhiêu người đã chết và bao nhiêu người vẫn còn ghi nhận là mất tích ? Cho dù con số vẫn còn chưa dứt khoát. Là vì vẫn còn nhiều hình quả trám chưa được khắc đủ đậm trên 2 bức tường đá cẩm thạch đen Vietnam Veterans Memorial, trên công viên The National Mall tại Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn , để xác quyết tên người đã vĩnh viễn hy sinh. Nhưng dù sao thì các chiến sĩ của Hoa Kỳ vẫn cũng còn đỡ tủi, vì ít ra họ cũng còn được người dân Hoa Kỳ ưu ái dựng cho họ một Đài Tưởng Niệm ngay tại trung tâm Thủ Đô của đất nước họ. Còn hàng triệu chiến sĩ của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Sẽ không bao giờ có được một con số thống kê tin cậy là bao nhiêu người đã nằm xuống để bảo vệ cho quê hương và cho chủ nghĩa Dân Chủ -Tự Do. Đọc Nhớ Huế, trang 97, để nghe tác giả Phạm Thành Châu kể lại một trong hàng vạn mảng bi tráng của người lính chiến Quân Lực VNCH vào những ngày cuối cùng của cuộc chiến “ ...........Sau này tôi mới biết, không phải chỉ riêng tôi, biết bao đơn vị hành chánh, cảnh sát , quân đội... cấp chỉ huy đã chạy đâu mất tiêu mà người chiến sĩ vẫn không rời vị trí chiến đấu cho đến khi gục chết vẫn không hề ân hận điều gì. Họ cảm thấy đất nước lâm nguy , bi đát đến độ chỉ biết đem thân ra chống đỡ một cách vô vọng, quên cả bản thân, cha mẹ, vợ con ..............” , Mồ hôi và Máu của triệu chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa đã đổ xuống. Người Việt yêu chuộng Dân Chủ và Tự Do vẫn chưa quên được hình ảnh những chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa đã không rời vị trí chiến đấu cho đến khi gục chết vẫn không hề ân hận điều gì! Vậy mà ngay trên quê hương của họ, người sống cũng không có đất để sống thì làm sao mà mong cầu cho được một tượng đài để kỷ niệm? Rõ biết như thế, thì mới có thể đồng cảm với những người Việt tha hương trên đất khách, cho dù gặp phải khó khăn đủ mặt, mà họ vẫn quyết tâm xây dựng cho bằng được một Tượng Đài Việt Mỹ tại Westminster, tiểu bang California Hoa Kỳ.
Sáng ngày 27 tháng 4 năm 2003, trên vạn người Việt yêu chuộng Tự Do các nơi đã đổ về để tham dự Lễ Khánh Thành Tượng Đài Việt Mỹ tại công viên Freedom Park, cạnh Tòa thị chính thành phố Westminster. Cờ Vàng Ba Sọc và cờ của Hoa Kỳ tung bay rợp cả khu Little Saigon và hình ảnh các cựu chiến binh Việt Nam Cộng Hòa, hùng khí vẫn còn cao ngất, vào hàng thẳng tắp, nghiêm chỉnh chào kính, đã làm cho hàng ngàn người không cầm được nước mắt. Craig Mandeville, Phó Chủ Tịch Hội Cựu Chiến Binh Hoa Kỳ tại Orange County cũng hòa với lòng người Việt, hảnh diện cho rằng cho đến hôm nay, chưa có nơi nào có tượng hai chiến binh Việt Mỹ đứng bên nhau như ở Westminster. Người Việt yêu chuộng Tự Do ở khắp mọi nơi, bằng mọi cách, đã hằng bày tỏ lòng mình với đất nước, với huynh đệ chi binh. Tại vùng Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn, khu Eden, trước hành lang Phở Xe lửa, một số cựu chiến binh, vào những ngày cuối