Để biết được đầy đủ hơn về cuộc đời kiệt liệt của một người lính cực lớn, chúng ta phải bắt đầu lại chuyện kể từ thời điểm sớm nhất, ngày TSQ Trương Quang Ân tốt nghiệp thiếu úy khóa 7 Sĩ Quan Hiện Dịch Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt với vị thứ thủ khoa, tháng 12, năm 1952.
Thiếu
úy Trương Quang Ân có đủ tất cả điều kiện thuận lợi để được thuyên
chuyển đến một văn phòng bình yên tránh nơi lửa đạn, hoặc một đơn vị
tham mưu, chuyên môn (mới thật sự đúng với khả năng tham mưu sắc sảo của
ông sẽ được chứng thực ở thời gian sau). Nhưng không, ông đã chọn binh
chủng Nhảy Dù, đơn vị tổng trừ bị cho những chiến trận lớn nổ rộng suốt
miền châu thổ Bắc Việt Nam, nơi những đỉnh núi cao lẫn trong mây vùng
bắc Trường sơn dọc biên giới Lào Việt.
Trận
Bản Hiu Siu cuối năm 1953 bùng nổ trên vùng Cánh Đồng Chum nơi cao
nguyên Trấn Ninh, vị trí xung trí xung yếu của miền Trung Lào, đầu nguồn
sông Nậm Ngung, do tướng Cogny, tư lệnh quân đội Pháp miền bắc Đông
Dương chỉ huy có mục đích bẻ gãy mũi tiến công của cộng sản có ý tiến về
thủ đô Vạn Tượng của Lào (nhưng sau nầy hồ sơ trận liệt giải thích, và
giải thích đúng, đấy là ý niệm điều quân của phía bộ đội cộng sản cố
đánh lạc hướng, hoặc là cách nhử quân đội Pháp chiếm đóng Điện Biên Phủ)
Bộ
phận địa phương giữ Bản Hiu Siu xin quân tăng viện, Tiểu đoàn 3 Nhảy
Dù, đơn vị đầu đời của Thiếu úy Trương Quang Ân nhảy xuống với 2 đại đội
của Tiểu đoàn 7 Dù tăng pháị (Lưu ý, tất cả các tiểu đoàn Dù vào giai
đoạn nầy mang phiên hiệu BEP hoặc BPC – Battaillon Parachustiste
Colonial, thuộc Liên đoàn Không vận số 3 (GAP/3è- Groupe Aeroporté) của
quân đội Liên hiệp Pháp; chỉ mỗi Tiểu đoàn 5 Dù nơi miền Nam mới có danh
hiệu Tiểu đoàn Nhảy Dù Việt Nam (BPVN) Trận đánh không cân sức diễn ra
ngay từ phút đầu tiên vì bộ đội Việt Minh sẵn có ưu thế quân số, chuẩn
bị, chọn lựa và chiếm giữ trận địa. Nhưng dần dần thắng lợi nghiêng về
phía quân Nhảy Dù bởi sức chiến đấu quá đổi kiên cường. Phản công, giữ
vững, kiểm soát được những vị trí xung yếu của vùng Cánh Đồng Chum, đẩy
quân đội cộng sản trở về hướng Bặc Thành. Quả chiến trận không phải là
điều bất ngờ, bởi Tiểu đoàn 3 Dù là một đơn vị ngoại hạng của 17 tiểu
đoàn tổng trừ bị mặt trận phía bắc Việt Nam, như trường hợp một đơn vị
bạn khác, Tiểu đoàn 6 Dù (6è BEP) đã từng chận đứng một sư đoàn cộng sản
(SĐ/320) để những đồn bót thuộc tả ngạn sông Đà có thời gian triệt
thoái trong chiến dịch rút bỏ Na Sản, Nghĩa Lộ (cùng năm 1953) Kết quả
trận đánh đồng thời đã chứng minh cho thành phần lãnh đạo Pháp Việt thấy
rõ một yếu tố mới: những sĩ quan trẻ, những hạ sĩ quan, binh sĩ người
Việt (tình nguyện) trong đơn vị chính là nhân tố kết nên thắng lợi.
Quân
đội chỉ mới khai sinh trong vài năm qua (1951) nay đã dần trở nên là
đạo quân chính qui của một quốc gia đang trong giai đoạn lịch sử quyết
định về bản lãnh và giá trị của mình. Chiến sử dài theo những năm sau đã
chứng thật đánh giá buổi ban đầu nầy: Tiểu đoàn 3 Nhảy Dù Việt Nam là
một trong những đơn vị đầu tiên của quân đội Cộng Hòa được tuyên dương
Bảo quốc huân chương, kỳ hiệu đơn vị mang dây biểu chương Tam hợp vàng
xanh đỏ do công trận chỉ huy bởi những những thiếu úy, trung úy của năm
1953 nầy, những sĩ quan có tên Trương Quang Ân, Phan Trọng Chinh…
Bộ
tư lệnh quân đoàn viễn chinh Pháp với lớp cán bộ nhà nghề cũng đã nhận
ra khả năng lãnh đạo tiềm ẩn nơi viên thiếu úy trẻ tuổi mà họa hằm lắm
mới biểu lộ ra đối với những sĩ quan trẻ tuổi cực kỳ xuất sắc, như những
Thiếu úy de Gaulle, de Lattre của học viện quân sự Saint Cyr, những
người đã từng nắm giữ vận mệnh quốc gia và quân đội Pháp, nên họ mau
chóng đưa Trung úy Ân vào trường tham mưu quân sự tại Pháp vào năm sau,
1954 khi ông vừa được đặc cách vinh thăng trung úy tại mặt trận.
