Thursday, April 28, 2022

CHƯƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU QUÂN SỬ - QUÂN LỰC VNCH : NHỮNG TRẬN CHIẾN ĐẪM MÁU TẠI THỦ ĐÔ SÀI GÒN NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG THÁNG 4 . 1975

 

Xem CHƯƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU QUÂN SỬ - QUÂN LỰC VNCH : NHỮNG TRẬN ĐÁNH QUYẾT LIỆT TRÊN VÒNG ĐAI PHÒNG THỦ SÀI GÒN - Huấn khu Long Thành : Những trận đánh ngày 26-28 tháng 4 năm 1975.
Tại vòng đai Sài Gòn, tuyến phòng thủ của Quân lực VNCH đã phải co cụm lại: vùng Tây Bắc còn lại tỉnh Biên Hòa, phía Đông còn Long Thành, phía Bắc còn Lai Khê, phía Đông Nam còn Hóc Môn.
Trong đêm 26 tháng 4/1975, Cộng quân đồng loạt tấn công khu Tân Cảng, cầu Biên Hòa và đài phát tuyến Phú Lâm.
TIỂU ĐOÀN 12 / LỮ ĐOÀN 4 NHẢY DÙ : đang bảo vệ dinh Độc Lập đã được điều động đến Tân Cảng và nhanh chóng quét sạch địch quân khỏi khu vực này...
Khoảng giữa trưa ngày 28/04/1975 một lực lượng Đặc công CS cấp đại đội một lần nữa tấn công và chiếm đóng phía đông đầu cầu xa lộ (Tân Cảng) và khu vực phía đông của cầu.
Địch sử dụng hỏa lực Thượng liên đặt trên lầu của hồ tắm Thiên Nga (nằm cách đầu cầu khoảng 100m) khống chế phần giữa cầu khiến đơn vị Địa Phương Quân (ĐPQ) từ phần đầu cầu phía Tây không thể tiến qua phản công được. Cộng quân đang tìm cách chiếm nốt cây cầu. Giao thông trên xa lộ giữa Sài Gòn và Biên Hòa bị gián đoạn.
Tiểu Đoàn 12 ND (TĐ12ND) trực thuộc Lữ đoàn 4 Nhảy Dù (LĐ4ND) được đặt trong tình trạng ứng chiến cho bộ Tư lệnh Biệt Khu Thủ Đô (BTL/BKTĐ), TĐ (-) bố trí trong khuôn viên của Thảo cầm viên Sài Gòn còn 1 Đại đội nằm tại khu vực BỘ Canh Nông ở góc đường Nguyễn Bỉnh Khiêm và Phan Thanh Giản với nhiệm vụ trấn giữ cầu Phan Thanh Giản.
: Hai Đ/ĐPQ dưới quyền chỉ huy của Trung tá Tiểu khu phó Tiểu khu Gia Định (TKGĐ) đang phản công để tái chiếm đầu cầu nằm về hướng Biên Hòa. Hải quân Tân Cảng cung cấp tàu bè làm phương tiện vượt sông cho Tiểu Đoàn ND.
Tiểu Đoàn ND phối hợp với TKTĐ và Hải quân Tân Cảng để phản công tái chiếm phần cầu bị địch chiếm giữ và khai thông xa lộ trong thời gian ngắn nhất.
Ý định hành quân: Tiểu Đoàn 12 ND sẽ sử dụng của Hải quân Tân Cảng để vượt sông từ hai mặt nam và bắc của cây cầu và hai cánh quân sẽ tấn công các vị trí của địch từ hai gọng kìm này. Cánh quân A gồm BCH/TĐ và các ĐĐ 120, 123, 124 sẽ vượt sông từ khu vực cư xá Thanh Đa, cánh quân B do Thiếu tá TĐP Nguyễn Trọng Nhi sẽ vượt sông từ khu vực Tân Cảng với 2 Đ 121 và 122.
Khoảng 1500g toàn bộ Tiểu Đoàn ND dùng GMC từ Thảo cầm viên qua cầu Thị Nghè theo đường Hùng Vương rồi theo Hàng Xanh tới cầu Kinh. Tại đây cánh quân A được mấy chiếc giang đỉnh chở qua bờ sông Sài Gòn. Cánh quân B di chuyển bộ dọc theo các khu vực nhà ven sông để di chuyển về cầu Tân Cảng. ĐĐ 121 của Trung úy Nguyễn Văn Nam được Thiếu tá Nhi chỉ định nằm lại tại chân cầu làm lực lượng trừ bị và hỗ trợ cho cánh quân B vượt sông, phần còn lại gồm BCH nhẹ cùng Đ 122 của Đại úy Đỗ Việt Hùng được xà lan Hải quân đưa qua sông. Có lẽ do những tiếng súng nổ rền vang trên cầu nên ĐĐ 122 đổ bộ lên bờ đông sông Sải Gòn không bị địch phát hiện. Khoảng 1630g, ĐĐ 122 lặng lẽ vượt mấy con rạch nhỏ nằm song song với xa lộ và tấn công lên các lều của mấy quán giải khát dựng dọc theo bờ nam của xa lộ. Súng bắt đầu nổ và các binh sĩ nhảy dù nhanh chóng chiếm được một số lều do CS chiếm tại đó.
Mục tiêu cuối cùng là quán Cây Dừa cũng bị chiếm sau hơn 30 phút giao tranh. Một số địch nhảy xuống mấy con rạch để chạy trốn cũng bị rượt bắt, một số ít đầu hàng, còn phần đông bị thương do đạn bắn theo hoặc do lựu đạn ném xuống rạch.
Trong khi đó, cánh quân A sau khi vượt sông bắt đầu tiến nhanh qua khu làng Báo Chí rồi trực chỉ hồ tắm Thiên Nga. ĐĐ 124 của Trung úy Nguyễn Văn Tùng tiến chiếm chùa Kỳ Quang. Chùa này nằm cùng phía với hồ tắm Thiên Nga ở phía bắc ven xa lộ và cách hồ tắm khoảng hơn 400m. Từ chùa ĐĐ124 tấn công từ hướng đông thẳng xuống hồ tắm. ĐĐ 123 của Trung úy Sơn Bum dưới sự yểm trợ của súng cối 81 mm của ĐĐ 120 của Trung úy Thượng cũng bắt đầu tiến sát và tấn công hồ tắm từ hướng bắc. Khoảng 1800g làm chủ hồ tắm. Địch bỏ lại khoảng trên 10 xác chết. Trên lan can lầu xác hai xạ thủ thượng liên chân đều bị xích vào thành lan can. Cánh quân A bắt đầu lục soát về phía chân cầu.
Đến 1900g TĐ hoàn tất nhiệm vụ chiếm lại phần dầu cầu nằm ở hướng đông cùng dọn dẹp sạch sẽ khu vực này. Tổng kết hành quân, Tiểu Đoàn 12 ND tổn thất không đáng kể, địch để lại khoảng hơn 40 xác chết. TĐ bắt được hơn 20 tù binh, phần đông đều thuộc TĐ4 đặc công CS của quận Thủ Đức.
TĐ được lệnh bố trí phòng thủ khu vực phía đông của cầu. Khoảng 2000g Trung tá Lê Minh Ngọc cho lệnh TĐ gởi 1 ĐĐ lên trấn giữ khu vực ngã tư xa lộ - Thủ Đức.
Ngày 29/4/75 - Tình hình trong ngày vô sự. Khoảng 2200g một số quân xa chở binh sĩ và gia đình cùng thiết giáp từ hướng Biên Hòa đổ về Sải Gòn đều bị TĐ chận lại bên này cầu. Một vị Đại tá thuộc Quân đoàn III và một vị Trung tá mang bảng tên Quý yêu cầu TĐ cho nhóm gia đình quân nhân qua cầu vào Sài Gòn đồng thời cũng cho Thiếu tá Nhi biết là trên Biên Hòa đã được lệnh rút về Sải Gòn. Thiếu tá Nghiêm quyết định cho nhóm gia đình quân nhân này qua ngoại trừ mấy xe thiết giáp nằm lại phòng thủ chung với Tiểu Đoàn 12 ND . Thiếu tá Nghiêm cũng cho lệnh rút ĐĐ 123 của Đại úy Hùng đang trấn giữ tại ngã tư xa lộ - Thủ Đức rút về. Tình hình trong đêm tương đối yên lặng.
Ngày 30/4/75 - Khoảng 0730g Ngày 30/4/75 - Khoảng 0730g Tiểu Đoàn 12 ND nhận lệnh cho đoàn thiết giáp của Quân đoàn III vào Sài Gòn để họ bố trí dọc khu vực đường Hàng Xanh.
Khoảng 1000g Dương Văn Minh cho lệnh buông súng.
Tiểu Đoàn 12 ND họp các ĐĐT để cho họ biết tin này và sau đó để họ tùy nghi. Thiếu tá Nhi đã ngậm ngùi vứt hộp bấm ngòi nổ của khối thuốc nổ cỡ 2000kg TNT gài tại cần Tân Cảng xuống sông Sài Gòn .
LỮ ĐOÀN 3 KỴ BINH - CHUẨN TƯỚNG TRẦN QUANG KHÔI : Ngày 29-4-75 có lệnh mới của Quân Đoàn. Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn III ngoài Liên Đoàn 33 BĐQ, được tăng phái thêm: Lữ Đoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến, Lữ Đoàn 4 Nhảy Dù(- Tiểu Đoàn) và Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù, yểm trợ hỏa lực trực tiếp có: Tiểu Đoàn 46 PB 155 và Tiểu Đoàn 61 PB 106 Quân Đoàn.
12 giờ trưa ngày 29-4-75, Trung Tướng Toàn triệu tập một phiên họp khẩn cấp tại Bộ Tư Lệnh SĐ18BB ở Long Bình. Chỉ có Toàn, Đảo và tôi. Anh chỉ tay lên bản đồ ra lệnh cho SĐ19BB của Đảo phòng thủ khu vực Long Bình và kiểm soát xa lộ Biên Hòa, kế đó ra lệnh Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn III của tôi phòng thủ bảo vệ thành phố Biên Hòa và đặt lực lượng ĐPQ và NQ của Tiểu Khu Biên Hòa dưới quyền kiểm soát của tôi. Sau này đi tù tôi mới biết ngay lúc này phía bên khu vực SĐ25BB ở Củ Chi đã bị địch chiếm, SĐ25BB đã bị đánh tan và Tướng Lý Tòng Bá đã bị địch bắt.
Nguyễn Văn Toàn giấu tôi và Lê Minh Đảo tin xấu này. Anh chuẩn bị sắp xếp để bỏ trốn. Vừa nhận nhiệm vụ xong, tôi chợt thấy xuất hiện Đại Tá Hiếu, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 43/SĐ18BB với giọng rung rung xúc động, Hiếu báo cáo: quân địch đang tấn công Trảng Bôm và Trung Đoàn 43 BB đang rút quân về hướng Long Bình, mặt Đảo cau lại, Toàn nổi giận la hét Hiếu bắt Hiếu phải đem quân trở lại vị trí cũ, Hiếu làm như tuân lệnh, chào và lui ra.
Trong thâm tâm tôi, tôi biết là mặt trận phía Đông Biên Hòa ở Trảng Bôm của SĐ18BB khó có thể cầm cự nổi vì SĐ18BB đã bị kiệt sức sau trận đánh lớn ở Xuân Lộc không được bổ sung. Sự sụp đổ chỉ là vấn đề thời gian. Giao nhiệm vụ cho tôi và Đảo xong, Toàn đứng dậy bắt tay hai chúng tôi và nói: “Hai anh cố gắng, tôi sẽ bay về Bộ Tổng Tham Mưu xin yểm trợ cho hai anh.”