tuần, dù thời tiết có khắc nghiệt mấy, họ vẫn kiên nhẫn đứng bán lẻ từng tờ báo. Tiền lời thu được, phần lớn được chuyển về Việt Nam gởi tặng cho những gia đình thương phế binh VNCH. Khách thử ghé qua một lần, đọc vài lá thư từ Việt Nam gởi sang, thì lòng mới thấm nỗi khốn cùng của số cựu chiến binh đang còn tại quê nhà. Ngay cạnh khu thương mại Little Saigon hàng ngày vẫn biết bao người âm thầm chắt chiu gom góp, có được ít nhiều là họ gởi về cho trẻ em mồ côi và các gia đình nghèo khó, chỉ vì cha hoặc chú của các gia đình nghèo này một thời là chiến sĩ chống cộng. Anh Thanh Lê, người bạn 40 năm, gặp lại mới biết pháp danh của anh là Tâm Chơn, lại chính là người đang nỗ lực quyên góp để mua đất xây dựng Trung Tâm Tu Học Viên Giác tại Ấn Độ. Vừa nghe nhắc đến Tượng Đài, anh liền sẳn sàng tạo mọi điều kiện để khách xa mới đến có dịp được đi thăm. Anh cho rằng đó cũng là cách để bày tỏ lòng, là mình vẫn còn mang nặng ơn nghĩa của những chiến sĩ VNCH đã hy sinh xương máu và sự sống còn cho non sông gấm vóc Việt Nam. . . . . . . . . . . . . Tinh thần huynh đệ chi binh của các Chiến Sĩ Quân Lực Việt Nam Công Hòa mỗi nơi thể hiện một cách , tùy điều kiện và hoàn cảnh địa phương. Thế nhưng, cho đến bây giờ, quả thật chưa có nơi nào có tượng hai chiến binh Việt Mỹ đứng bên nhau như ở Westminster.
Tượng Đài vĩnh viễn sẽ là biểu tượng cho tinh thần của người Việt Nam yêu chuộng tự do và cũng là hình thức để bày tỏ lòng biết ơn sâu xa nhất đến các Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa và các chiến binh Hoa Kỳ đã chiến đấu và đã nằm xuống trên đất nước Việt Nam thân yêu. Nhân kiệt với địa linh: Khách có thể dọc theo Westminster Ave., gặp Monroe thì quẹo trái vào đường All American Way. Hoặc từ Beach Blvd vừa qua khỏi Hazard Av, nhớ quẹo phải vào con đường 13. Vừa mới quẹo vào, khách sẽ thấy ngay Tượng Đài là hai pho tượng bằng đồng cao 11 feet sừng sững dưới cờ Vàng Ba Sọc và lá cờ Hoa Kỳ luôn phất tung bay trong gió. Nếu tính từ tâm công viên Freedom Park , nhìn về hướng Tây thì hai pho tượng ở bên góc trái sát kề bãi đậu xe. Khách có thể nhìn thấy rõ tượng đài là 2 chiến binh một Mỹ, một Việt, đứng kề bên nhau. Người lính Mỹ có vẻ như ngóng trông, như đang dùng dằng lưỡng lự, tay súng buông lỏng và nón sắt trên tay. Người chiến binh Việt Nam đứng lùi sau một bước, trang bị chuẩn bị vẫn trong thế sẳn sàng, nón sắt trên đầu và súng vẫn ở trên vai, ngón trỏ của tay trái chỉ xuống, biểu lộ thái độ cương quyết. Tiếng súng tạm ngưng, tương đối an toàn để có thể thảnh thơi đôi chút. Vũ khí trang bị còn đủ. Lựu đạn vẫn còn bên hông và lưỡi lê chưa cài trên đầu súng thì trận này chưa hẳn phải là trận cuối. Họ vẫn còn cơ hội mặt đối mặt để cận chiến với quân thù, thì cớ sao người lính Mỹ đã lộ vẻ hoang mang? Có phải vì người lính Mỹ đang phải đối đầu vơí đằng trước là hỏa lực khủng khiếp của cả khối cộng sản, mà sau lưng là những áp lực nặng nề của quá nhiều mưu toan chính trị?