Những
sĩ quan chỉ huy Trường Sĩ Quan Đà Lạt và ở bộ tham mưu Liên đoàn Không
vận số 3 quả thật đã không lầm khi đánh giá như trên. Hơn thế nữa, họ
còn có dự định chọn viên trung úy ngoại hạng nầy vào chức vụ chỉ huy Đại
đội xung kích Lê Dương Sen Đầm cho chiến trường Algérie đang bắt đầu có
dấu hiệu sôi động. Khóa sĩ quan tham mưu tại Pháp cốt để làm đầu cầu
cho dự định nầy. Thêm một lần nữa, ông lại đỗ thủ khoa khóa học, trên
cao hơn toàn thể những học viên có 75 quốc tịch của khối Liên hiệp Pháp,
đa số là người Tây Âu.
Trung
úy Trương Quang Ân đậu hạng thủ khoa mà không hề có tị hiềm từ những
học viên, bởi qua bản tự đánh giá, khóa học đồng ý hầu như toàn thể về
người sĩ quan Việt Nam tài năng xuất sắc nầy.
Sau
thất bại Điện Biên Phủ, tháng 5, 1954, bộ tư lệnh quân đội viễn chinh
Pháp cố gắng tập trung những tiểu đoàn Nhảy Dù còn lại ở miền Bắc đưa
gấp vào Đà Nẵng, Nha Trang, để từ đây có kế hoạch tái trang bị, bổ sung
sang chiến trường Bắc Phi. Tiểu đoàn 3 Nhảy Dù trở nên đơn vị trụ cột
đầu tiên của Liên đoàn Nhảy Dù Việt Nam, thành lập ngày 29 tháng 9,
1954, và Trung úy Trương Quang Ân ở lại với quân đội Việt Nam dưới phiên
hiệu đơn vị mới như một điều tất nhiên, nhưng cũng do lời kêu gọi từ
một Thiếu sinh quân khác, người anh cả của toàn quân, Thiếu tướng Lê văn
Tỵ, vị Tổng tham mưu trưởng đầu tiên của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, mở
đầu kỳ độc lập, tự chủ nơi miền Nam, 29 tháng 11, năm 1954.
Ngày
1 tháng 1, 1955 bắt đầu năm mới với những biến động chính trị nghiêm
trọng xẩy ra tại thủ đô Sài Gòn từ những mầm mống va chạm sẳn có giữa
các lực lượng giáo phái, tổ chức vũ trang với chính phủ Thủ tướng Ngô
Đình Diệm vừa được thành lập ngày 20 tháng 7, 1954. Chính phủ mới mang
đủ tất cả gánh nặng của quá khứ gần 100 năm lệ thuộc người Pháp, tình
thế quân sự suy sụp hỗn loạn sau thất trận Điện Biên Phủ của quân đội
Pháp và công cuộc định cư hơn triệu người di cư từ miền Bắc vào Nam. Các
lực lượng chống đối kết hợp thành Mặt trận thống nhất toàn lực quốc gia
yêu cầu Thủ tướng Ngô Đình Diệm giải tán nội các, cải tổ chính phủ và
chấp thuận để họ duy trì tình trạng cát cứ của những tổ chức quân sự tại
những địa phương riêng biệt. Chính phủ Sài Gòn giữ nguyên lập trường:
thống nhất quân đội trước khi bàn đến những cải tổ chính trị.
Thành
phần mặt trận gồm 3 khuynh hướng: Phe ôn hòa muốn trở về hợp tác với
chính phủ; phe trung lập không có ý kiến và thành phần quá khích nhất
quyết tổ chức nổi loạn quân sự. Lực lượng Bình Xuyên dưới quyền chỉ huy
của Thiếu tướng Lê văn Viễn (quân hàm do chính phủ Pháp trao gắn theo
nguyên tắc đồng hóa) thuộc nhóm thứ ba.
Ngày
1 tháng 1, 1955 Thủ tướng Ngô Đình Diệm đóng cửa các cơ sở kinh tài
quan trọng của Bình Xuyên, sòng bạc Đại Thế Giới, Kim Chung và nhà chứa
Bình Khang; ngày 26 tháng 4, cách chức tổng giám đốc Cảnh sát và Công an
của Lại văn Sang, một người thân tín đắc lực của Thiếu tướng Viễn. Cuối
cùng việc phải đến, ngày 28 tháng 4, lực lượng Bình Xuyên nổ súng tấn
công quân chính phủ, nhưng Liên đoàn Nhảy Dù với 4 Tiểu đoàn 1, 3, 5, 6
đã hình thành những trụ cột chống đỡ nền móng quốc gia. Chỉ một ngày
sau, quân Nhảy Dù đã làm chủ tình hình toàn bộ đô thành Sài Gòn, Chợ
Lớn. Ngày 30 tháng 4 Nhảy Dù và Bình Xuyên dàn trận đối diện dọc kinh
Đôi bên kia cầu chữ Y. Dù đã được người Pháp ngấm ngầm hỗ trợ nhưng Bình
Xuyên không thể nào là địch thủ của những tiểu đoàn Nhảy Dù thiện chiến
nên mặt trận Sài Gòn mau chóng kết thúc vào ngày 5 tháng 5, tàn binh
Bình Xuyên rút về Rừng Sát, vùng sình lầy dọc theo sông Sài Gòn và Đồng
Nai lập thế chống cự. Tháng 9, lực lượng chính phủ mở cuộc hành quân
Hoàng Diệu truy quét đám phản loạn, cũng với lực lượng Nhảy Dù làm thành
phần xung kích. Ngày 24 tháng 10 kết thúc chiến dịch, nơi khuôn viên
Dinh Dộc Lập lần đầu tiên diễn ra khung cảnh đại hội ân thưởng toàn quân
kể từ ngày mở nước về phương Nam. Cũng là lần đầu tiên, quân, quốc kỳ
cùng bay rạng rỡ trên kỳ đài tòa dinh thự báo hiệu thống nhất quân đội,
chủ quyền quốc gia qui về một mối.