Về Bộ Tư Lệnh Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn III, tôi liền họp các Lữ Đoàn Trưởng, Liên Đoàn Trưởng, Chiến Đoàn Trưởng và các Đơn Vị Yểm Trợ. Tiểu Khu Trưởng và Tiểu Khu Phó Biên Hòa đã bỏ trốn từ mấy ngày trước. Trước hết, tôi ban hành lệnh thiết quân luật ở Biên Hòa kể từ 15 giờ 00 ngày 29-4-75, chỉ thị cho các đơn vị Địa Phương Quân và Nghĩa Quân chung quanh thị xã Biên Hòa bố trí tại chỗ, ở đâu ở đó, không được rời vị trí, không được di chuyển. Cảnh sát Biên Hòa chịu trách nhiệm an ninh bên trong thành phố. Triệt để thi hành nguyên tắc nội bất xuất, ngoại bất nhập. Để phòng thủ bảo vệ thành phố Biên Hòa, tôi phối trí Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn III như sau: Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù: Bố trí trong khu phi trường Biên Hòa, giữ mặt Bắc BTL/Quân Đoàn III.
- Lữ Đoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến: 1 Tiểu Đoàn bảo vệ BTL/Quân Đoàn III, Lữ Đoàn(-1 Tiểu Đoàn) bố trí phòng thủ mặt Nam BTL/Quân Đoàn III.
- Lữ Đoàn 4 Nhảy Dù (-1 Tiểu Đoàn): Tổ chức phân tán thành nhiều Tiểu Đội chiến đấu nhỏ, giữ Cầu Mới Biên Hòa, giữ Cầu Sắt Biên Hòa và đặt các nút chận trên đường xâm nhập vào thành phố Biên Hòa.
- Chiến Đoàn 315: Bố trí án ngữ từ Ngã Tư Lò Than đến ngã Tư Lò Than (gần trại Ngô Văn Sáng).
- Chiến Đoàn 322: Bố trí án ngữ từ Ngã Tư Lò Than đến cổng phi trường Biên Hòa (trừ bị 1).
- Chiến Đoàn 318: Bố trí án ngữ từ cổng phi trường Biên Hòa đến Cầu Mới Biên Hòa (trừ bị 2).
- Pháo Binh: Kế hoạch yểm trợ hỏa lực.
- BTLLĐ3KB/Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn III: Đặt tại tư dinh Tư Lệnh Quân Đoàn III.
Lúc 17 giờ 00 ngày 29-4-75, tôi dùng xe Jeep có hộ tống đi một vòng quan sát tình hình trong và chung quanh thành phố Biên Hòa. Tình hình chung có vẻ yên tĩnh, dân chúng không ra đường, phố xá đóng cửa. Vào khoảng 18 giờ 00, quân cộng sản bắt đầu xâm nhập vào mặt Bắc và Đông Bắc thành phố từ hướng phi trường đụng với quân Biệt Cách Dù và Thủy Quân Lục Chiến. Giao tranh bắt đầu, 1 cánh quân Biệt Động Quân của Chiến Đoàn 315 cũng đụng địch ở gần trại Ngô Văn Sang. Địch bám sát vào tuyến phòng thủ mặt Bắc và Đông Bắc của quân ta. Hai bên bám trận địa nằm cách nhau 10-15 mét. Cho đến giờ phút này, quân ta chiến đấu vững vàng tự tin. Không có tình trạng bỏ ngũ. Dưới sự yểm trợ mạnh mẽ của hỏa lực Thiết Giáp, quân ta đẩy địch ra xa tuyến phòng thủ.
Vào khoảng 23 giờ 45 khuya, địch bắt đầu pháo dữ dội vào thị xã Biên Hòa, chúng tập trung một lực lượng hỗn hợp bộ binh chiến xa cấp Trung Đoàn từ Ngã Ba Hố Nai – Xa Lộ tấn công về hướng Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III. Chiến Đoàn 315 của Trung Tá Đỗ Đức Thảo xông ra chận địch. Hỏa lực chiến xa M-48 của ta áp đảo địch. Giao tranh quyết liệt. Một số chiến xa địch bị bắn cháy. Địch rút lui.
Lúc 02 giờ 00 sáng ngày 30-4-75, Tướng Lê Minh Đảo gọi tôi ở đầu máy PC-25: “Báo anh hay tôi bị quân địch tràn ngập, Long Bình đã bị chúng chiếm.” Tôi liền hỏi: “Anh hiện giờ ở đâu? Có cần gì tôi không?” Đảo đáp: “Tôi hiện ở gần nghĩa trang Quân Đội, đang rút đi về hướng Thủ Đức.” Tôi cảm thấy đau buồn và tội nghiệp Đảo vô hạn. Những năm cuối cùng của cuộc chiến, tôi và Đảo rất vất vả. Hai chúng tôi có mặt ở khắp các mặt trận, vì Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn III của tôi là lực lượng cơ động số 1, và SĐ18BB của Đảo là lực lượng cơ động số 2 của Quân Đoàn.
Bọn cán bộ cộng sản rất căm hận hai chúng tôi vì đã gây cho chúng rất nhiều tổn thất nghiêm trọng và chúng coi hai chúng tôi là hai tên chống cộng “điên cuồng” nhất.
Vào khoảng 03 giờ 30 sáng, địch lại pháo vào Biên Hòa, lần này chúng pháo rất mạnh và chính xác. Tôi đoán chúng định tấn công dứt điểm Biên Hoà sau khi đã chiếm được Long Bình. Tôi chuẩn bị sẽ tung cả 3 Chiến Đoàn Thiết Giáp vào trận đánh quyết định, nhưng thật bất ngờ, chúng vừa xuất hiện 1 đoàn chiến xa dẫn đầu, bộ binh theo sau, liền bị Chiến Đoàn 315 đánh chận đầu và bọc sườn, chúng bèn rút chạy ngược ra xa lộ. Kể từ đó, thị xã Biên Hòa trở nên yên tĩnh.
Đúng 08 giờ 00 sáng ngày 30-4-75, tôi cố gắng gọi về Bộ Tổng Tham Mưu để liên lạc với Trung Tướng Nguyễn Hữu Có nhưng không được. Tôi liền họp các Lữ Đoàn Trưởng, Liên Đoàn Trưởng, Chiến Đoàn Trưởng và các Đơn Vị Trưởng Yểm Trợ. Chúng tôi trao đổi tin tức và thảo luận tình hình ở mặt trận, tình hình trong thành phố Biên Hòa. Áp lực địch bên ngoài không còn nữa. Chung quanh bên ngoài thị xã, chỉ có hoạt động lẻ tẻ của du kích, bên trong thành phố vắng vẻ. Đặc biệt đêm qua, tôi có cho tăng cường canh giữ nhà giam Biên Hòa. Không có tình trạng dân chúng xuống đường hô hào ủng hộ cộng sản. Tôi sung sướng nhất là thấy tinh thần của chiến sĩ ta rất tốt, không có tình trạng đào ngũ. Tuyệt nhiên cũng không có tình trạng hãm hiếp cướp bóc trong thành phố, các sĩ quan thi hành quân lệnh nghiêm chỉnh. Trong đêm qua có nhiều tốp lính bạn thuộc SĐ18BB rã ngũ định chạy qua thành phố, tôi ra lệnh chận lại , cương quyết không cho vào thành phố đang giới nghiêm vì sợ có tình trạng gây mất tinh thần rã ngũ giây truyền như đã xảy ra ở miền Trung trước đây.
Bây giờ là 08 giờ 30 ngày 30-4-75, tôi kết luận buổi họp: “Biên Hòa không còn là mục tiêu tấn công của địch nữa. Tôi nghĩ rằng giờ này các lực lượng chủ lực cộng sản đang tập trung tấn công Sài Gòn. Rõ ràng chúng bỏ Biên Hòa, dồn lực lượng đánh vào Thủ Đô. Chúng ta mất liên lạc với Bộ Tổng Tham Mưu. Bây giờ tôi quyết định kéo toàn bộ Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn III về tiếp cứu Sài Gòn.” Tất cả các Đơn Vị Trưởng ủng hộ quyết định này của tôi.
Tôi liền ban hành Lệnh Hành Quân và điều động Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn III tiến về Sài Gòn theo kế hoạch sau đây: Lấy đường xe lửa Biên Hòa-Sài Gòn và xa lộ Đại Hàn làm hai trục tiến quân chính.
a) Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù + Lữ Đoàn 4 Nhảy Dù (-1 Tiểu Đoàn) do Đại Tá Phan Văn Huấn chỉ huy: Tiến bên phải đường sắt hướng Sài Gòn. Đến ngoại ô Bắc Sài Gòn, co cụm lại, bố trí bên phải đường sắt, chờ lệnh. b) Lữ Đoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến do Trung Tá Liên (TQLC) chỉ huy: Tiến bên trái đường sắt hướng Sài Gòn. Đến ngoại ô Bắc Sài Gòn, co cụm lại, bố trí bên trái đường sắt, chờ lệnh.
c) Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh + Liên Đoàn 33 Biệt Động Quân: Bố trí yểm trợ quân BCD, ND và TQLC rời vị trí phòng thủ, rút an toàn qua Câu Mới Biên Hòa trước. Sau đó, lấy xa lộ Đại Hàn làm trục chính, tiến về Sài Gòn theo thứ tự như sau:
- Chiến Đoàn 315 do Trung Tá Đỗ Đức Thảo chỉ huy: Đi trước, đến ngoại ô Bắc Sài Gòn, bố trí bên này cầu Bình Triệu, chờ lệnh.
- Chiến Đoàn 322 do Trung Tá Nguyễn Văn Liên (TG) chỉ huy: Đi sau CĐ 315, đến ngoại ô Bắc Sài Gòn, bố trí sau CĐ 315, chờ lệnh.
- Chiến Đoàn 318 do Trung Tá Nguyễn Đức Dương chỉ huy: Đi sau cùng, đến Sài Gòn, bố trí sau BTL và Đơn Vị Yểm Trợ, chờ lệnh.
Trước khi lên trực thăng Chỉ Huy, tôi duyệt đoàn quân lần cuối. Quân ta từ từ rời thành phố Biên Hòa trong vòng trật tự, trang phục chỉnh tề, tác phong nghiêm chỉnh, không hề nao núng, giống y như những lần hành quân trước đây khi còn Đại Tướng Đỗ Cao Trí chỉ huy xông trận trên chiến trường Campuchia. Lúc này là 09 giờ 00 ngày 30-4-75.
Tôi gọi nhiều lần, gọi một cách tuyệt vọng, không có ai ở đầu máy trả lời. Rồi tôi gọi Trung Tâm Hành Quân Bộ Tổng Tham Mưu, cũng không liên lạc được. Lúc bấy giờ tôi nghe nhiều loạt đạn pháo binh địch nổ ở hướng sân bay TSN. Giờ này, các cánh quân Thiết Giáp của tôi cũng vừa đến Bình Triệu gần khu nhà thờ Fatima.
Trong khi tôi đang lúng túng trong việc liên lạc với BKTĐ và Bộ Tổng Tham Mưu, thì thình lình tôi nghe lời kêu gọi ngưng chiến đấu của Dương Văn Minh phát ra từ một máy thu thanh đâu đấy. Tôi nhìn đồng hồ tay: 10 giờ 25 phút.
Thế là hết. Kể từ giờ phút này, tôi tự chấm dứt quyền chỉ huy của mình và xem nhiệm vụ của LĐ3KB và Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn III đến đây là kết thúc.
Tôi không có gì để nói thêm, chỉ thầm cám ơn tất cả các chiến hữu đã cùng tôi chiến đấu đến phút cuối cùng của cuộc chiến và cùng tôi giữ tròn khí tiết của người chiến sĩ đối với Quân Đội VNCH và Tổ Quốc VN.
AI CÔNG HẦU . AI KHANH TƯỚNG - TRÊN TRẦN AI . AI DỄ BIẾT AI ! THẾ CHIẾN QUỐC . THẾ XUÂN THU - THẾ THỜI THẾ . THẾ THỜI PHẢI THẾ !

