“Nhiều việc cảm động lắm. Chẳng hạn như là một người mẹ già có một người con trai duy nhất thôi mà người con trai đó tình nguyện vô Đà Lạt. Anh đó là sĩ quan khoá 17 Võ Bị Đà Lạt và anh mất. Mà lúc nào anh đi ra bất cứ nơi nào ở một vùng nào trên chiến trường thì người mẹ, người vợ và mấy đứa con cũng đi theo. Cho nên chúng tôi thấy người mẹ thương con vô cùng, người vợ cũng thương chồng vô cùng. Và nhất là những người lính Thượng, một tiểu đoàn người Thượng thì có chừng một số các sĩ quan là người Kinh, còn bao nhiêu là người Thượng – người thiểu số, thì có một tiểu đoàn người Thượng thì có một tiểu đoàn vợ và mấy tiểu đoàn con, mà đi bất cứ nơi nào không có chỗ ăn chỗ ở hay trại gia binh đàng hoàng thì người vợ và các con vẫn theo chồng. Thì những cảnh đó làm cho chúng tôi thấy rằng tình cảnh của vợ chồng nó thấm thía không thể tưởng tượng được, mà không có cái xứ sở văn minh nào mà có cái tình cảnh thấm thía như tình cảnh vợ chồng của người Việt Nam vào các thập niên 1960, 1970 và những thập niên trước đó.” Kiều Mỹ Duyên
Ðến Huế được vài hôm, tôi nghe tin Trung Tá Võ Nhơn đã gục ngã trên cồn cát trắng trong vùng đất Quảng Trị khi ông chỉ huy đơn vị anh dũng tả xung hữu đột với đoàn chiến xa của Cộng quân.
Nhớ cách đây đã lâu lắm, một lần tôi đến thăm Tiểu Ðoàn 34 Biệt Ðộng Quân đang đóng ở Lộc Giang. Tối hôm trước khi tôi đến, một trung đoàn Cộng quân về vây đánh đồn Lộc Giang. Tiểu đoàn bị đánh trong lúc Thiếu Tá Tiểu Ðoàn Trưởng đang đi phép. Thiếu Tá Tiểu Ðoàn Phó đang nằm bệnh viện. Hai đại đội Biệt Ðộng Quân đã ra khỏi đồn đi hành quân xa. Chỉ còn hai đại đội mà phải chống cự với một trung đoàn địch quân. Trung Tá Nhơn lúc đó còn là Trung Úy Nhơn, Ðại Ðội Trưởng, đã điều động đơn vị thiết giáp yểm trợ bên ngoài vào phối hợp đẩy lui quân địch. Trận chiến kéo dài suốt đêm, đồn Lộc Giang chìm trong lửa đạn. Sáng hôm sau, địch rút lui và để lại hàng trăm xác cùng vũ khí cá nhân ngổn ngang trên các vòng rào phòng thủ của đồn.
Trung Tướng Phan Trọng Chinh, hồi đó là Thiếu Tướng Tư Lệnh Sư Ðoàn 25 Bộ Binh cùng Ðại Tá Mã Sanh Nhơn, Tỉnh Trưởng kiêm Trung Ðoàn Trưởng Trung Ðoàn 49 Bộ Binh, đến tận đồn Lộc Giang, Hậu Nghĩa khen thưởng chiến công. Tôi cũng đến thăm đồn đúng vào sáng hôm đó.
Trung Úy Nhơn đội mũ rộng vành ra đón và đưa tôi vào phòng hành quân diễn tả lại chi tiết trận đánh đêm qua. Sau đó hướng dẫn cho tôi đi quan sát chung quanh đồn, chỉ rõ những hướng tấn công của địch, giải thích sự phòng thủ của Biệt Ðộng Quân và hướng tiến công của Thiết Giáp vào địch quân như thế nào.
Buổi trưa hôm đó, chị Nhơn mời tôi ăn cơm với vợ chồng chị tại đồn. Ðời lính, mấy khi được ăn bữa cơm ngon hay ngủ một giấc ngủ yên trong căn nhà của mình. Chúng tôi ngồi ăn cơm trong hầm sâu dưới đất, hầm rất kiên cố, vì đây là một nơi được Cộng quân thường xuyên về thăm hỏi. Anh chị Nhơn cùng quê ở xứ Huế. Anh Nhơn xuất thân từ khóa 17 Võ Bị Ðà Lạt. Tôi nghe nói hai khóa 16 và 17 của trường Võ Bị Ðà Lạt đã đào tạo nhiều sĩ quan rất anh hùng trên chiến trường hồi đó, và một số cũng đã oanh liệt đền nợ nước khi tuổi đời còn quá trẻ.