Trung
úy Trương Quang Ân đứng hàng đầu giữa những chiến binh của quân đội
Cộng Hòa được tuyên công. Ông được trao gắn một lần hai Anh dũng bội
tinh với nhành dương liễu, hiện tượng độc nhất đã xẩy ra trong các quá
trình nghi lễ trao gắn huy chương. Cho dù về sau nầy khi chiến trường
trở nên nặng độ và có những chiến công lớn lao với những nhân vật xuất
chúng khác như Lưu Trọng Kiệt, Hồ Ngọc Cẩn… cũng không hề được lập lại
thêm lần thứ hai.
Năm
1957, Đại tá Nguyễn Chánh Thi thay thế Đại tá Đỗ Cao Trí giữ chức tư
lệnh Liên đoàn Nhảy Dù. Đại úy Trương Quang Ân cùng với viên tiểu đoàn
trưởng, Thiếu tá Phan Trọng Chinh, rời Tiểu đoàn 3 Dù về bộ tư lệnh với
chức vụ mới, trưởng phòng 3, và tham mưu trưởng Liên đoàn. Bộ tư lệnh
Liên đoàn Nhảy Dù với thành phần sĩ quan chỉ huy, tham mưu tài năng mới
mẻ nầy đã nhanh chóng canh tân, trở nên một đại đơn vị mẫu mực đối với
toàn quân, có phẩm, lượng cao về khả năng hành quân tác chiến lẫn tổ
chức tham mưu.
Một
sự kiện quan trọng xẩy ra trong đời sống cá nhân Đại úy Trương Quang
Ân, đồng thời cũng là một biểu tượng đặc thù của binh chủng nếu không
nói của toàn quân độị Ông làm lễ thành hôn với Chuẩn úy Dương thị Thanh,
một trong những nữ quân nhân đầu tiên của binh chủng Nhảy Dù. Cuộc kết
ước được chính vị tư lệnh làm chủ hôn, và hôn lễ được thực hiện theo
nghi thức thuần túy quân đội: Đại úy Trương Quang Ân trao nhẫn đính hôn
cho nữ Chuẩn úy Dương thị Thanh từ nơi cửa máy bay, xong hai người cùng
nắm tay điều khiển dù nhảy xuống đất nơi bãi đáp Ấp Đồn, Hóc Môn.
Cảnh
tượng cảm xúc trên chắc hẳn không phải là màn trình diễn của đôi vợ
chồng trẻ muốn làm nên sự kiện độc đáo ngoạn mục, nhưng đấy là hành vi
biểu hiện lòng sắc son của hai người lính muốn kết hợp lời nguyền hiến
dâng đời sống bản thân, gia đình cho Quân Đội và Tổ Quốc. Chúng ta không
nói điều ước đoán theo cảm tính, bởi cuộc sống đầy chiến đấu của hai
người suốt quãng đời tiếp theo đã hiện thực nghi lễ cao thượng của buổi
thanh xuân nầy trong bầu trời và trên mặt đất quê hương.
Năm
1959, Tiểu đoàn 8 Nhảy Dù được thành lập, Đại úy Trương Quang Ân nhận
lãnh chức vụ tiểu đoàn trưởng đầu tiên của đơn vị. Lần xuất quân của
Tiểu đoàn 8 Nhảy Dù cũng là dịp phá vỡ huyền thoại về mật khu Bời Lời
(vùng tây bắc ven đô nằm dọc sông Sài Gòn), căn cứ địa đã được lực lượng
quân sự cộng sản thành hình từ chiến tranh 1945-1954, nay đang được
củng cố cho cuộc chiến mới với nhiệm vụ chiến thuật quan trọng, từ đây
làm khu vực bản lề tiếp vận của 3 tỉnh Gia Định, Bình Dương, Hậu Nghĩa,
hình thành đầu cầu để tiến chiếm Sài Gòn (chiến dịch Mậu Thân 1968 chứng
thực cho quan điểm chiến thuật nầy) Tiểu đoàn 8 Dù đã truy kích địch
dài theo con sông, phá vỡ toàn thể những địa đạo vừa được xây dựng, đánh
bật tất cả các cụm, tổ du kích, đuổi sạch đám cán bộ vừa trở lại từ
miền Bắc, nay được gài chặt với cơ sở địa phương để hình thành lớp cán
bộ hạ tầng của Mặt trận giải phóng miền Nam. Công trận nầy cùng lần với
những đơn vị quân đội khác đã kiến tạo nên một thời hưng thịnh bình yên
từ 1954 đến 1960 ở miền Nam. Dân chúng từ Sài Gòn có thể ra đi bất cứ
nơi nào trong đêm và trở lại thủ đô vào giờ rạng sáng để làm việc. Có
mấy ai trong thuở ấy và sau nầy nhớ lại buổi bình an kia để nhắc nhở đến
gian khổ của mỗi người lính, những người không ai biết đến tính danh.
Người hiến dâng đời sống mình cho quê hương, đồng bào nhưng không hề nói
lên lời, dù là lời đơn giản, khiêm nhượng.