Wednesday, April 27, 2022

Tâm Sự Người Lính Già - Nhớ lại 47 năm rồi còn gì.....

Và hôm nay 28-4-…. Nhớ lại 47 năm rồi còn gì…

Ngày này - và những năm tháng đó….
Những ngày đi với LĐ3ND - từ Đà Nẳng  về đến Phan Thiết- thì được lệnh quay lại Nha Trang - đoàn tàu 3 chiếc Dương Vận Hạm ( từ số 500…chúng tôi ngồi trên chiếc mang số 500)
BCH /LD ở Dục Mỹ (các TĐ2-5-6) đóng rãi rác từ Khánh Dương đến đèo Phượng Hoàng-
Tới một buổi chiều… nhận được lệnh, bỏ Dục Mỹ kéo BCH/LĐ 3 về Đèo Rù Rì … đang lập công sự phòng thủ… thì Tr/tá L-V-Phát, được lệnh đi họp ở Cam Ranh (với TT-Thiệu) -  khoản 4g chiều… lệnh rút đi (không biết đi đâu?)
Thế thì ngay lập tức… BCH-LĐ3ND di chuyển về hướng Nam - dẫn đầu là DĐ3Tr/sát do Đ/uý Hoạch (DDT)
Thứ tự…DDCH/CV-DD3CB-Đ3QY-TĐ2PB/ND- ngoái nhìn từ cabin… một đoàn xe hổn hợp ( đầy đủ Quân Binh Chủng từ quân đoàn 1-2 theo sau … thành một con rắn dài vô tận)
Về tới Tháp Chàm -Phan Rang nữa đêm… Th/sĩ Tâm Thường Vụ DĐ3QY ( cùng ngồi trên xe) chuyền cho tôi điếu thuốc và nói: mày nhìn lại đàng sau kìa…
Tôi ngoái lại - ôi một con Rồng Lữa dài vô tận (những ánh đèn xe nối đuôi …) biến thành con Rồng lữa đẹp mắt….
Chúng tôi được lệnh vào phi trường Thành Sơn (tái cố thủ)
Đoàn xe cứ theo sát … có lẽ tưởng chúng tôi được bốc khỏi đây bằng máy bay… thôi thì đủ các ông … Đủ các đơn vị cứ vào cổng phi trường, thì chỉ  hỏi một  mình  ông : Tr/tá Phát đang ở đâu? Cuối cùng BCH /LĐ phải cho DDTr/sát 3 -mang cây Hoả Tiễn Tow để ngay trước cổng ngăn chận (không cho vào phi trường nữa) và khuyên họ cứ tiếp tục xuôi về hướng Nam< vì chúng tôi còn ở lại- phòng thủ chiến đấu- chứ không phải về Sài Gòn bằng phương tiện này…>
và đoàn quân tiếp tục đi…
Chúng tôi ở đây một tuần -  chờ đợi ba TD2-5-6 còn kẹt, trong rừng núi Khánh Dương- khi bốc được tất cả, 3 TD bằng trực thăng, về đến phi trường Thành Sơn… thì có lệnh được hoán đỗi LĐ2ND từ Sài Gòn ra thay thế…
Về đến Sài Gòn, (Trại Hoàng Hoa Thám) AE đều xát sơ -  nhưng niềm vui ra mặt vì lâu quá, mới trở về Sài Gòn
-từ năm 1972 - cho đến 1975 (cả SĐ Dù thành đơn vị ĐPQ ở QĐ1)
Về được Hậu Cứ (HHT)
Nhưng cả đơn vị cấm quân 100%-  còn các TD 2-5-6  về HC -bổ sung - chờ lệnh mới…
Những năm tháng từ ngày, rời TĐ5ND về nhận nhiệm vụ mới: Phòng nhận Bênh/HQ- rồi Y Tá Trưởng Liên Đội 3 Đa Năng- rồi - về DD3QY/LĐ3ND - về trình diện DDT/DD3QY-bS Lê Minh Tâm -DĐT
- tôi có kể từ đó đến nay chưa được một ngày phép- bs Tâm cho đi 3 ngày phép (và dặn phải trả phép đúng hạn . Để AE khác còn đi nữa…)
————ngày này 47 năm về trước…