Ðó là lần đầu tiên cũng là lần cuối cùng tôi gặp anh Nhơn. Sau này có nhiều lần tôi đi làm phóng sự chiến trường với nhiều đơn vị Biệt Ðộng Quân, nhưng không có dịp nào gặp lại anh chị. Thỉnh thoảng gặp những người quen chuyển lời anh chị hỏi thăm tôi. Cho đến hôm nay, hơn 7 năm sau, vừa đặt chân đến Huế, quê hương của anh chị, thì đã nghe tin anh gục ngã một cách anh dũng trên chiến trường Trị Thiên.
Tình cờ gặp Thiếu Tá Bá, Tiểu Ðoàn Trưởng Tiểu Ðoàn 10 Chiến Tranh Chính Trị mới biết Trung Tá Võ Nhơn là cháu của ông. Thiếu Tá Bá hỏi tôi:
– Võ Nhơn là cháu của tôi, cô muốn đến thăm tiểu đoàn của Nhơn thì tôi đưa cô đi.
Thiếu Tá Bá nhắc lại một vài kỷ niệm với Trung Tá Võ Nhơn trong tình chú cháu một cách xúc động. Cùng với một phóng viên nữa của báo Sóng Thần, chúng tôi theo Thiếu Tá Bá lên Văn Thánh là nơi đang dừng quân của Liên Ðoàn 1 Biệt Ðộng Quân. Từ Huế, con đường dẫn lên Văn Thánh chạy vòng theo bờ tả ngạn của sông Hương, qua làng Kim Long, nơi có những cô gái nổi tiếng đẹp nhất đất Thần Kinh, đủ sức thu hút một vị vua đa tình dám bỏ cả ngai vàng đi theo tiếng gọi của con tim:
Kim Long có gái mỹ miều,
Trẫm thương, trẫm nhớ, trẫm liều, trẫm đi.
Qua khỏi Kim Long là chùa Thiên Mụ, nơi mà ngày xưa truyền thuyết cho rằng Chúa Nguyễn đã được một người đàn bà từ trên trời hiện xuống chỉ điểm cho việc lập nên đế nghiệp của mình.
Qua khỏi chùa Thiên Mụ là đã ra ngoại ô của thành phố Huế. Khung cảnh như bỗng nhiên mở rộng với những ngọn đồi tiếp nối nhau, những đồi sim, cùng một màu tím, màu tím hoa sim. Và đây là Văn Thánh, nơi dưỡng quân của Liên Ðoàn 1 Biệt Ðộng Quân. Bộ Chỉ Huy của Liên Ðoàn đóng ở Văn Thánh, còn các tiểu đoàn, mỗi tiểu đoàn đóng dưới chân của một đồi sim.
Liên Ðoàn 1 đang dưỡng quân, bổ sung quân số và đặc biệt huấn luyện về kỹ thuật bắn chiến xa để chờ ngày phản công tái chiếm Quảng Trị. Xe chạy vòng vòng qua những ngọn đồi. Tiếng súng từ những toán đang thi tác xạ do Liên Ðoàn tổ chức vang vọng một vùng đồi núi. Bóng dáng của những người chiến binh mặc áo hoa rừng di chuyển trên những đồi sim làm cho tôi chợt nhớ đến người chú của tôi. Ngày xưa, lúc chú tôi còn sống, ông cũng mặc áo hoa rừng, cũng dạy cho tôi bắn súng ở rừng Châu Hiệp.
Chúng tôi đến thẳng nơi Liên Ðoàn tranh giải tác xạ. Các đơn vị đang thi tài một cách hào hứng. Tranh giải với đủ mọi loại súng, súng Colt, súng M16, súng M72… Tôi trình bày với Trung Tá Liên Ðoàn Trưởng ý định muốn biết thêm chi tiết về cái chết của Trung Tá Võ Nhơn. Trung Tá Liên Ðoàn Trưởng cho lệnh các đơn vị tạm ngưng tranh tài để nghỉ ngơi chốc lát.