Biến
cố 11 tháng 11, 1960 lần đầu tiên đẩy quân đội trực tiếp tham dự vào
diễn trường chính trị, Liên đoàn Nhảy Dù lại là thành phần nòng cốt
quyết định để thực hiện việc dứt điểm chế độ và người lãnh đạo. Nhưng
Đại úy Trương Quang Ân đã vô cùng tinh tế để nhận rõ nguyên do lẫn hậu
quả của lần bạo loạn tranh chấp, ông từ nhiệm cáo bịnh lánh mặt khỏi
cảnh huống khốc liệt, vị tiểu đoàn phó được chỉ định tạm thời thay thế
ông trong tình thế khẩn cấp. Cuộc đảo chính 11 tháng 11 thất bại, những
giới chức cao cấp của Liên đoàn Dù phải chịu cảnh chạy trốn, lưu vong ra
khỏi nước, hoặc bị bắt giữ; các đơn vị phải tái biên chế, xáo trộn,
thay đổi cấp chỉ huy. Chỉ riêng Tiểu đoàn 8 Nhảy Dù vẫn giữ nguyên phong
độ và khả năng chiến đấu truyền thống bởi Thiếu tá Trương Quang Ân lại
trở về, giữ vững đơn vị tồn tại, phát triển sau cơn hỗn loạn.
Năm
1962, ông di chuyển từ trại Trần Quí Mại của Tiểu đoàn 8, nơi khuôn
viên căn cứ Hoàng Hoa Thám của Lữ đoàn Nhảy Dù trong phi cảng Tân Sơn
Nhất về trại Quang Trung, Tam Hiệp, Biên Hòa, bản doanh Tiểu đoàn 5 Dù,
cũng là của Chiến đoàn 2 Dù, đơn vị chỉ huy chiến thuật vừa được thành
lập gồm các Tiểu đoàn 5, 6, 7.
Doanh
trại xây trên một ngọn đồi hùng vĩ bên cạnh sông Đồng Nai, và người chỉ
huy đầu tiên của đơn vị tân lập đã thực hiện những nền tảng vô cùng
kiến hiệu để các tiểu đoàn thuộc quyền có điều kiện thuận lợi khai triển
tối đa năng lực chiến đấu với tầm vóc mới. Thiếu tá Trương Quang Ân đã
chứng thực một khả năng lãnh đạo lớn trong cương vị mới, với kích thước
của người chỉ huy tài năng, đạo đức tưởng chừng chỉ có trong những huyền
thoại về những con người của lịch sử phương Đông xưa cũ.
Vào
một buổi họp của toàn thể sĩ quan thuộc các tiểu đoàn trực thuộc và bộ
tham mưu chiến đoàn, mọi người đã vào ghế ngồi để đợi vị chỉ huy trưởng.
Cây kim chỉ phút của chiếc đồng hồ ở phòng hội sắp sửa chập vào số 12
để chỉ đúng 12 giờ, giờ bắt đầu buổi họp, nhiều người sửa soạn đứng lên
để chào đón chiến đoàn trưởng, họ nhìn ra cửa, hướng về phía văn phòng
của Thiếu tá Ân cách hội trường một khoảng đồi khá xa, trống trải nằm
phơi dưới nắng hạ chí miền Nam. Bỗng một bóng người xuất hiện từ khung
cửa căn phòng, gỡ chiếc nón đỏ cầm tay và chạy về phía hội trường với
tốc độ cực nhanh, Thiếu tá chiến đoàn trưởng Trương Quang Ân bước vào
hội trường. Sau khi đội lại chiếc mũ, chào tay trả lại lệnh chào kính
của toàn thể sĩ quan. Ông nói gấp:
- Xin lỗi quí vị sĩ quan, tôi bị trễ gần một phút vì phải trả lời điện thoại với Đại tá tư lệnh, nên anh em phải ngồi đợi!
Thiếu
tá Ân nhìn lên kim đồng hồ vừa nhếch quá chữ số 12. Tính chính xác,
hành vi nghiêm chỉnh, sự kính trọng đối với tất cả các cấp quân đội là
cách xử thế thường hằng mà người chỉ huy Trương Quang Ân luôn thực hiện,
tổng hợp tấm lòng của kẻ sĩ khiêm cung, nhân ái và tính nguyên tắc,
tinh thần trách nhiệm cao của người lính.
Hàng
tháng, nếu không phải bận hành quân, ông soạn lịch trình đến thăm
viếng, kiểm soát những tiểu đoàn thuộc quyền. Tiểu đoàn 6 Nhảy Dù của
Thiếu tá Nguyễn văn Minh, người bạn cũ cùng Trường Thiếu Sinh Quân là
đơn vị ông lưu tâm nhất vì ở nơi xa xôi (Vũng Tầu) so với 2 tiểu đoàn 5,
7 cùng trong vùng Biên Hòa của chiến đoàn.
Mỗi
lần thăm viếng đều được ông chuẩn bị nghiêm chỉnh như một cuộc thanh
tra đơn vị, mà bản thân ông là người trước tiên phải hội đủ khả năng, tư
cách, phẩm chất của một giới chức chỉ huy, thanh tra. Trước ngày đi,
ông nói cùng Đại úy Nguyễn Thái Hợp, nay đã kiêm nhiệm chức vụ tham mưu
trưởng chiến đoàn:
- Đại úy nhớ nhắc nhở, kiểm soát anh em mình phải mang đủ bi đông nước, lương khô để khỏi làm phiền dưới Tiểu đoàn 6 nghe!
-
Nhưng Thiếu tá Minh đã báo cho tôi bằng 106 (máy truyền tin siêu tần số
dùng bạch thoại để chuyển những nội dung không cần phải mã hóa) là dưới
đó đã chuẩn bị bữa ăn cho chiến đoàn mình rồi Thiếu tá!
- Đại úy Hợp vội vã trả lời.
- Cơm thân mật trong tiểu đoàn hay tiệm ngoài phố?
- Thiếu tá Ân hỏi gấp.
- Vâng, ở một tiệm nơi Bãi Sau!
-
Vậy đại úy phải nói liền với Thiếu tá Minh là tôi không nhận. Mình đi
thanh tra tiểu đoàn chứ đâu phải đi Vũng Tàu tắm biển, ăn tiệc!