Ngay sau Tượng Đài là một khoảng trống, không gì che chắn để bảo vệ, ôm ấp cho Tượng Đài đủ ấm. Giòng Westminster Channel từ phía Đông ngỡ như bươn bả chảy dồn sinh lực, vừa về tới gần công viên Freedom Park thì đột ngột đổi hướng, quả thiệt hết sức là vô tình. Có khác chi năm 1973, chính phủ Hoa kỳ đã đột ngột rút quân, để lại một mình cho Quân Lực VNCH gánh vác cuộc chiến đang thời kỳ sôi động nhất? Khách đến tham quan Tượng Đài sao khỏi ngậm ngùi khi mắt rõ thấy hình ảnh của người chiến binh Việt Nam Cộng Hòa xông pha đầu tuyến mà không được trang bị áo giáp an toàn để che thân như người lính Mỹ. Tượng Đài không đủ ấm là vì giòng Westminster channel đột ngột chuyển hướng xoay lưng vô tình và người lính trận lại không được trang bị bảo vệ an toàn. Nếu đem so lại với thực cảnh của cuộc chiến tranh Việt Nam thì cả hai đều như bị những móc xích vô hình ràng buộc không rời được nhau. Tất cả hoàn toàn như đang bị vây phủ bởi vòng tương quan nhân quả, thì rõ ràng Đất Trời cũng đã cảm ứng được với lòng người. Lòng người đã được Đất Trời cảm ứng. Âm với Dương nhất định đã hòa hợp và sinh khí phải được tạo thành thì chắc chắn Phong Thủy nơi này phải có xảo diệu chi đây. Có phải giòng Westminster channel thoạt mới nhìn, tưởng như đang dồn hết sinh lực bươn bã chảy về. Nhìn kỷ mới thấy giòng Channel đã gần cạn, nước đã bị ố dơ. Thủy cạn và bị ố dơ là phạm phải vào Ngũ Hung của Thủy. Vậy nên Westminster channel đột ngột trở mình, không chịu ôm Tượng Đài Việt Mỹ vào lòng, mới thoạt nhìn thì ai cũng nghĩ là Hung, nhưng đâu ngờ lại trở thành Cát . Từ ngàn xưa người ta đã biết nguồn nước có sâu hay nông, mà đoán được khí thế của Long mạch mạnh hay yếu. Nhìn nước đục hay trong mà đoán biết huyệt chân hay giả. Phía đằng sau Freedom Park còn có giòng Santa Anna nước tràn đầy sinh lực, lượn ôm toàn cục vào lòng, da diết hữu tình. Long mạch mạnh mẽ đầy khí thế như thế thì không lẻ khu vực Tượng Đài lại không đủ Ấm? Biết bỏ gần mà lấy xa, bỏ cái xấu mà lấy cái tốt, bỏ cái nhỏ mà lấy cái lớn, thì sao không là Xảo Diệu? Đất trời đã cảm ứng với lòng người. Đạo người đã hòa hợp với Đạo Trời. Địa mạch đã được tốt lành. Tượng Đài chắc hẳn phải linh thiêng. Lại còn biết bỏ gần mà lấy xa, bỏ ngắn mà lấy dài, thì ngày 30 tháng 4 năm 1975 chắc gì là ngày cuối cùng của cuộc chiến?
Nếu cho rằng kết luận như vậy là vội vã, thì thử toán thêm quẻ Mai Hoa. Có phải dưới chân Tượng Đài là bệ đá cẩm thạch, màu đen tuyền, bao tròn nửa vòng ôm kín Lư hương Hỏa khí. Khoa Địa Lý Phong Thủy xưa nay đều cho rằng Đá hành Kim - Vòng tròn cũng hành Kim - Lưỡng Kim tương ngộ - tương sinh với Thủy thì Thủy phải Tướng. Trong lòng của Thủy Khí là Lư hương khí Hỏa thì đúng là Thủy ngoại Hỏa nội, Thủy thượng Hỏa hạ, Thủy Hỏa Ký Tế là tượng nước ở trên lửa, nước lửa giao nhau. Trong 64 quẻ Dịch, chỉ Kỷ Tế mới có đủ 6 hào cư đúng vị. Nghĩa của Kỷ tế là đã qua sông, là chuyện đã xong rồi, hay chuyện đã nên, đã cùng, thì coi như cuộc chiến Việt Nam đã tàn, đã xong. Nhưng nếu không vội vã, mà phải nhìn kỷ toàn cục thì có phải Lư hương Hỏa khí lại được đặt để ngay trên một hồ nước đầy tràn: Lửa trên nước là Hỏa thượng Thủy hạ, tượng của quẻ Hỏa Thủy Vị Tế? Sau