Ngày 28-4-1975 buổi chiều … tôi than thở với Th/Sĩ Tâm (lùn) Thường Vụ- (tôi với Tâm là bạn ngoài đời … trong đơn vị ít ai biết….) chỉ (xưng hô mày tao - khi ăn nhậu- hoặc đi chơi, ra khỏi đơn vị)
Vợ tao có bầu gần sanh (mà không biết hôm nay sao nữa- lệnh cấm quân -tao muốn về thăm, mà không biết làm sao?
Tâm thẳng thắng trả lời: ĐM cho mầy đi đâu được - có gì khó xử cho tao- ráng một hai hôm nữa xem sao?
May sao BS Nguyễn Đức Mạnh đi ngang (hình như nghe được…) mày lấy xe tao đi về thăm vợ mày đi, rồi tối vào … lén mà đi rồi vô…(chiếc xe Bighestone màu đen - không biết ổng mượn của ai)
Tôi nhìn Tâm (lùn) và nhìn bs Mạnh (bs Mạnh lúc đó là DĐP/DD3QY)
Tâm (lùn) rất nể bs Mạnh- (hơn nữa mấy AE thường ăn nhậu chung từ ĐẠi Lộc- về Dục Mỹ… về Hậu Cứ nói chung… ở đâu cũng nhậu…<nhậu đến mất nước> giờ mới hay…) không lẽ < DDP cho phép mà Thường vụ dám cãi>
Tôi lật đật dẫn xe bs Mạnh chạy về nhà…
Mẹ tôi nói - vợ mầy chuyển bụng tao đưa nó lên viện bão sanh (ngang TĐ1ND là Nghĩa Địa Đô Thành - nhưng cất bên ngoài nhà bảo sanh)
Theo mẹ tôi nói: bây giờ giặc dã- nghe nói Sài Gòn lộn xộn- thay vì đưa xuống BV-Từ Dũ- nhưng sợ rũi rỏ mang vợ mày về không kịp…
Tôi nhanh chân dẫn xe ra, chạy lên hướng TĐ1ND vào đến nơi thì vợ tôi mới sanh 1 giờ trưa tôi mới bồng đứa nhỏ (chưa biết trai hay gái) thì nghe một- hai tiếng nổ lớn- rồi tiếng phòng không của KQ-TSN bắn lên (tôi nhìn đồng hồ lúc đó là 17g10 
- đó là ngày 28-4-1975
Tôi vội vã trao con cho vợ, rồi quay xe trở vào đơn vị…. (tôi khuyên vợ tôi, bằng mọi giá phải bồng con về nhà)
Trên đường từ ngã ba Ông Tạ - trở lên trại HHT … dọc đường dân chúng hớt hải (về sau mới biết đó là-Pilot Nguyễn Thành Trung dẫn đầu…)
Hắn thả ngay phi đạo - để khống chế… không cho F5-F5 E, cất cánh rượt đuổi… hắn còn ra Dinh Độc Lập thả một trái nữa - nhưng rớt ngoài đường Công Lý
Tối hôm 28-rạng sáng 29 - một cuộc pháo tứ phía  vào TSN và BTL SĐ ND - có hai ba trái gì đó rớt vào <Chợ Sư Đoàn> làm xập nhà một vài người dân trong Trại gia binh -
Sáng ra nhớn nháo, phòng nhận bệnh Bv Đỗ Vinh đang cấp cứu….
Đến 17g chiều ngày 29-4 bs Nguyễn Đức Mạnh cùng DĐ3QY ra khỏi trại và mạnh ai nấy đi…. Riêng tôi và Tâm <lùn> Th/vụ - xuống Biệt Khu Thủ Đô - đi theo Tr/tá Khôi LĐT/LĐ3ND (lúc bấy giờ - Bộ Tư Lệnh - Quân Đoàn 3 đang dời từ Biên Hoà về đây - do Trung-Tướng - Phạm Quốc Thuần đảm trách)
Nhưng từ 17g30 chiều ngày 29-4 cho đến sáng 30-4 (chúng tôi không thấy ông Thuần ở đâu)
Buổi chiều hôm 28 chỉ thấy một chiếc trực thăng màu trắng bay xuống - rồi một lát bay lên…
Các TĐ xin lệnh Tr/tá Khôi - Vì LĐ3ND lúc đó (hình như - trực thuộc điều động của QĐ3)-
Ông Khôi xin lệnh Tướng Thuần- người gọi Hoài không ai bốc máy- gọi điện thoại cũng vậy! Ông Khôi kêu thằng Trang QC204 - em qua hầm Tướng Thuần xem: sao không ai nghe máy, Trang đi qua hầm tướng Thuần và rủ tôi theo…T.O.C vắng tanh máy móc la liệt nhưng không có ai <kể cả âm thoại viên> -qua hầm kế bên… ôi một hầm rượu…remi- macten đủ loại, mỗi thằng cầm hai chai mang về- và Trang báo lại Tr/tá Khôi: không có ai bên đó hết Tr/tá cái bàn ông Thuần trống không !!!
Thế là bộ chỉ huy LĐ3ND - qua thay thế Bộ Tư lệnh QĐ3 từ tối hôm đó - cho đến 10g45 phút 30-4-75 thì tan hàng tại đây…
Bây giờ nhớ lại ngày này… năm đó … buồn - buồn lắm!!!
Không oán trách ai….
Chẳng qua tuổi thơ và lớn lên, nhầm thời <binh lữa -khốn kiếp>
Nếu những ai, đã từng tham dự - với những TĐ tác chiến ND thì càng thấm thía, sự gian khổ - hiểm nguy của thằng lính như thế nào?
Tôi có nhớ lời bs Trần Văn Tính nói chuyện - trên chương trình (mỗi ngày một nhân vật- do Hải Lăng phụ trách…)
Vai trò của một người < Y Tá đại đội> rất quan trọng - họ biết rành rẻ và cứu thương rất hữu hiệu… thành thử v/v < Tường Trình ủy khúc> không ai biết rõ hơn là người Y tá Đại Đội…
Mà thật vậy, người y tá , theo chân các đại đội ND đi hành quân … có khác gì , những quân nhân tác chiến… mỗi ngày cũng trên 35 ký trên lưng, mang nặng như < lạc đà> - lội hết cánh rừng này đến con suối nọ….
Khi khinh binh chạm địch phía trước… tất cả đại đội - phải cảnh giác phòng thủ…. nằm đóng quân ở gốc suối ven đèo cũng vậy- DDT nằm ở đâu! Cũng bắt y tá nằm cách đó chừng 5 mét- đụng trận … hay bị tấn công… cũng cầm súng bắn trả… để giành sự sống… chúng tôi là như vậy…
Suốt từ những năm tháng - cuộc chiến leo thang và khốc liệt-từ 1968 đến 1975
Y Tá đại đội chúng tôi cũng chết nhiều và thương tật cũng nhiều…
(tản mạn quá khứ)
Năm 1972- sau trận giải tỏa Bình Long-An Lộc
Y Tá TĐ5ND chết 8 người bị thương 4 người… ngày ra Mỹ Chánh để bổ sung đơn vị … chuẩn bị tái chiếm Cổ Thành Quãng Trị- BS Nguyễn Hữu Tâm (Tâm lùn)- mượn chiếc xe Dooge của TĐ5ND-  chở  tôi ra - cc Hiệp Khánh (cs 17)  để nhận Tân binh - bổ sung- BV HQ/TĐQY đang ở đây- sau khi trình diện, BS Vũ Khắc Niệm (chắc lúc đó - mới giữ chức vụ TĐT/TĐQY/ND) BS Tâm hỏi tôi -xin bao nhiêu y tá Anh? Tôi trả lời: dạ 14 người bs!
Bs Niệm nói ngay: 8 người thôi- còn chừa cho các TĐ khác nữa!
Sau khi Hàn huyên với bs Tâm xong - BS Niệm chở BS Tâm về BCH /TĐ5ND ởMỹ Chánh và thăm TĐT/TĐ5ND là Tr/tá Nguyễn Chí Hiếu (hai ông này là bạn - chắc hồi ở TĐ8ND)
Quý vị biết không ? Ngày vào tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị- tôi vẫn đi Y Tá DD /54 ( lúc đó mới vinh thăng Tr/sĩ - vì mặt trận An-Lộc mỗi người thăng một cấp) - nhưng trả giá cũng không rẽ ( bị thương hai lần - không đi tản được)
1- bị trái hỏa tiễn 107 tại ngã ba Xa Cam)  chấn thương ngực - mãnh pháo kích vào chân p)
2- bị trái - the-leiy (hai y Tá phụ - Tỷ và Chiêm) - nằm cùng hầm chết - tôi nằm chính giữa- bị chấn thương ngực nặng….
(ngày vào An Lộc- trên quốc lộ 13- hai y tá phụ bị thương- Trương Văn Nghề- và Phạm Đức Thắng bị thương)
Cuộc đời có gì bình an - và vui vẻ đâu? Thế mà cứ lao đầu vào cuộc chiến… (chưa kể- đã từng bị thương 4 lần trước đó- nặng nhất là trận Vàm Cỏ Đông- Tây Ninh- 1969)

Lúc đó - tôi cũng < có quyền xin về> các DDQY hoặc BCH / TĐ làm gì đó cũng được… để được ăn cơm nóng… khỏi phải ăn < canh trời> hay gian khổ - nguy hiểm đến tánh mạng… tại sao lại không nhĩ ???
Mãi đến năm 1974… chẳng qua < tuổi trẻ> có lầm lỗi với BS Nguyễn Minh Đức
(gần đây đã xin lỗi- BS Đức hiện ở CND)
Cũng xuề xoà: nếu em không có bản tính đó… thì không phải là người lính ND (tôi nhớ mãi lời này của BS Đức)
Rồi về Hiệp Khánh - làm Phòng nhận bệnh HQ - rồi ra CC Non Nước Cũng Phòng Nhận Bệnh Hành Quân- rồi vào Giử chức vụ Y tá trưởng Liên Đội 3 Đà Nẵng (mới thành lập)
- rồi cuối năm 1974 về DD3QY (BS Lê Minh Tâm (Tâm Cao) DDT/DD3QY- bS Nguyễn Đức Mạnh DDP…
Bây giờ nghĩ và nhớ lại….
Tự thương cho bản thân - thương cho những thằng bạn cùng khoá…. Những thằng đàn em có hoàn cảnh như mình… tại sao những ngày 20 mấy tháng 4… từ SĐND qua sân bay TSN gần quá và mình có điều kiện dể dàng quá … mà lại không nghĩ đến…
Bs Mạnh có còn nhớ những ngày đó không ???
Tối ngày cứ - ăn nhậu- say xĩn…. để rồi cuối cùng - phải tứ tán …. Như rắn mất đầu….
Lúc còn trong quân đội - mỗi lần có việc gì < bất mãn> thường nhủ câu:
< Đời nhà Binh- Như tình nhà thổ >
Còn bây giờ chỉ trách: <Vận nước- mệnh trời>
Nhớ mãi ngày này 28-4-1975
Hôm nay 28-4-2022
47 năm rồi còn gì nữa…
Người lính già -  KBC-3053

Saturday, April 16, 2022

Tôi Tham Chiến Tử Thủ Căn Cứ Hỏa Lực 30 Tại Hạ Lào Chương 3: Vượt Biên Giới - Trương Duy Hy

Rạng ngày 8-2-1971, ngày Lịch sử của cuộc vượt biên Lào-Việt.

6g00 sáng, tôi ra lệnh thu xếp hành trang gọn gàng, 6 khẩu đại bác xếp hàng cẩn thận và phân phát mỗi quân nhân 4 ngày lương khô. Giao Trung Úy Lân cùng các Sĩ quan Trung Đội Trưởng ở lại cắt đặt việc móc súng, móc hàng.

Đúng 8g00, tôi nghe đài phát thanh Sài Gòn lên tiếng về cuộc Hành Quân Lam Sơn 719 do chính Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu hạ lệnh tấn công sang Hạ Lào. Đồng thời Tổng Thống long trọng xác nhận : “…đây là cuộc hành quân có giới hạn trong thời gian lẫn không gian với mục tiêu duy nhất và rõ rệt là phá vỡ hệ thống tiếp liệu và xâm nhập của Cộng Sản Bắc Việt trên phần đất Ai-Lao mà chúng đã chiếm đóng và sử dụng từ nhiều năm nay để tấn công vào VNCH chúng ta. Ngoài ra, VNCH không có một tham vọng đất đai nào tại Ai-Lao và không khi nào xen vào nội bộ chính trị của vương quốc Ai-Lao vì VNCH luôn luôn tôn trọng nền Độc Lập và sự vẹn toàn lãnh thổ của Vương quốc Ai-Lao…”

Một tiếng đồng hồ sau đấy, tôi và 4 nhân viên gồm có Trung sĩ (TS) Lương, Hạ sĩ Nhất (HSI) Bách, TS Ngân, TS Quá ra phi trường trực thăng cùng với Toán Tiền Thám của Pháo đội C của Tiểu đoàn 3 Pháo binh Dù (PĐC/3 Dù) và Bộ Chỉ huy  Tiểu đoàn 2 Nhảy dù (BCH/TĐ2 Dù).