Cuối
cùng, ông lên xe với nón sắt hai lớp, súng Colt nơi thắt lưng có bi
đông nước đầy, gói lương khô, và ngồi thẳng trong suốt chặng đường đi từ
Tam Hiệp, Biên Hòa về đến Tiểu đoàn 6 ở Vũng Tàu.
- Đường đi xa hơn trăm cây số, Thiếu tá dựa lưng một chút cho đỡ mỏi! – Người tài xế ái ngại nhắc nhở.
-
Không được đâu, mình tới thăm viếng, thanh tra mà lưng áo bị nhăn như
thế trông thấy có vẻ thiếu kính trọng đơn vị và anh em! Thiếu tá Ân giải
thích với người tài xế, không quên hỏi thêm:
- Mà anh có đem đủ bi đông nước dùng cho cả ngày và nhớ bỏ thuốc lọc nước vào chưa?
Cũng liên quan đến người tài xế, chiếc xe, một hôm ông gọi bà vào văn phòng với vẻ nghiêm trọng, và sau đó có những lời:
-
Mình là sĩ quan nữ quân nhân, mình biết cũng rõ quân kỷ như tôi; thế
nên, chiếc Jeep là của chiến đoàn cấp cho chiến đoàn trưởng, chứ không
phải cho riêng cá nhân tôi. Vậy khi nào mình đi thăm gia đình binh sĩ
với tư cách chủ tịch gia đình binh sĩ Chiến đoàn 2 thì mình sử dụng và
ngồi vào ghế trưởng xa. Nhưng ngoài giờ làm việc, nếu cần chú tài xế đưa
đi đâu thì mình phải ngồi băng sau, vì xe đó là của quân đội chứ đâu
phải của riêng gia đình mình. Tôi đã dặn chú ấy, khi nào không có mặt
tôi thì lưng ghế trưởng xa phải gập xuống, vậy mình đừng bảo chú ấy làm
trái lời tôi!
Bà im lặng nghe, và tuân theo lời ông không một phản ứng nhỏ tị hiềm, khó chịu, dẫu bà chỉ thua ông một cấp bậc.
Đầu
năm 1965 để chuẩn bị đưa ông vào những chức vụ cao hơn, Bộ Tổng tham
mưu tuyển chọn Trung tá Ân theo học Trường Chỉ Huy Tham Mưu Cao Cấp
Leavenworth, Kansas, Hoa Kỳ. Vào thời điểm nầy, tiếng Anh vẫn còn là một
ngôn ngữ xa lạ đối với những sĩ quan xuất thân từ quân đội Liên hiệp
Pháp, nhưng ông đã vượt qua khỏi trở ngại kia bằng biện pháp: luôn luôn
trên tay, trước mặt, trong tầm với, có những sách tự học Anh ngữ. Ông
vào Trường Sinh Ngữ Quân Đội với thái độ chuyên cần của một sinh viên
chuyên khoa, và sử dụng toàn bộ thời giờ vào công việc đọc, viết, học
tài liệu khóa học và tài liệu nghiên cứu. Và cũng như hai mươi năm
trước, Trung tá Trương Quang Ân lại tốt nghiệp khóa học với vị thứ thủ
khoa kèm lời khen ngợi nồng nhiệt kính phục từ ban giám đốc trường. Đây
là học viên tốt nghiệp với số điểm cao nhất từ trước đến naỵ Ông đứng
đầu trên 45 sĩ quan cao cấp của quân đội toàn thế giới, kể cả những
tướng lãnh, cấp tá thuộc quân lực Mỹ.
Năm
1966, trong buổi tiệc tiễn ông đi làm tỉnh trưởng Gia Định, binh sĩ, hạ
sĩ quan của bộ chỉ huy chiến đoàn và sĩ quan của những tiểu đoàn trực
thuộc trong vùng Biên Hòa đều được mời tham dự. Mỗi người có một hộp
giấy gồm 2 pâté chaud, 2 bánh ngọt và 1 sandwich; thức uống gồm một chai
bia và nước ngọt Quân tiếp vụ. Trung sĩ Đâu, Ban 2 chiến đoàn vốn là
tay ưa ăn nhậu, cất tiếng rổn rảng:
- Trung tá đi làm tỉnh trưởng cái tỉnh to nhất nước mà không cho tụi em uống một bữa cho đã!
Trung tá Ân nghiêm sắc mặt, nhưng từ tốn nói với Đâu:
-
Trung sĩ Đâu nói như vậy là phụ lòng tôi, bữa tiệc nầy là do tiền lương
tôi xin lãnh trước để đãi anh em. Chứ còn như trong Chợ Lớn đã có mấy
tiệm ăn, tửu lầu gì đó, nghe tin tôi về làm tỉnh trưởng, họ đã đưa đề
nghị đãi hết người của chiến đoàn mình. Nhưng đó là của họ, mình ăn làm
chi anh Đâu!
Căn phòng im lặng, lắng xuống, Đâu cười cười:
-
Em nói giỡn cho vui thôi, tụi em biết ông thầy nghèo mà, ông thầy cho
uống chi tụi em cũng chịu hết. Vì được ở với ông thầy là vui rồi, nay
ông thầy đi tụi em buồn lắm!
Vô
tình, Đâu đã nói lời tiễn biệt chính xác, hàm xúc nhất với tấm lòng đơn
giản trung hậu của người lính đối với một cấp chỉ huy hằng sống với đơn
vị mà âm hưởng luôn bền chặt tồn tại.
Nhưng
nếu có một lần người chỉ huy Trương Quang Ân phải chịu nhận phần tiêu
cực thất bại trong toàn bộ sự nghiệp của mình lại là chính với chức vụ
không tiếng súng, tại văn phòng bình yên nơi tòa tỉnh trưởng Gia Định.