Trong khoảng thời gian ngắn đó, trên đồi sim này, ngày hôm nay tôi có dịp gặp lại và trò chuyện với nhiều người mà ngày xưa tôi đã quen trong những lần đi ủy lạo với các phái đoàn. Như Thiếu Tá Hoàng Phổ, ngày trước là Ðại Úy Hoàng Phổ, Tiểu Ðoàn Trưởng Tiểu Ðoàn 37 Biệt Ðộng Quân, tiểu đoàn này đã lừng danh với trận đánh ở Khe Sanh hồi năm 1968.
Khe Sanh là một thung lũng nằm về phía cận Bắc của tỉnh Quảng Trị. Từ năm 1962, Hoa Kỳ đã chọn Khe Sanh để lập một căn cứ hỏa lực hầu cắt đứt con đường tiếp tế của Cộng quân từ Bắc vào Nam và qua Lào. Trong những lúc mức độ của cuộc chiến cao nhất, quân số của Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ trấn đóng tại đây đã lên đến 6,000 người và đơn vị chủ lực là Trung Ðoàn 26 Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ.
Cộng quân nhất quyết san bằng căn cứ hỏa lực này, cho nên trước Tết Mậu Thân, địch đã điều động Sư Ðoàn 304 và Sư Ðoàn 325 tổng cộng khoảng 20,000 quân bao vây căn cứ Khe Sanh để tạo ra một Ðiện Biên Phủ thứ hai. Ðồng thời hai Sư Ðoàn 320 và Sư Ðoàn 324 của Cộng quân cũng sẵn sàng tiếp chiến ở mặt trận này. Ngày 21 tháng 1 năm 1968, Cộng quân bắt đầu cuộc tấn công bằng những trận mưa pháo và xung phong đánh đồi 861 Nam (có hai ngọn đồi 861: đồi 861 Bắc và đồi 861 Nam).
Xe tăng T-54 của cộng quân tại chiến trường Quảng Trị – nguồn otofun
Ngày 27 tháng 1, đúng một tuần sau ngày Cộng quân khởi sự tấn công, Tiểu Ðoàn 37 Biệt Ðộng Quân của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa do Ðại Úy Hoàng Phổ chỉ huy được chuyển vận tới Khe Sanh và trấn đóng mặt Ðông của phi đạo. Cuộc chiến diễn ra vô cùng khốc liệt. Ðại Úy Hoàng Phổ và Tiểu Ðoàn 37 Biệt Ðộng Quân đã lập nhiều chiến công trong phần tuyến phòng thủ của mình và khiến cho quân đội đồng minh phải khâm phục trước sự chiến đấu dũng cảm của người lính miền Nam Việt Nam.
Trong trận này, tất cả chiến sĩ của tiểu đoàn đều được lên một cấp, chỉ trừ Ðại Úy Tiểu Ðoàn Trưởng không những không được lên lon mà còn bị mất chức Tiểu Ðoàn Trưởng vì đã cãi lại lệnh của một tướng Mỹ trong cuộc hành quân hỗn hợp Việt-Mỹ.
Sau đó Ðại Úy Hoàng Phổ được thuyên chuyển về làm huấn luyện viên ở quân trường Dục Mỹ. Tôi biết được điều này vì Tết năm đó, tôi ở trong phái đoàn của nữ sinh viên Sài Gòn đi cùng Bộ Chỉ Huy Biệt Ðộng Quân đến thăm trường Dục Mỹ. Tôi rất ngạc nhiên khi thấy một sĩ quan trẻ, xuất thân từ Võ Bị Ðà Lạt, khóa 17, nhiều khả năng trên chiến trận, lại về làm huấn luyện viên ở trường. Hỏi thăm mới biết sự tình như thế.
Một thời gian sau, một lần đi làm phóng sự chiến trường ở Cao Nguyên Trung Phần, từ trực thăng nhảy xuống ngay rừng Ben-Hét, nơi cánh quân của Biệt Ðộng Quân đang lùng địch, tôi gặp lại Ðại Úy Hoàng Phổ, lúc đó ông đang cầm một tiểu đoàn. Ðúng là cánh chim bằng đã đến ngày gặp gió. Và hôm nay, đứng trên đồi sim này, ông là Thiếu Tá Tiểu Ðoàn Trưởng Tiểu Ðoàn 37 Biệt Ðộng Quân, một đơn vị như có cơ duyên với người sĩ quan nhiều khả năng và đầy nhiệt huyết trong binh nghiệp. Sinh trưởng và lớn lên ở Huế, nay có dịp trở về chiến đấu ngay nơi quê quán của mình thì tinh thần của người chiến sĩ chắc chắn phải mãnh liệt hơn, và đó chỉ là một tình cảm tự nhiên của con người.