9g00, trực thăng bốc chúng tôi vượt biên giới.

Ngồi trên trực thăng nhìn xuống, Quốc lộ số 9 thu nhỏ dần, nhỏ dần… thành một đường ngoằn ngoèo khuất lấp, ẩn hiện kéo dài về hướng Tchépone, mất hút ở cuối tầm mắt… Núi rừng trùng điệp, không một thôn xóm, làng mạc… Sau 25 phút bay, chúng tôi được thả xuống một ngọn đồi toàn lau lách, chứ không có cây cao rậm rạp. Nhìn vào bản đồ, đối chiếu địa thế chung quanh và phối hợp với sự quan sát của phi công, chúng tôi xác định được điểm đứng trên tọa độ XD 599-465 với cao độ 727 thước, cách biên giới Lào-Việt cũng như cách Quốc lộ 9 khoảng hơn 8 cây số đường chim bay. Nơi này được đặt tên là: “CĂN CỨ HỎA LỰC 30”.

Trong lúc vạch cỏ lau quan sát địa thế, về mé Nam, có một cái hầm ai đã đào sẵn, vết đất từ hầm vứt lên trên có vẻ mới khoảng không quá 1 tháng trở lại. Hầm vuông, mỗi bề 5 tấc, sâu vừa đứng đến ngực. Tôi thầm nghĩ có lẽ là Tổ báo động phi cơ của Cộng quân đặt tại đây.

Loay hoay trên đồi, tôi, Trung Úy Trí và Trung Úy Thạch phân chia vị trí. Trí chiếm từ đỉnh đồi thẳng xuống triền phía Tây. Pháo Đội chúng tôi từ đỉnh đồi dọc xuống hướng Đông. Giữa vị trí của tôi và Trí, theo mé triền hướng Nam, Trung Tá Thạch chọn đặt BCH/TĐ2 Dù.

10g30, Sky-Crane lần lượt câu súng lên. Tôi đốc thúc và cố gắng hết mình, mong đốt giai đoạn thực hiện khẩn cấp việc gióng hướng cho khẩu đại bác 155 ly đầu tiên đặt xuống đồi. Nhưng vô hiệu! Lần đầu tiên trong đời binh nghiệp, đây quả là một lần cho tôi kinh nghiệm.

Thật vậy, trước lúc di chuyển, tôi ra lệnh nhân viên đài Tác xạ phải thiết lập trước xạ bản, cụ bị đầy đủ vật dụng dùng trong việc thuyết trình, đến nơi đặt giác bàn gióng hướng ngay… Nghĩa là tôi cẩn thận xếp đặt công việc không để xảy ra một sơ sót mảy may nào cho công tác chiếm đóng vị trí mới, hầu có thể tác xạ khẩn cấp – ấy vậy mà rồi ra, công sắp đặt trước hóa thành công cóc! Máy bay Skycrane với sức quạt quá mạnh của chong chóng, hết chiếc này đổ vật dụng đến chiếc khác đổ đại bác… kèm theo, các trực thăng tải quân hạ cánh liên tục chuyển đến đồi toàn bộ Tiểu Đoàn 2 Dù (xem hình phần cuối sách)… Đất, sỏi tung lên mù mịt. Một vài đám lau cháy dở do pháo binh, phi cơ oanh kích dọn bãi đáp, nay được Skycrane quạt cho, thôi thì tha hồ bốc thành ngọn lửa cháy lan cả đồi. Phần lo tiếp nhận súng, phần lo chữa lửa, chẳng còn ai rảnh tay để thu xếp vật dụng. Nhờ quân nhân trong Pháo Đội trực thăng vận tiếp theo sau tới khoảng 30 phút, nhào đến kịp thời dập tắt lửa. Nếu không, không biết làm sao chu toàn công việc.

Cho dù lúc bấy giờ không có lửa cháy lan, chúng tôi cũng không thể thực hiện việc gióng hướng súng trước sức mạnh của gió do Sky-Crane tạo ra. Đất núi tại chỗ đáp mà còn bị gió cào, bốc lên, thì làm sao ngồi ở càng súng để nhìn vào máy gióng hướng! Tôi lo ngại! Riêng Trung Úy Lân vẫn bình tĩnh góp ý rằng: Hãy đợi đến lúc tiếp nhận đủ súng rồi gióng hướng luôn một lần.

Mãi đến 13g00, 6 đại bác 155 ly của tôi mới “an tọa” tại vị trí quá hẹp, tôi phải sắp xếp vất vả lắm mới có chỗ mở càng.

Tôi hết sức bực mình ngay từ phút đầu. Vì trên nguyên tắc, toán tiền thám của tôi có nhiệm vụ chọn vị trí thuận lợi cho việc thiết lập vị trí Pháo Binh. Nhưng chúng tôi lại được thả ngay trên một ngọn đồi do Thượng Cấp định sẵn – dù muốn, dù không tôi cũng không thể xin đổi dời chỗ khác được. Phương chi, lúc thả toán tiền thám của tôi, lại thả luôn BCH/TĐ2 Dù… Chỉ một việc lo cắt đặt các Đại Đội này, đã làm cho Trung Tá Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 2 Dù không còn thì giờ hội ý kỹ với chúng tôi về vị trí đại bác nữa.

Trung Úy Trí thích cao địa, nhất là mặt phía Tây dốc rất đứng, địch khó đột kích. Tôi an phận của kẻ tăng phái vậy.

Hướng bán chính thức của Pháo Đội, sẽ theo sự phối trí hỏa lực pháo của Tiểu Đoàn 3 Pháo Binh Dù và PĐC/3 Dù khi có lời yêu cầu. Song trên thực tế, Trung Úy Trí bàn với tôi, dành cho tôi tác xạ hướng Tây và Nam, còn Trí tác xạ hướng Tây và Bắc. (Hướng Bắc là hướng hai căn cứ Ranger North và Ranger South của Biệt Động Quân, hướng Tây về Tchépone và Nam là hướng A-Lưới).

6 khẩu đại bác 155 ly của tôi đặt thành hình cung nửa vòng tròn từ Nam lên Bắc theo thứ tự khẩu 5 do TS Ngân Khẩu Trưởng, Khẩu 6 TS Đợi, Khẩu 1 TS Nhơn, Khẩu 3 TS Hóa, Khẩu 2 TS Thìn và Khẩu 4 HSI Cũ.

Riêng Khẩu 6 và Khẩu 1 hai móng càng chỉ cách nhau 50 phân! Tóm lại, vị trí pháo tại căn cứ hỏa lực 30 thật là bất lợi vì quá chật hẹp. Hầm ngủ của nhân viên khẩu và các hầm đạn khẩu không thể nào làm xa nhau được.

Về phần cán bộ, tôi cắt đặt nhiệm vụ rõ ràng cho từng người:

– Trung Úy Lân phụ tá tôi và kiểm soát tác xạ.

– Thiếu Úy Ngân đặc trách đài tác xạ, theo dõi và làm yếu tố tác xạ cho từng mục tiêu, ghi chú điểm đứng Tiền sát viên từng phút một.

– Thiếu Úy Thiện phụ trách về đại bác, Sĩ quan an ninh tác xạ kiêm đạn dược.

– Thiếu Úy Toại đặc trách thu dọn tiếp liệu phẩm của các loại 1 đến 4.

– TSI Bình nuôi ăn và chu toàn nhiệm vụ của một Thường Vụ Pháo Đội.

(*) Trần Vũ đánh máy lại tháng 10-2018 từ bản in của Nxb Đại Nam 1980.  

(**) Lexique: Tiểu Đoàn (TĐ), Bộ Chỉ Huy (BCH), Pháo Binh (PB), Pháo đội C (PĐC), Trung Sĩ Nhất (TSI), Trung Sĩ (TS), Hạ Sĩ Nhất (HSI), Hạ Sĩ (HS).

(***) Ảnh minh họa sưu tập từ Beaufort County Now, Dòng Sông Cũ, Hoàng Sa, Pinterest, Cherrieswriter, vuhmai.blogspot, Getty Images, Militaria, Nam magazine và vnaf.

(Còn tiếp)

TÁC-XẠ THIẾT-LẬP CĂN-CỨ HOẢ-LỰC 31 VÀ A-LƯỚI

 

Trong lúc vừa làm vị trí, Pháo-đội lại phải thi hành tác xạ ngay. Ngoài việc yểm trợ cho Tiểu-đoàn 2 Dù đưa hai Đại-đội tiến chiếm ngọn đồi hướng Đông-Nam cách Căn-Cứ Hỏa-Lực 30 khoảng 1.500 thước, chúng tôi còn tác xạ 100 quả đạn nổ vào tọa độ XD 526-470 để dọn sạch cho BCH/Lữ-đoàn 3 Dù đến thiết lập Căn-Cứ Hỏa-Lực 31.

… Bấy giờ vào khoảng 19 giờ, Đại-đội 321 trên đường tiến lên đường hướng Đông-Nam, gặp ngay một toán nhỏ Việt Cộng án ngữ. Bọn chúng đánh rời rạc rồi bỏ chạy. Trời tối dần, vị Đại-đội Trưởng của Đại-đội nầy gọi máy về xin BCH/TĐ2 Dù cho tạm dừng nghỉ mệt để sáng hôm sau sẽ tiến lên đồi. Nhưng Trung-tá Thạch hạ lệnh phải chiếm cho bằng được đỉnh đồi ngay trong đêm ấy. Thế là cả Đại-đội hì hà hì hục tiến lên.