Vào
một ngày của năm 1967, Đại tá tỉnh trưởng Gia Định nhận danh thiếp
thiếu tá chánh văn phòng của vị phu nhân một viên tướng cao cấp nhất của
quân lực. Viên thiếu tá đặt lên bàn giấy ông tỉnh trưởng tập hồ sơ thổ
trạch đứng tên bà tướng với lời yêu cầu ông phê chuẩn sự hợp thức hóa
tình trạng sỡ hữu phần đất của bà. Sau khi xem xét kỹ hồ sơ và những qui
định hành chánh về thủ tục hợp thức hóa đất đai thuộc phạm vi tỉnh, Đại
tá tỉnh trưởng Trương Quang Ân có lời quyết định:
-
Thiếu tá có thể trở về trình với bà tướng như thế nầy: Tôi đã xem xét
kỹ càng về thủ tục hợp thức hóa thổ cư, điền thổ theo như các qui định
hành chánh cho phép, nhưng lô đất nầy dẫu thuộc về tỉnh Gia Định, cũng
là công thổ quốc gia nên tôi không thể hợp thức hóa quyền sỡ hữu của bà
đối với phần đất đó được!
Khoảng
một thời gian ngắn sau, viên thiếu tá trở lại với lá thư viết tay của
bà tướng cũng với yêu cầu như đã kể với lời lẽ quyết liệt dứt khoát hơn,
kèm theo ý nghĩa đe dọa, chức vụ ông có thể bị ảnh hưởng xấu nếu tiếp
tục đường lối cũ. Và Đại tá tỉnh trưởng Gia Định cũng trả lời dứt khoát
với nội dung minh bạch như đã nói một lần:
- Công thổ, công điền không thể bị chiếm đoạt, sang nhượng cho bất cứ ai.
Kết
quả Đại tá tỉnh trưởng Gia Định bàn giao chức vụ lại cho một viên đại
tá sau nầy phải ra tòa vì tội buôn lậu và tham nhũng. Đại tá Trương
Quang Ân rời tỉnh Gia Định với luyến tiếc của mọi tầng lớp thân hào,
nhân sĩ cùng binh sĩ, đồng bào các quận ven đô. Hãy nghe anh Heo, trung
đội trưởng Nghĩa quân ấp Vĩnh Lộc, xã Tân Sơn Nhì, quận Tân Bình nói với
chúng tôi (Tiểu đoàn 9 Dù đang giữ an ninh vòng đai Biệt khu Thủ đô vào
thời điểm 1966-1967):
- Từ khi có ông tỉnh với mấy anh về đây, ban đêm tui ngủ ở nhà và đi nhậu như ở Sài Gòn!
Nếu
Đại tá tỉnh trưởng Trương Quang Ân còn ở Gia Định vị tất các đơn vị
Việt cộng có thể ngang nhiên tập trung nơi những chỗ ém quân ở Nhị Bình,
Thạnh Lộc (Gò Vấp), hoặc Bà Điểm, Bà Hom (Hóc Môn), hay Phú Lâm, An Lạc
(Bình Chánh)… để tấn công vào Sài Gòn trong những ngày đầu năm 1968. Và
nếu điều nầy không xẩy ra thì chắc rằng mặt trận Sài Gòn Chợ Lớn Gia
Định ắt sẽ có những hình thái khác. Đau thương của dân chúng, sinh mạng
người lính hẳn sẽ bớt phần khốc liệt oan khiên hơn. Nhưng bởi người lính
đã ra đi. Vị tỉnh trưởng thanh liêm phải rời bỏ nhiệm sở.
***
Phi
trường Phụng Dực Ban Mê Thuột hôm ấy có một sinh hoạt khác hơn ngày
thường với giàn quân nhạc của Sư đoàn 23 Bộ Binh đứng xếp hàng nhiêm
chỉnh. Phòng khách phi trường được quét dọn sạch sẽ, có mặt gần như đầy
đủ thành phần sĩ quan cao cấp của đơn vị và tiểu khu Darlac, đơn vị hành
chính cùng có chung một địa bàn hoạt động với Sư đoàn, lực lượng diện
địa quan yếu của Khu 23 Chiến thuật. Chiếc máy bay C-47 hàng không quân
sự đáp xuống, lố nhố những hành khách quân nhân và gia đình ào ra từ cửa
máy bay. Giàn quân nhạc chuẩn bị nhạc cụ, sửa soạn trình tấu khúc
Thượng Cấp Võ; đám sĩ quan vội vã xếp đội hình, tất cả chờ đợi viên tân
tư lệnh xuất hiện. Họ chờ một tướng lãnh mặt trận có uy danh với những
chiến công nơi trận địa mà ông đã thu đạt từ binh chủng Nhảy Dù qua
những chức vụ sĩ quan chỉ huy những đơn vị tác chiến. Nhưng vị tướng với
vóc dáng, y phục, cách thế như chờ đợi ấy đã không xuất hiện. Người ta
chỉ thấy một người lính với nón sắt hai lớp, lưới ngụy trang, quân phục
tác chiến xanh của bộ binh, vai mang ba lô, tay xách sac marin đi lẫn
vào cùng đám quân nhân hành khách.
- Hay là ông chưa tới? Có thể ông đi máy bay Air Việt Nam để được sạch sẽ, lịch sự hơn chăng?!
Đám sĩ quan nghi lễ bàn tán.
Bỗng
một người nhác thấy người lính đi hàng cuối mang bảng tên màu trắng kẻ
chữ “Ân” đen trên nắp túi áo và ngôi sao huy hiệu cấp tướng màu đen may
tiệp vào cổ áo tác chiến. Không một chiếc huy chương ở phần ngực áo.