Thiếu Tá Hoàng Phổ giới thiệu tôi với một vị sĩ quan:
– Ðây là Ðại Úy Tập, ở Ban 3 của Tiểu Ðoàn 37. Ðại Úy Tập có thể cho cô biết rõ về người chỉ huy quá cố của ông. Nếu cô muốn nghe về cái chết của Trung Tá Nhơn, cô có thể hỏi bất cứ một người nào đã có mặt trong trận đó. Nhưng tốt nhất là gặp Thiếu Úy Hồng, Sĩ Quan Truyền Tin của Trung Tá Nhơn, và Trung Tá Nhơn đã chết trên tay của Thiếu Úy Hồng.
Ðại Úy Tập nói:
– Trung Tá Nhơn là người rất đàng hoàng, anh ra anh, em ra em, làm việc rất kỹ lưỡng.
Ðại Úy Tập mới nói đến đó thì cuộc thi tác xạ lại tiếp tục, nên câu chuyện phải tạm ngưng. Tôi trở lên Văn Thánh để tìm Thiếu Úy Hồng. Buổi chiều, đứng trên Văn Thánh nhìn ra trước mặt là sông Hương, sau lưng là tượng các ông quan văn đứng thành từng hàng. Nắng buổi chiều chiếu lên những đồi sim tạo nên một khung cảnh thật trữ tình, chỉ tiếc là trong thời chinh chiến nên vắng bóng những đôi tình nhân bên bờ sông Hương.
Ðại Tá Nguyễn Ðức Khoái, Chỉ Huy Trưởng Biệt Ðộng Quân/Quân Khu I cho người mời Thiếu Úy Hồng đến gặp tôi. Chúng tôi mỗi người ngồi trên một thùng đạn. Ngoài chiến tuyến, cái gì cũng đơn giản. Ðiều quan trọng nhất là còn thấy mặt nhau. Có nhiều người mới gặp hôm nay, ngày mai nghe họ đã hy sinh. Và trong cuộc chiến này, mỗi giờ, mỗi ngày, bao nhiêu người đã đột ngột giã từ gia đình, bạn bè của mình như vậy?
Thiếu Úy Hồng dáng gầy như thư sinh. Ông ngồi yên lặng, đầu cúi xuống như cố nén một sự xúc động trước khi nhắc lại những giờ phút không thể nào quên được. Một lát sau, ông ngước mặt lên, nét mặt thật buồn, kể lại trận đánh đã xảy ra.
Ngày hôm đó, lúc 5 giờ sáng, trực thăng bốc Tiểu Ðoàn 37 của chúng tôi đổ xuống vị trí đã định. Chúng tôi vừa tiến vào nhà thờ trong làng thì đụng địch liền, địch khoảng một trung đoàn. Chúng tôi thanh toán xong các mục tiêu thì xe tăng Việt Cộng từ phía Tây Bắc xuất hiện, nhưng bị tuyến trước của mình diệt ngay.
Từ 6 giờ sáng đến 11 giờ trưa, anh em chúng tôi thâu nhặt chiến lợi phẩm, hơn 100 cây súng, còn xác địch thì đếm không hết. Lúc đó, Tiểu Ðoàn 21 Biệt Ðộng Quân của Thiếu Tá Quách Thưởng cùng tiến song song với chúng tôi hướng về mục tiêu. Ðùng một cái, xe tăng Cộng quân xuất hiện tứ phía. Thì ra chúng giấu xe, dựng những vách tre đan có trét đất như nhà của dân để ngụy trang. Xe tăng của chúng vừa xuất hiện liền tiến thẳng vào Bộ Chỉ Huy của Tiểu Ðoàn, đặc biệt chúng tìm sĩ quan chỉ huy mà bắn cho gục.