Bị đột kích bất ngờ, Cộng quân trên đồi bỏ chạy. Đại-đội 321 lượm được một ít vũ khí không đáng kể. Nhưng khi lục soát hết ngọn đồi, mới cảm thấy ê người! Ngay giữa cây cao cành lá rậm rạp, Cộng quân đang thiết lập một đài quan sát vững chắc, chằng bằng những giây cáp sắt to như ngón tay cái! Địa thế ở đây rất thuận lợi cho việc quan sát cả một vùng rộng lớn, nhất là đỉnh đồi cao hơn Căn-Cứ Hỏa-Lực 30. Với viễn vọng kính tốt, chúng có thể đếm được từng người tại Căn-Cứ Hỏa-Lực 30, quan sát được cả Căn-Cứ Hỏa Lực 31 và A-Lưới!

Sự-kiện nầy đã làm cho tôi thán phục Trung-tá Thạch về việc ước lượng địch tình nhanh chóng, giàu kinh nghiệm, thể hiện bằng quyết định khẩn cấp tối hậu khi ra lệnh cho Đại-đội thi hành lúc sẩm tối…

Suốt ngày 9-2-1971, 6 khẩu đại bác đều thi hành tác xạ. Các Tiền-sát-viên gọi máy xin bắn ơi ới! Nhất là Tiền-sát-viên 331, 332 của Tiểu-đoàn 3 Dù. Đôi khi mục tiêu chỉ cách vị trí chúng tôi không quá 5,6 cây số, nhưng các Tiền-sát-viên cứ đòi cho bằng được chúng tôi bắn. Tôi phải đích thân vào máy liên lạc và giải thích :

– Tôi không tiếc đạn, cũng không tiếc công, nhưng với những mục tiêu ấy có tầm bắn gần, các bạn hãy xin PĐC/3 Dù 105 ly bắn. Vì Iẽ đạn của chúng tôi khá nặng, mỗi quả có đến 45 ký. Nay phải bắn quá nhiều những mục tiêu gần như thế, thì mai đây, khi các bạn đi xa hơn, các pháo thủ thấm mệt làm sao thỏa mãn hoàn toàn cho các bạn được, Tôi yêu cầu các bạn nghĩ cho điều đó mà sử dụng khả năng 105 ly.

Mặc dù tôi giải thích trên máy PRC-25 – hẳn nhiều nơi sẽ nghe – nhưng các sĩ quan Tiền-sát vẫn khư khư đòi hỏi :

– Chúng tôi biết các anh vất vả, nhưng tiếng nổ 155 ly cùng sức tàn phá của nó mới làm cho Việt Cộng khiếp sợ. Các anh bắn chính xác 100%, bọn tôi đỡ điều chỉnh. Các anh hãy giúp chúng tôi đi…

Thật là vinh dự cho Pháo-đội tôi! Tin rằng những lời đối đáp giữa chúng tôi qua máy vô tuyến chắc là không đấu được ai !

Khoảng 10g hơn, một toán nhỏ thuộc Tiểu-đoàn 2 Dù lục soát ven căn-cứ, tịch thu được một ba-lô tài liệu, báo hiệu cho chúng tôi biết rằng địch đang theo dõi sát chúng tôi, dầu chúng tôi mới đến chưa quá 30 tiếng đồng hồ ! Hoặc cũng có thể chúng tôi đã đóng vị trí ngay vùng địch đang tập trung.

Tôi ra lệnh cho binh sĩ phải cố gắng làm hầm vững chắc khi rỗi rảnh và bắt buộc phải mặc áo giáp, đội nón sắt suốt cả ngày.

Đến 17g00 Tiền-sát-viên 331 báo về, kết quả yểm trợ của chúng tôi lúc 16g45, anh em đã tiến vào mục tiêu ở Tây-Bắc Căn-Cứ 31 lục soát và thu được :

– 12 súng cối 82 ly.

– 3 mặt nạ chống hơi độc.

– 2 bản đồ.

– 5 tên chết tại chỗ.

Cả hai ngày qua, nước chưa được tiếp tế, số nước dự trữ ở mấy ống nạp buộc theo càng súng, giờ đây đã cạn ráo ! Một số binh sĩ xuống đồi tìm nước, nhưng nước quá hiếm, vài vũng nhỏ cạn như lòng nón sắt phủ đầy lá mục, múc hết ca nước phải ngồi chờ cho nước rỉ ra. Mùi nước hôi hám khó chịu, lại đục ngầu! Chỉ trông qua đủ ngán! Suối thì quá xa, nếu muốn đến ít ra phải tốn một buổi.

Tôi khẩn cấp đánh điện về BCH/TĐ xia ưu tiên tiếp tế nước. Riêng lương khô 4 ngày mọi người đã nhận rồi, kèm theo đấy lúc ra đi, chúng tôi có mang theo 6 ngày lương thực phẩm tươi. Do đó việc ăn được điều hòa không có gì trở ngại. Duy có vấn đề nước uống – phải nói là một « vấn-đề» đã làm cho tôi lo lắng nhất.

Với quân số 75 người kể cả tôi, mỗi ngày tiêu thụ tối thiểu một móc hậu nước.! Chưa hết; còn phải tu bổ đại bác hằng buổi sáng và sau mỗi lần tác xạ, đòi hỏi một lượng nước không phải là ít, làm tôi điên cả đầu.

Tối lại, tôi đi quanh ven rào xem cách bố phòng của Binh-sĩ Tiểu-đoàn 2 Dù. Một lần nữa, tôi thầm thán phục cách tổ chức chiến đấu vô cùng chu đáo của binh chủng nầy. Hầu hết các hầm cá nhân các công sự đều có mái che, dùng cây rừng có đường kính từ 20 phân tây hoặc lớn hơn làm đòn tay, bên trên phủ vài lớp bao đất và đổ đất dày hơn 50 phân.

Hỏi ra tôi mới biết, Tiểu-đoàn 2 Dù cũng như bất cứ Tiểu-đoàn Dù nào, họ đều có mang theo máy cưa, ít ra là 2 cái. Riêng cá nhân có nhiều người đem theo lưỡi cưa, đến nơi họ dùng cây căng ra, biến chế thành một cái cưa thật tốt để sử dụng hạ cây.

Bên ngoài công sự, hàng rào kẽm gai và concertina được trải dày. Mìn claymore tự động đặt xa bên ngoài concertina và sát nhau. Mìn claymore điều khiển đặt cách các công sự không quá 20 thước, ngụy trang rất khéo.

Với cách bố phòng như thế, tôi chắc mẩm Việt Cộng có là mình đồng da sắt tưởng cũng không thể nào đột kích được.

…. Theo lời yêu cầu của Sĩ-quan Liên-lạc Lữ-đoàn 3 Dù với danh hiệu 330, chúng tôi chia thời gian bắn quấy rối suốt đêm, tạo một vòng đai an ninh, an toàn cho hai Đại-đội 331 và 332 hoạt động bên ngoài Căn-Cứ Hỏa-Lực 31.

6g00 sáng ngày 10-2-71, tôi thức dậy xét lại việc làm của Đài Tác-xạ. Một vài điều bất như ý đến với tôi trong cơn nóng giận tôi đã đánh TS C.. một tát tai, TS mà tôi thương yêu nhất Pháo-đội, đã có lần tôi phê điểm : «… Hạ Sĩ-quan có khả năng ngoại hạng rất tốt…». Với tôi, dầu có giỏi mấy đi nữa, nhưng thiếu thiện chí làm việc trong lúc cần thiết cấp bách, hoặc làm chưa xong việc đã nghỉ, để dành giờ sau mới làm tiếp thì tôi không bao giờ tha thứ. Mọi nỗ lực của Pháo-đội lúc bấy giờ, tôi thường nhắc đi nhắc lại là chỉ dành cho tác xạ và tu bổ công sự chiến đấu cũng như hầm ngủ Khẩu-đội, nhân viên. Tôi chỉ đòi hỏi ở quân nhân thuộc quyền tôi có từng ấy điều, nếu ai vô tình hoặc hữu ý không thi hành đứng đắn, tôi trừng phạt tức khắc.

Với tôi, đời sống tinh thần binh sĩ cũng như vật chất, tôi lo liệu từng ly từng tí. Tôi đã hai lần thề trước Pháo-đội – 1 lần tại Đồi 37 Đại-Lộc, 1 lần nữa tại vị trí chiếm đóng tạm thời gần Cam-Lộ – rằng : «Nếu tôi có tham nhũng của lính một tơ hào, 1 hột gạo, tôi sẽ bị chết vì quả đạn Pháo-kích đầu tiên của địch bắn vào vị trí». Bởi vậy, tôi cương quyết không tha thứ cho bất cứ nhân viên nào trong Pháo-đội làm việc lơ là tắc trách. Nhất là đối với vấn đề gia đình binh sĩ, tôi đã luôn luôn đặt tâm lưu ý giúp đỡ, lúc thì tiền bạc, lúc thì phép tắc, lúc thì bàn ghế… đó là chưa kể đến tổ chức tại Pháo-đội mà chén bát, đũa dĩa, ly tách của tôi và Sĩ-quan dùng thế nào thì binh sĩ dùng thế ấy..

Tôi tự tin, rất tự tin vào việc làm trong sạch của tôi để đổi lấy một hiệu năng đáng kể của binh sĩ trong công tác đo Pháo-đội giao phó. Đôi lúc tôi tự hãnh diện về việc làm của tôi, cho dù một số Sĩ-quan Tiểu-đoàn chế giễu tôi là «quân tử Tàu »…

Chỉ nội cái việc nóng tính của tôi sáng nay mà sau đó tôi lại hối hận cả buổi, tính tôi lại lắm mâu thuẫn đến thế !

Để tránh bực bội, tôi bước ra khỏi Đài Tác-Xạ đi quanh các Khẩu, nhắc nhủ anh em tu bổ và thực hiện gấp nắp các hầm đạn, hầm nạp ven bìa súng.

Nhìn về phía BCH/TĐ2 Dù, chiếc xe ủi đất đã đào xong các hầm chỉ huy, thuyết-trình, bệnh-xá… Tôi đến gặp Trung-tá Thạch xin sử dụng xe ủi đất làm ụ súng đào vài cái hầm đựng nạp và đạn cho Pháo-đội. Trung-tá Thạch thuận cho mượn, nhưng phải chờ sau khi công binh làm xong hầm cho Pháo-đội C/3 D. Tôi ra về với ý nghĩ «con nuôi» đành chịu vậy.