Người nầy vội vã, hốt hoảng:
- Vào hàng! Vào hàng! Phắc!
Hành
khách quân nhân cuối cùng kia vội đi nhanh đến chỗ viên sĩ quan trưởng
toán chào kính, và nói nhanh, dẫu tiếng nhỏ nhưng dứt khoát:
- Trung tá cho anh em nghỉ, tôi không thể nhận! Và khi đứng hẳn trước đoàn người, tướng Trương Quang Ân khiêm tốn giải thích:
-
Cám ơn anh em đã đón tôi với đủ lễ nghi quân cách, nhưng tôi không được
phép nhận vì chưa bàn giao đơn vị. Vậy chỉ cho tôi một xe Jeep cũng như
những sĩ quan vừa đáo nhậm đơn vị mới và chờ cho tôi bàn giao với vị
chỉ huy trưởng xong, các anh em hẳn dành cho tôi quân lễ đối với một tân
tư lệnh!
Ông
lên một chiếc Jeep trần trụi, sửa lại thế ngồi, bi đông nước, khẩu súng
Colt, chiếc nón sắt hai lớp đội thẳng, sát xuống mí mắt đúng quân
phong, quân kỷ ấn định.
Đoàn
xe ra khỏi phi trường, hướng khu dân cư nơi đặt những cơ sở quân sự của
khu chiến thuật và tòa tỉnh trưởng. Sau chiếc Jeep cũ kỷ chở vị tân tư
lệnh, một chiếc khác bóng loáng mới tinh khôi cắm cờ hiệu cấp tướng
không người ngồi, chạy theo giữa bụi mù.
Ngay
sau khi nhậm chức, Tướng quân được dịp chứng nghiệm khả năng chỉ huy
vào dịp Tết Mậu Thân, 1968 khi quân cộng sản tổng tấn công miền Nam mà
thị xã Ban Mê Thuột với bộ tư lệnh Sư đoàn 23 là mục tiêu đầu tiên bị
Trung đoàn 33 Cộng sản Bắc Việt tập trung dứt điểm. Liền sau giờ giao
thừa, lúc 1 giờ 35 đêm 29 rạng 30 tháng 1, 1968, 4 tiểu đoàn thuộc Trung
đoàn 33 tăng cường 2 Tiểu đoàn 401 và 301 Cơ động tỉnh và 4 đại đội địa
phương cùng du kích đồng loạt tấn công những mục tiêu của thị xã.
Sở
Hành chánh tài chánh, tòa hành chánh, dinh tỉnh trưởng, bộ chỉ huy tiểu
khu, Đại đội 514 Vận tải, trại gia binh Đại đội Trinh sát, cư xá sĩ
quan và bản doanh bộ tư lệnh sư đoàn là những vị trí phải được chiếm cứ
trước hết. Bởi phía chỉ huy quân sự đối phương hiểu rõ rằng, nếu đập vỡ
được cơ quan chỉ huy, khống chế được thành phần nhân sự hoặc thân nhân,
gia đình của lực lượng trừ bị tiếp ứng (Đại đội Trinh sát, thành phần sĩ
quan chỉ huy, tham mưu sư đoàn) thì cuộc tấn công ắt chiếm giữ phần ưu
thắng.
Nhưng
tất cả mũi tấn công đồng bị chận đứng trước cổng các doanh trại và âm
mưu lùa dân vào thị xã biểu tình thực hiện bước tổng nổi dậy tiếp theo
hoàn toàn bị thất bại. Bởi từ bộ tư lệnh Sư đoàn 23, Tướng quân đã điều
động ngay trong đêm cuộc phản công với Thiết đoàn 8 Kỵ binh, các Tiểu
đoàn 2, và 3 thuộc Trung đoàn 45 Bộ Binh và Đại đội 45 Trinh sát đang
hành quân bên ngoài thị xã. Lực lượng tấn công cộng sản hóa thành bị bao
vây, chia cắt bởi đoàn quân tiếp ứng. Sáng ngày 30 (mồng một Tết âm
lịch) lực lượng thiết kỵ và bộ binh của sư đoàn đã hoàn toàn giữ vững
những vị trí, cơ quan quân sự, hành chánh trọng yếu của tỉnh và thị xã.
Về
mặt chiến thuật, chúng ta có thể nói rằng âm mưu tiến chiếm Ban Mê
Thuột bị dập tắt từ giờ phút đầu tiên, chỉ trừ những cơ sở như ty ngân
khố, Sở Hành chánh tài chánh số 3 còn bị những tiểu tổ du kích chiếm
đóng mà vì cốt tránh thiệt hại về nhân mạng cũng như tài sản chung nên
phía tiểu khu, bộ tư lệnh sư đoàn chưa cho lệnh phản kích lấy lại.
Tính
đến ngày mồng 6 Tết, mặt trận Ban Mê Thuột hoàn toàn được giải tỏa,
Trung đoàn 33 và các đơn vị địa phương, du kích bị đánh bật ra khỏi vành
đai thị xã để lại 924 xác trên hiện trường và 143 bị bắt sống.
Nhưng
mỉa mai thay, có một “lạnh nhạt cố ý” rất đáng chê trách: suốt chiến
dịch ca ngợi thắng lợi kiên trì giữ vững miền Nam sau biến cố lớn lao
nầy, công trận thủ thắng ở mặt trận Ban Mê Thuột “hình như” được cố ý
loại bỏ. Điều nầy càng thấy được cụ thể qua tập quân sử tổng kết “Cuộc
Tổng Công Kích – Tổng Khởi Nghĩa của Việt Cộng Tết Mậu Thân 1968″, danh
tính vị Tướng quân tư lệnh Sư đoàn 23, Chuẩn tướng Trương Quang Ân hoàn
toàn không được nhắc tới một lần, cho dù có hình ảnh của người cùng viên
tư lệnh Quân khu đi xem xét chiến lợi phẩm sau khi mặt trận im tiếng
súng và quân địch đã toàn phần bị đánh bại.