Khi xe tăng địch vừa xông đến, Trung Tá Nhơn ra lệnh bố trí bắn chiến xa. Nhưng xe tăng đã đến quá gần, chiếc đi đầu cán lên mình hai người mang máy truyền tin. Trung Tá Nhơn nhất định không tháo lui. Một mặt ông ra lệnh bắn chiến xa, một mặt gọi máy bay đến xạ kích. Ông đứng sừng sững chỉ huy giữa những lằn đạn từ các chiến xa bắn đến như mưa.
Lát sau, Trung Tá Nhơn bị một viên đạn ngay đầu, ngã xuống. Tôi đang đứng sát một bên, nhào tới ôm ông và đặt đầu ông lên đùi của tôi. Ông đã chết. Tôi nuốt nước mắt mà vuốt mắt cho ông. Lúc đó tôi mới nhìn thấy mình đang giao chiến trên một cồn cát. Máu từ đầu Trung Tá Nhơn đổ xuống một vũng đỏ thắm trên màu cát trắng tinh.
Chúng tôi ngồi yên lặng một lúc trước khi Thiếu Úy Hồng kể tiếp trận chiến kết thúc như thế nào. Trời chuyển cơn mưa rất nhanh. Cơn mưa làm dịu ánh nắng của chiều hè. Trời mưa nhưng nắng vàng không tắt. Ánh nắng nhạt dần và màu tím của những cánh hoa sim ngả qua màu tím thẫm. Mưa vẫn rơi trên những đồi sim.
Tôi vào Ðà Nẵng, đi với chị Phạm Văn Lương đến thăm gia đình của Trung Tá Nhơn đang ở cư xá Ðoàn Kết. Gia đình của anh Nhơn ở đây gồm có cha mẹ già, chị Nhơn và đứa con nhỏ. Chị Nhơn nắm tay tôi thật chặt:
– Cô Kiều Mỹ Duyên phải không?
Ðã hơn 7 năm rồi mới gặp lại, đang lúc đau buồn như vậy mà chị cũng nhận ra tôi ngay. Chị có vẻ bình tĩnh, hay đúng hơn là rất cố gắng để bình tĩnh, bởi vì anh Nhơn là con một, chị là dâu một trong nhà, còn ai gánh vác cho lúc này và cả những chuỗi ngày đằng đẵng trước mắt. Hiện chị Nhơn đang dạy học ở trường Văn Hóa Quân Ðội. Bà cụ cũng đến nắm tay tôi, ứa nước mắt kể lể:
– Chúng tôi chỉ có một mình nó. Nó đi đâu là tôi đi theo đó. Ðóng đồn ở Lộc Giang, tận trong Hậu Nghĩa tôi cũng theo vào. Hành quân ngoài Quảng Trị tôi cũng ra thăm, không sợ bom đạn. Bây giờ thì đi luôn rồi, cô ơi!
Anh là con một, có cha mẹ già, anh có thể khỏi phải đi lính, hoặc làm lính ở văn phòng. Nhưng anh đã chọn con đường binh nghiệp, anh tình nguyện vào Võ Bị, anh tình nguyện đội chiếc Mũ Nâu, mặc áo hoa rừng và hy sinh cả một đời trai cho chiến trận.
Buổi tối tôi ở lại với chị Nhơn để an ủi chị. Tôi xin chị cho xem hình của hai vợ chồng chị. Hai người quen nhau từ lúc còn nhỏ, yêu nhau rồi mới cưới nhau, mà chỉ vỏn vẹn có mấy tấm hình, hình thì cũ, đã ngả sang màu vàng.
Khi đi ngủ, trong phòng khách, kế nơi bàn thờ, chị Nhơn treo một chiếc áo trận của chồng. Dưới ánh đèn mờ mờ, chiếc áo lung linh như anh Nhơn trở về. Trước mặt mọi người, chị Nhơn không khóc, nhưng nửa đêm chợt thức giấc, tôi thấy chị úp mặt vào gối, cố dằn tiếng khóc nức nở, nghẹn ngào.
Cư xá Ðoàn Kết gần với phi trường Ðà Nẵng và Tổng Y Viện Duy Tân. Trong đêm vắng, giữa những tiếng phản lực của những chiến đấu cơ xé gió, còn có tiếng cánh quạt ù ù của những chiếc trực thăng tải thương lên xuống liền liền. Trong những chuyến tải thương đó, có những chuyến chở xác chồng về cho những người vợ vừa trở thành góa phụ đêm nay.
(Còn tiếp)
No comments:
Post a Comment