14g30, hơn 10 chiếc Chinook tiếp tế đến cho Pháo-đội 1.000 quả đạn 155 ly, một móc hậu nước. Cùng lúc một mặt nhân viên phải tác xạ yểm trợ, một mặt lo tiếp đạn và nước, vất vả không thể tưởng được.

Tại Hậu-cứ Khe Sanh, Thiếu-tá Tiểu-đoàn Trưởng vào máy bắt tôi phải thu xếp với bất cứ giá nào để tất cả lưới và móc hậu nước cùng 6 dây câu súng gởi trả lại Khe-Sanh trong chuyến tiếp tế cuối cùng trước 17 giờ. Nếu không, Trung-tá Phi (ở Bộ Tư Lệnh Sư-đoàn Dù) sẽ đề nghị cho tôi ở lại Lào 6 tháng chiến đấu, không phép tắc gì ráo ! Tôi bực mình hết sức ! Tôi nghĩ thầm : Hóa ra ở BCH/Hành-quân chẳng có ai hiểu nỗi khó khăn, vất vả của kẻ đang chiến đấu ngoài tiền tuyến. Đối với Pháo-đội 105 ly Dù, nếu họ có tiếp nhận 20 kiện hàng, chỉ trong vòng 1, 2 tiếng đồng hồ sau, họ có thể dọn sạch bãi đáp. Chứ với Pháo-đội 155 ly của tôi, mỗi quả đạn nặng không dưới 43 ký, lại được kết 8 quả trên cùng 1 palette, niềng bằng thép! Không có xe Wrecker bốc hàng, thì làm sao có thể giở hết với một thời gian ngắn thế được !

Tôi ngao ngán nhìn đống đạn, nạp, lắc đầu ! Thiếu-úy Thiện, Toại cùng TSI Lục được đặt trách về vấn đề này hì hục đốc thúc anh em công tác.

Lại thêm một khó khăn nữa là đạn, nạp, đầu nổ, hỏa tiễn chẳng bao giờ được tương ứng. Phải mất một thời gian kiểm kê mới có được con số chính xác để báo cáo. Ấy vậy mà đạn chưa kịp Chinook thả xuống bãi đáp đã lại nghe BCH/TĐ3PB Dù đóng tại Căn-Cứ Hỏa-Lực 3I và BCH/TĐ tôi gọi đi tôi báo cáo số lượng tiếp nhận ngay..

Nhờ nỗ lực tối đa, từ 14g30 đến 17g00, nhân viên Pháo-đội lặn ngụp trong bụi mù do Chinook khuấy lên, chúng tôi hoàn tất thu góp từng đống lưới, buộc chặt lại để nhờ chuyến Chinook cuối cùng câu về. Nhưng phi-công trên chiếc Chinook thích thì làm, không thích thì thôi. Họ chỉ câu móc hậu nước còn lưới đạn lại lơ đi ! Dù lúc bấy giờ Thiếu-úy Thiện dang tay ra thủ hiệu cho chúng móc lên, song không được chúng đáp lại; vù vù bay về hướng Đông-Nam!

Trở lại BCH/TĐ2 Dù than phiền với Trung-tá Thạch, Trung-tá cũng tỏ ý bất bình vì hậu cứ không có «Quan-sát-viên» tại chỗ để thông cảm nỗi khó khăn của chúng tôi !

… Nghe chúng tôi vừa nhận thêm đạn, thôi thì các Tiền-sát-viên xin tác-xạ ! Đã mệt vì công việc vừa làm, bây giờ lại phải bắn, chẳng rảnh được tí nào. Tôi khích lệ anh em bằng những lời giải thích chân thành và phân phối thêm trái cây, lương khô cho anh em ăn khuya. Thật tình tất cả chúng tôi, mọi người như một đều chấp nhận những nỗi gian khổ đó; tích cực, tác xạ trong niềm vui hãnh diện vì những lời khen ngợi của Tiền-sát-viên về hiệu quả chính xác của đại bác, đạn Pháo-Binh.

Rạng ngày 11-02-1971, từ 6 giờ chúng tôi đã nhận được điện văn của Sĩ-quan liên lạc 330 gởi về, trong đó yêu cầu chúng tôi sẵn sàng yếu tố tác xạ T.O.T [1] vào Tọa-độ XD 510-500 khi có lệnh.

Thiếu-úy Ngân đặc trách yếu tố, khẩn cấp bắt tay vào việc cùng TS Toại, Lương, Chắt, HSI Bách, Vinh. Sở đĩ tôi chỉ thị Thiếu-úy Ngân chuyên trách về các tập trung đã bắn, hoặc hàng trăm điểm tiên liệu thay đổi hàng buổi rất khó khăn dễ nhầm lẫn.

Đúng 8g30, Pháo-đội bắt đầu khai hỏa. Hàng loạt đạn bay vào mục tiêu, tiếng nổ rền cả một vùng, bụi đất tung lên quyện theo các cột khói cao, lan rộng ra dần… Từ vị trí Pháo-đội có thể nhìn thấy bằng mắt trần, vì khoảng cách không quá 9 cây số.

Sau khi bắn hết 50 quả đạn nổ, chúng tôi được lệnh ngưng tác xạ. Tức khắc 2 Đại-đội Dù cùng với Tiền-sát-viên 331-332 nhào vào mục tiêu lục soát, và thu được một số quân dụng đáng kể :

– 1 B.40

– 1 dàn hỏa tiễn 122 ly

– 14 súng cối 82 ly

– 6 xe molotova đầy nhóc tiếp-liệu-phẩm.

– 30 bao gạo.

10g30 chúng tôi quay 2 khẩu về hướng Đông-Nam, yểm trợ cho Đại-đỗi 321 của Tiểu-đoàn 2 Dù nhích dần… nhích dần… sâu về hướng Nam lục soát. Kết quả, thu được 2 súng phòng không của Cộng quân tại đây.

Chiều lại, chúng tôi tiếp tục nhận thêm 600 đạn, nạp và móc hậu nước. Số lưới, dây câu súng gởi trả về Khe-Sanh ngay khi tiếp nhận móc hậu nước đầu tiên. Thật nhẹ cả người ! Dầu vậy, cả 10 lưới đạn còn tại bãi đáp đã đặt chúng tôi trước một «vấn-đề» mới !

May là hôm nay BCH/TĐ2 Dù chọn làm bãi đáp trực thăng về hướng Đông, cách vị trí Pháo-đội tôi khoảng 30-100 thước, chúng tôi tránh được nạn gió lốc do chong chóng của Chinook tạo ra.

Bãi đáp có chiều rộng 50 thước đó thật lý tưởng, chúng tôi không còn bị uy hiếp bởi bụi mù, đất, sỏi tràn ngập khắp vị trí nữa.

Sau bữa cơm tối, tôi đích thân thảo một công điện «lịch sử». Tôi dùng chữ «lịch sử » với sự đồng ý của các Sĩ-quan hiện diện tại hầm gởi về BCH/TĐ với nội dung :

Trân trọng kính trình quý BCH

THỨ I:

Việc yểm trợ cho các đơn-vị bạn thu đạt nhiều kết quả tốt. Có nhiều uy-tín với các đơn vị Dù. Sự chính xác đạt được 100%. Tiền-sát-viên Dù không cần điều chỉnh tác xạ.

THỨ II :

Vì kết quả đó nhiều mục tiêu không quá 5 cây số đối với Pháo-đội Tiền-sát-viên Dù không chịu xin 185 ly tác xạ mà đòi Pháo-đội tác xạ cho bằng được. Pháo-đội rất vất vả.

THỨ III :

Pháo-đội thành thật cám ơn Thiếu-tá Tiểu-đoàn Trưởng và các Sĩ-quan Tham Mưu đã lo cung cấp đầy đủ nhu cầu thiết yếu.

THỨ IV:

Khẩn xin BCH đặc biệt lưu ý cung cấp thường xuyên mỗi ngày một móc hậu nước như đã thực hiện trong mấy ngày qua.

Hết

Theo nội dung công điện nầy, anh em sĩ quan chúng tôi ngồi đấu láo mỗi người một ý :

Lân :

– Chắc Thiếu-tá và các Sĩ-quan Tham Mưu không khỏi cười lời văn trong công điện !

Thiện :

– Đúng là công điện «lịch-sử», tự «ca» mình rồi cuối cùng chỉ xin có mỗi một đặc ân «nước uống». Khôi hài là ở chỗ đó.

Ngân :

– Đại-bàng có làm thế ở nhà mới biết mình cần nước như thế nào !

Toại cười mỉm chi, ít nói nên cũng không buồn phát biểu ý kiến.

Ngày 12-2-71 nhân xe ủi đắt «thất nghiệp» tôi xin làm công tác cho Pháo-đội. Sự thật, với một vị trí Pháo-binh, ngay từ lúc chưa đặt súng, nếu đã không dùng xe ủi đất làm ụ súng thì sau khi đặt súng, việc làm ụ súng bị cấn cái, khó khăn, nhất là vị trí quá hẹp như vị trí Căn-Cứ Hỏa-Lực 30 nầy. Lại nữa, thời gian 4 ngày qua vì sinh mạng của Pháo-thú, tôi không thể chờ xe ủi đất để thực hiện các hầm ngủ cho anh cm. Do đó, dầu cho bận rộn, mệt nhọc mà pháo thủ phải quần quật làm việc suốt ngày đêm, tôi đã bắt thực hiện bằng tay hầu hết các hầm ngủ, hầm đạn, hầm nạp, hầm chỉ huy, Đài Tác-xạ, truyền tin…

Bây giờ có xe ủi đất, tôi chỉ sử dụng ủi quanh những chỗ nào có thể ủi được để được bảo vệ súng. Khẩu 6 và Khẩu 1 chung một ụ ! Trường hợp hi hữu có một không hai trong «nghề Pháo Thủ » mà chính tôi chứng kiến, thực hiện ! Sau đấy, tôi đào thêm được 4 hầm chứa nạp và đạn ven bãi đáp trực thăng. Nhờ đó mà sau nầy Pháo-đội tránh được tai nạn khủng khiếp, cơ hồ có thể hủy diệt trọn vẹn Pháo-đội tôi.