Khi
những người cầm quyền quốc gia, lãnh đạo quân đội xem nhẹ kẻ sĩ, bạc
đãi chiến sĩ, danh tướng thì chỉ dấu suy thoái của quốc gia, quân đội đó
ắt đã phát hiện. Nếu những người lính mang tên Trương Quang Ân, Nguyễn
Viết Thanh, Ngô Quang Trưởng, Nguyễn Khoa Nam, Trần văn Hai, Lê văn Hưng
nắm quyền thống lĩnh quân đội, trọng trách vận mệnh quốc gia từ thập
niên 60, đầu những năm 70, thì đâu có ngày đau thương oan nghiệt 30
tháng 4, 1975. Chúng ta phải kêu lên tiếng uất hận vỡ trời cùng anh linh
Chiến Sĩ – Tướng Quân.
Một
ngày hè giữa năm 1970 sau buổi thuyết trình buổi sáng tại trung tâm
hành quân, Chuẩn tướng tư lệnh cùng cố vấn sư đoàn, vị sĩ quan Phòng 3
ra bãi đáp trực thăng cạnh bộ tư lệnh để đi thanh tra, kiểm soát những
đơn vị thuộc quyền đang hành quân trong phạm vi quận Đức Lập.
Trương Quang Ân (1932-1968)
Dương Thị Kim Thanh (1931-1968)
Theo
thường lệ, Tướng quân đi cùng những giới chức trên bằng trực thăng
UH-1D của hệ thống cố vấn Mỹ, nhưng bởi sáng nay có bà tháp tùng theo
cùng để đến thăm gia đình binh sĩ của đơn vị có hậu cứ tại quận lỵ, nên
hai người quyết định sử dụng trực thăng H-34 của Không quân Việt Nam,
cũng cốt để chở được nhiều nhu yếu phẩm, quà tặng cho binh sĩ và gia
đình của họ.
Hai
vợ chồng Người Lính lớn nhất của đơn vị đi thăm hỏi mỗi gia đình binh
sĩ, bà ngồi xuống giữa những người vợ lính, những em bé xao xác do thiếu
dinh dưỡng, trú ngụ nơi những lều trại dã chiến mà người lính tạm dựng
lên tại tiền trạm vùng hành quân. Bà bối rối, băn khoăn về nỗi khổ của
từng người, bà ôm không hết những em nhỏ với nước mắt rưng rưng thương
cảm. Ông yên lặng đi đến tại mỗi vị trí phòng thủ, xem xét những khẩu
pháo, hỏi kỹ về nhu cầu của đơn vị và luôn nhắc nhở cán bộ sĩ quan:
-
Phải luôn cố gắng chăm sóc đời sống anh em, họ đã quá thiếu thốn, quá
gian khổ, bổn phận của cấp chỉ huy là phải tận tụy hết lòng với mỗi
người lính của mình. Ai cũng có thể có khuyết điểm nhưng cần nhất là
biết phục thiện, sửa chữa.
Buổi
thăm viếng đã quá lâu, cố vấn Mỹ, toán sĩ quan tham mưu, cũng như cá
nhân tướng tư lệnh phải trở về Ban Mê Thuột; những người vợ binh sĩ vây
quanh bà, bà bước đi ngập ngừng. “Về mình ạ, mình còn trở lại nhiều lần
nữa, mình nói với các chị, các cháu như thế!”
Ông
bắt tay từng sĩ quan, ân cần đáp lại ánh mắt lưu luyến của binh sĩ.
Cánh quạt chiếc H-34 bắt đầu quay, Tướng quân đỡ phu nhân, chiến hữu sắc
son của Người suốt đời dài binh đao, bước lên cửa máy bay vì sức gió
mạnh xô đẩy. Hai Người Lính nhìn lại những bóng người dưới đất bắt đầu
mờ dần do nước mắt của bà đã thấm nhòa cảm xúc.
Người
dưới đất đưa tay ngoắc từ biệt. Bỗng như tia chớp cực mạnh lóe sáng,
con tàu bùng vỡ thành khối lửa hung hản ác độc và lao nhanh xuống như
một mũi tên. Khu trại gia binh đồng la lớn kinh hoàng:
- Chết rồi! Chết rồi trời ơi! – Ông bà tướng chết rồi trời ơi! Trời ơi là trời ơi!!
Những người vợ lính bật khóc cùng với những đứa con gào ngất trong tay bởi ánh lửa đỏ rực sáng loáng khoảng trời.
Tướng
quân Trương Quang Ân cùng phu nhân Dương thị Thanh trở về cùng mặt đất
quê hương như trong tuổi thanh xuân hai Người Lính đã kết hợp giữa bầu
trời Tổ Quốc.
Trong
buổi phát tang nhị liệt vị, sĩ quan nghi lễ kê khai phần tài sản để lại
gồm: 53,000 đồng, tiền lương tháng cuối cùng của Tướng quân, và 8 chiếc
áo dài nội hóa của phu nhân.
Chúng
ta hôm nay cùng sông núi kính cẩn nghiêng mình trước Anh Linh Người
Lính Thanh Cao, Trung Liệt đã vô vàn tận hiến với nước Việt Miền Nam:
Thiếu Sinh Quân – Người Lính Cộng Hòa Trương Quang Ân.
Hình ảnh và bài đọc do nhóm Paltalk tổng hợp từ Nam California, Hoa Kỳ
No comments:
Post a Comment