Kỷ Tế đến Vị Tế, trời đất cũng đã sắp bày như vậy. Kinh Dịch cũng xếp thứ tự như thế. Kỷ Tế là việc đã xong mà Vị Tế là quẻ của sự việc Chưa Cùng. Theo dự án thiết kế ban đầu, Lư Hương cao 4 thước Tây để tỷ lệ hài hòa với chiều cao của tổng thể Tượng Đài. Nhưng vì điều kiện an toàn quy định, để công trình xây dựng được phép tiến hành, buộc phải nâng chiều cao của Lư Hương lên 6 thước Tây. Hai khí Thủy Hỏa đang giao nhau mà Lư hương khí Hỏa thấp yếu, thì sẽ bị Thủy đương Vượng dập tắt tức thời. Hỏa mà bị dập thì coi như mọi chuyện đã an bài. Lư Hương may nhờ phải tăng chiều cao lên 6 thước Tây, chỉ vì quy định an toàn trong thiết kế, mà Khí Hỏa hữu lực để thành tựu được Hỏa Thủy Vị Tế. Vị Tế là quẻ của chuyện Chưa Cùng, là chuyện vẫn còn sinh sinh, tiếp diễn, thì cuộc chiến chắc gì đã dứt? Mặt khác, vì an toàn của hệ thống dẫn Gaz, Lư Hương phải đặt xoay hai chân ra đằng trước, một chân phía sau. Xưa nay tất cả Lư Hương trước chùa, đình hay miễu thường được đặt một chân đằng trước, hai chân đằng sau. Lâu ngày quen mắt, trở thành cái Lệ trong luật tục, cái Nghi trong Lễ Đạo. Lư Hương trước Tượng Đài hai chân phía trước như vậy là ngược khác với lệ thường. Hướng của Tượng Đài xê dịch trong khoảng 260 độ Tây - Tây Nam. Khoa Phong Thủy gọi là chung là hướng Dậu. Nhưng theo phái Phong Thủy Cổ Dịch Huyền Không, phía sau Tượng Đài gọi là Sơn và trước gọi là Hướng thì 260 độ, phải gọi chính xác là Địa Nguyên Long, Sơn Giáp Hướng Canh. Tượng Đài hoàn thành năm 2003 thuộc cuối vận 7, thì Ngũ sẽ đáo Sơn và Cữu sẽ đáo Hướng. Sơn tinh Ngũ và Hướng tinh Cữu nhập giữa đều bay thuận. Tượng Đài đang bị Phạm thượng Sơn hạ Thủy, quẻ Hướng bị sinh xuất: Hung. Lại theo Hiệp Kỷ Biện Phương Thư, năm Quý Mùi 2003, thuộc vận 7 Hạ Nguyên thì Lục Bạch nhập Trung Cung. Bát Bạch tại Đoài và Tứ Bích tại Chấn. Tam Sát: Thân Dậu Tuất thì hướng Dậu của Tượng Đài đang phạm vào Tam Sát. Tang môn cũng lại đang lãng vãng hướng này. Vậy cái Lư hương đặt ngược khác với lệ thường, mà lại tránh được Họa của Tang Môn và Tam Sát, đồng thời tránh được Hung của hướng Tây vận 7. May mắn lạ thường như vậy, làm sao mà Tượng Đài không linh cho được ? Ấn sâu sau Tượng Đài Việt Mỹ là những trang chiến sử oai hùng. Trên đường dây điện thoại, vẫn còn nghe Nam Lộc nhắc là Khách đến có thể lật lại từng trang chiến sử, để có dịp gặp lại những người bạn cùng chiến đấu năm xưa. Đôi lúc khách cũng có thể gặp lại chính mình hoặc người thân, ruột thịt của gia đình mình trong đó. Có quá nhiều kỷ niệm buồn vui để nhớ, nhưng chắc chắn tự trong tim, khách không khỏi thấy dấy lên niềm tự hào. Khách nhớ đừng có quá bận tâm tại sao Lư Hương để ngược, chỉ vì Tượng Đài vẫn còn đang đặt tạm tại xứ người. Khách cũng đừng hỏi tại sao những thành viên người Việt trong Ủy Ban Xây Dựng Tượng Đài, phải chịu nhiều sóng gió bão bùng trong suốt quá trình thực hiện, chỉ vì họ là những Chiến Sĩ tuyến đầu của cuộc chiến. Chiến hữu Hải Quân: Hồ Ngọc Minh Đức vừa mới được các đồng đội Hải Quân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa vinh danh là tin vui mới nhất có thể vay mượn được để làm quà tặng tiễn khách ra về.
Tác giả bài viết: Quảng Đức
No comments:
Post a Comment