Thật ra, Cộng quân chưa hề pháo kích vào Căn-Cứ 30 – kể đến phút này – nhưng tiên liệu đến những nguy hiểm có thể xảy ra đối với một vị trí quá chật hẹp nên tôi quyết định cho đào hầm đạn và nạp đạn xa như thế. Hẳn nhiên, trong tương lai, pháo thủ phải vác đạn dài đường, vất vả, nhưng tôi không thể nào có một quyết định khác. Nhờ có 4 hầm này, chúng tôi có thể tồn trữ tại mỗi hầm ít nhất 600 quả đạn hoặc 800 ống nạp.

Hoàn tất công tác, Trung-tá Thạch tỏ ý hài lòng lắm. Ông gọi tôi qua cho bao cát, PSP để tu bổ thêm các hầm ngủ.

Khoảng 10g00 Trung-tướng Dư-quốc-Đống Tư Lệnh Dù đến viếng thăm Tiểu-đoàn 2 Dù. Tướng Đống không vào hầm chỉ huy, ngồi xổm ở bãi đáp trực thăng, trải bản đồ trên đất, nghe Trung-tá Thạch trình bày diễn tiến về chiến đấu của các Đại-đội tiền đồn.

Tình cờ tôi phải đi ngang chỗ ngồi của Trung-tướng. Tôi đứng nghiêm chào. Trung-tướng nhìn tôi :

– Anh làm gì ở đây ?

Có lẽ tôi mặc bộ quân phục Thủy-quân-lục-chiến! Tôi trả lời :

– Thưa Trung-tướng, tôi làm Pháo-đội Trưởng Pháo-đội C thuộc Tiểu-đoàn 44 Pháo-binh.

Nhân tiện, tôi chụp được một «pose» khi Trung-tướng nhìn vào ống kính. Xong, tôi đến đứng cạnh Trung-tá Thạch nhìn xuống tấm bản đồ có nhiều sắc xanh đỏ ghi chú bằng bút chì mỡ do Sĩ-quan Ban 3 Tiểu-đoàn 2 Dù thực hiện.

Trung-tá Thạch tường trình diễn tiến các hoạt động thường nhận một cách tỉ mỉ. Bỗng tôi thấy Trung-tướng hơi cau mặt hỏi :

– Việt-Cộng đâu mà nhiều thế ? Tại sao anh không cho con cái lục soát rộng ra ? Cứ dậm chân một chỗ thì còn làm ăn gì được ?.. đã 4 hôm rồi mà !..

– Trình Trung-tướng, chiều hôm qua tôi có cho một thằng con nhích xuống phía Nam (Vừa nói, Trung-tá vừa đưa tay trỏ về hướng tiền đồn)… nhưng mới xuống lưng chừng triền núi; bị chúng án ngữ thụt B40 và 57 ngay. Còn phía Tây tiền đồn Bộ Chỉ-huy Trung-đoàn nó đóng. Nếu dốc hết con cái xuống đồi, tôi e bọn chúng bọc lên chiếm tiền đồn, mình khó đường lui. Vả lại tiền đồn bên kia cao, có lợi thế… Chính chúng tôi đã khám phá ở đó một đài quan sát kiên cố, hôm đặt chân xuống căn-cứ nầy…

Những điều trình bày của Trung-tá Thạch tuy đúng sự thật, song xem ý Trung-tướng vẫn không bằng lòng. Tôi thưa tiếp :

– Trình Trung-tướng, không biết lực lượng chúng bao nhiêu, nhưng lúc tôi cho trực xạ qua bên triền núi kia thì thấy xác Việt Cộng tung lên, đứng phía BCH/TĐ quan sát rõ lắm…

Lời giải thích của tôi, không biết có đáp ứng sự cần thiết để biết rõ địch tình quanh Căn-Cứ Hỏa-Lực 30 cho Trung-tướng hay không, nhưng sau đó, Trung-tướng không đề cập đến nữa.

Trước khi ra về, Trung-tướng bắt tay tôi và khích lệ :

– Ông Pháo-binh cố gắng mà bắn nghe! Kết quả tốt lắm đó…

Chiều, chúng tôi lại tiếp nhận cả 1000 quả đạn nữa. Thấy đạn thả xuống bãi đáp mà hết muốn ăn uống gì cả, vì quá mệt trong các cuộc tác xạ liên tục. Đạn nhận nhiều bao nhiêu, bắt buộc chúng tôi phải tác xạ nhiều bấy nhiêu. Trong lúc đó, nước tiếp tế cho chúng tôi lại có hạn : mỗi ngày một móc hậu !

Việc phân phối nước cũng khó khăn không kém. Hễ mỗi lần móc hậu nước được thả xuống bãi đáp, lập tức Thiếu-úy Thiện hoặc Thiếu-úy Toại phải túc trực tại chỗ với «lon lá» đầy đủ để giữ nó. Nếu chậm chạp, anh em Dù sẽ đến xin ngay ! Mặc dù Tiểu-đoàn 2 Dù PĐC/3 đã cũng được tiếp tế nước bằng móc hậu nước như Pháo-đội tôi. Nhưng việc tiếp tế không đều đặn, bữa có bữa không. Riêng Pháo-đội tôi nhờ có sự tận tâm giúp đỡ trực tiếp của Thiếu-tá Tiểu-đoàn Trưởng, Đại-úy Thông Trưởng-Ban 3, Đại-úy Phạm-ngọc-Diệm và toàn thể Sĩ-quan Tham Mưu đóng ở Khe-Sanh lo cho hàng ngày, nên có chuyến tiếp tế là Pháo-đội tôi có nước.

Trong lúc khan hiếm nước như thế, BCH/TĐ 2 Dù còn phải lo cho 2 Đại-đội đóng tiền đồn hướng Đông Nam! Mỗi ngày, tôi phải cung cấp 40 ống nạp không, để Trung-tá Thạch chứa nước tiếp tế. Do đó, số lượng nước của Tiểu-đoàn 2 Dù không còn đủ dùng cho BCH, đa số binh sĩ phải tự túc đi tìm nước, tìm rất xa và nước rất bẩn, độc, phải nhờ vào thuốc lọc mới dám dùng.

Đúng là chiều nay, khi móc hậu nước được kéo ra từ bãi đáp vào vị trí, tôi mặc áo giáp, đội nón sắt ra «giữ» nước ! Tuyệt đối không cho bất cứ một ai xin, dù là pháo thủ của tôi. Tôi ra lệnh tất cả các Khẩu-đội, nhân viên Truyền-tin, Tác-xạ, linh tinh… vác đến bên tôi mỗi toán 5 ống nạp. Lần lượt tôi phân phối với lời «rao» :

– Mỗi Toán xử dụng 5 ống nước trong 1 ngày. Riêng mỗi Khẩu thì 3 ống dùng để thông nòng đại bác, lau buồng đạn. Còn 2 ống để nấu nước uống và nấu nước đổ vào gạo sấy làm cơm. Khẩu nào, toán nào dùng nước để tắm rửa, giặt gỵa, tôi sẽ phạt nặng và cúp phần nước vào ngày mai…

Tôi chua xót nhìn pháo thủ tôi với đôi mắt sáng rực lên vì thấy nước ! Sự thèm thuồng hiện rõ trên nét mặt ! Nhưng làm sao bây giờ ? Tôi không thể cấp phát cho mỗi người một ống nước !

Loay hoay phân phối nước, một binh sĩ của Tiểu Đoàn 2 Dù khệ nệ vác một ống nạp đến, nhẹ nhàng đẩy vào vòi nước. Tôi khoá vòi lại và hỏi :

– Sao bên anh có tiếp tế mà anh lại không xin ?

– Xin không được, nước còn để dành tiếp tế tiền đồn.

– Thì xin Pháo-binh Dù?

– Sức mấy họ cho ! … Ở đây mà Đại-úy quý nước hơn người !…

Tôi lại phải giải thích dài dòng : .

– Đấy, các anh thấy, mỗi buổi sáng, mỗi khẩu đại bác phải có 6 người mới thông nòng nổi. Và mỗi lần thông sạch một cái nòng, tốn ít nhất 2, 3 ống nước. Đó là chưa kể sau mỗi lần bắn phải đổ nước lau buồng đạo. Súng bắn có tốt cho các anh hay không, còn do sự tu bổ. Hiện tại thì nước rất cần thiết để tu bổ. Anh phải thông cảm thế…

Cuối cùng, tôi vẫn nhất quyết không cho, mặc dầu anh ta lải nhải trách oán tôi. Tôi nghĩ, nếu cho anh ta được, tất tôi phải cho hết 3 Đại-đội thì còn nước đâu mà tu bổ đại bác. Anh ấy hằn học lắm, song tôi đành cắn răng nhận những lời hờn trách đó. Không phải tôi so sánh, cùng binh chủng với anh ta còn không cho nước thay, huống hồ là tôi! Nhưng sự thật vì tác xạ quá nhiều, bụi đất do tác xạ, do phi cơ tiếp tế đáp xuống bãi đáp hàng ngày đã làm cho các Khẩu-đội tốn rất nhiều nước. Điều đó hiển nhiên xảy ra trước mắt mọi người. Vả lại việc tu bổ súng cũng chỉ có mục đích để giữ gìn súng tốt hầu tác xạ yểm trợ cho chính các đơn vị Dù của anh ấy…

Khoảng xế chiều, Đại-đội 321, 322 chạm địch tại tiền đồn, chúng tôi ra sức bắn yểm trợ tối đa với nạp 3.

Chỉ trong chốc lát chúng tôi được báo kết quả : ·

– Tịch thu :

9 Trung-liên.

2 CKC

7 B.40

33 AK

1 bản-đồ

– 30 Cộng quân chết tại chỗ.

Tối lại, Đại Tác-xạ nhận nhiều điểm bắn quấy rối, các Khẩu chia nhau thay phiên tác xạ, từng đầu giờ một…

[1] T.O.T. viết tắt chữ “TIME ON TARGET” – Tác xạ này được các Pháo-đội, các Trung-đội Pháo-binh tính kỹ về thời đạo, thời cổ (nếu có) để đưa quả đạn đến nổ tại mục tiêu cùng một lúc.

(còn tiếp)